CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÀI SẢN NGẮN HẠN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
TÀI SẢN NGẮN HẠN TRONG DOANH NGHIỆP
1.1. Tổng quan về tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp
1.1.1. Tổng quan về doanh nghiệp
Theo luật doanh nghiệp 2005: “Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tên riêng, có
tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật
nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”, tức là thực hiện một, một số hay tất
cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng
các dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, hoạt động kinh
doanh trên thị trường nhằm làm tăng giá trị của chủ sở hữu.
1.1.2. Tổng quan về tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm tài sản ngắn hạn
Theo Giáo trình “ Tài chính - Tiền tệ - Ngân hàng” của PGS. TS Nguyễn Văn Tiến,
NXB Thống Kê, năm 2009, : “tài sản ngắn hạn (TSNH) là những tài sản sử dụng cho quá
trình sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp, có thời gian sử dụng, luân chuyển, thu hồi
trong một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh”.
1.1.2.2. Phân loại tài sản ngắn hạn
Trên thưc tế có nhiều cách phân loại TSNH, nhưng hai cách phổ biến nhất đó là
phân loại theo hình thái biểu hiện và phân loại theo tính chất tham gia luân chuyển.
Phân loại theo hình thái biểu hiện, TSNH được chia thành năm loại:
- Tiền: Tiền bao gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển, tiền
dưới dạng séc các loại, tiền trong thẻ tín dụng và trong tài khoản ATM. Tiền là loại tài sản
có tính thanh khoản cao nhất, đứng đầu tiên bên tài sản trên bảng cân đối kế toán. Loại tài
sản này có thể dễ dàng chuyển đổi thành các tài sản khác hoặc thanh toán các nghĩa vụ tài
chính cho doanh nghiệp, bởi vậy nó cho phép doanh nghiệp duy trì khả năng chi trả và
phòng tránh rủi ro thanh toán. Bên cạnh đó các tài sản dạng đặc biệt như: vàng, bạc, đá
quý, kim khí quý được dùng chủ yếu cho mục đích dự trữ.
- Đầu tư tài chính ngắn hạn: Là các khoản đầu tư tài chính có thời hạn thu hồi
vốn không quá 1 năm tài chính hoặc trong một chu kỳ kinh doanh.
- Các khoản phải thu: hay còn gọi là các khoản tín dụng thương mại bao gồm các
khoản phải thu khách hàng, trả trước cho người bán, thuế giá trị gia tăng được khấu trừ,
phải thu nội bộ và các khoản phải thu khác. Khi tiến hành sản xuất doanh nghiệp cần phải
có các mối quan hệ rộng rãi nhằm tiêu thụ được sản phẩm. Muốn vậy doanh nghiệp cần
1
phải bán chịu cho các khách hàng tin cậy nhằm tăng khách hàng đồng thời mở rộng mạng
lưới tiêu thụ sản phẩm. Các khoản phải thu này cũng có thể được hình thành qua việc
doanh nghiệp đặt hàng ở nhà cung cấp nhưng chưa lấy hàng về như đặt hàng nguyên vật
liệu hoặc các khoản tạm ứng cho công nhân viên chưa thu về.
- Hàng tồn kho bao gồm:
+ Hàng tồn kho trong khâu dự trữ: bao gồm vật tư dự trữ. Đây là các loại nguyên
vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, vật đóng gói và công cụ dụng cụ
phục vụ cho SXKD của doanh nghiệp.
+ Hàng tồn kho trong khâu sản xuất: bao gồm các sản phẩm dở dang (sản phẩm
đang chế tạo).
+ Hàng tồn kho trong khâu tiêu thụ: bao gồm thành phẩm. Đây là giá trị những
sản phẩm đã được sản xuất xong, đạt tiêu chuẩn kỹ thuật và đã được nhập kho.
- Chi phí trả trước: Là những khoản chi phí lớn hơn thực tế đã phát sinh có liên
quan đến nhiều chu kỳ kinh doanh nên được phân bổ vào giá thành sản phẩm của nhiều
chu kỳ kinh doanh như: chi phí thuê tài sản, chi phí nghiên cứu thí nghiệm, cải tiến kỹ
thuật, chi phí xây dựng, lắp đặt các công trình tạm thời, chi phí về ván khuôn, giàn giáo,
phải lắp dùng trong xây dựng cơ bản …
Phân loại theo tính chất tham gia luân chuyển:
- Tài sản ngắn hạn trong khâu sản xuất bao gồm các tài sản dự trữ cho quá trình
sản xuất như nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu và tài sản trong sản xuất như sản phẩm dở
dang, bán thành phẩm.
- Tài sản ngắn hạn trong khâu lưu thông là toàn bộ các tài sản dự trữ cho quá
trình lưu thông của doanh nghiệp bao gồm: thành phẩm, hàng gửi bán và các tài sản
trong quá trình lưu thông như các khoản phải thu, vốn bằng tiền.
- Tài sản ngắn hạn trong khâu dự trữ tài chính là những khoản đầu tư tài
chính ngắn hạn với mục đích sinh lời, bao gồm: đầu tư chứng khoán ngắn hạn, đầu tư
liên doanh.
1.1.2.3. Vai trò của TSNH đối với hoạt động sản xuất kinh doanh:
TSNH là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình sản xuất. Trong cùng
một lúc, TSNH của doanh nghiệp được phân bổ trên khắp các giai đoạn luân chuyển.
Muốn cho quá trình tái sản xuất được liên tục doanh nghiệp cần phải đảm bảo đủ về nhu
cầu TSNH. Nếu không quá trình sản xuất sẽ bị gián đoạn, gặp nhiều trở ngại, tăng chi phí
hoạt động và dẫn tới kết quả kinh doanh không tối ưu.
2
Thang Long University Library
Trong quá trình theo dõi sự vận động của TSNH, doanh nghiệp quản lý như được
toàn bộ các hoạt động diễn ra trong chu kỳ sản xuất kinh doanh. Vì vậy mà TSNH có ảnh
hưởng lớn đến việc thiết lập chiến lược sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Quy mô TSNH có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất. Với một quy mô
TSNH hợp lý sẽ giúp cho doanh nghiệp giảm được chi phí, tăng hiệu quả hoạt động, từ đó
tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Ngoài ra cơ cấu TSNH còn thể hiện phần nào tình hình tài chính hiện tại của doanh
nghiệp. Cụ thể: khả năng sinh lời của các khoản đầu tư ngắn hạn, tính an toàn cao hay
thấp của các khoản phải thu, mức độ phụ thuộc của doanh nghiệp đối với sự biến động
của thị trường (nguyên, nhiên vật liệu, hàng hoá,…).
1.2. Hiệu quả sử dụng TSNH trong doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm hiệu quả sử dụng TSNH
Hiệu quả sử dụng TSNH là một phạm trù kinh tế phản ánh tình hình sử dụng
TSNH của doanh nghiệp để đạt được hiệu quả cao nhất trong kinh doanh với tổngchi
phí thấp nhất. Hiệu quả TSNH được biểu hiện tập trung ở các mặt sau:
- Khả năng sử dụng tiết kiệm, hợp lý TSNH của doanh nghiệp càng cao và càng
tăng so với mức sử dụng chung của ngành và so với kỳ trước đó. Việc sử dụng tiết kiệm
TSNH chỉ là một chỉ tiêu cần được xem xét khi tính hiệu quả sử dụng TSNH. Bởi nó giúp
doanh nghiệp giảm chi phí, không phải tài trợ thêm cho TSNH khi mở rộng quy mô, từ đó
tăng lợi nhuận và đáp ứng đầy đủ, thuận lợi cho quá trình sản xuất kinh doanh.
- Tốc độ luân chuyển cao của TSNH trong quá trình sản xuất. Đây cũng là biểu hiện
của hiệu quả sử dụng TSNH vì khi TSNH có tốc độ luân chuyển cao thì khả năng thu hồi
vốn cao và nhanh, tiếp tục tái đầu tư cho kỳ sản xuất tiếp theo, chớp được cơ hội kinh
doanh và tăng khả năng cạnh tranh.
- Khả năng sinh lời và khả năng sản xuất của TSNH phải cao, không ngừng tăng so
với ngành và giữa các thời kỳ. Điều này có nghĩa là một đồng giá trị TSNH phải đem lại
một khoản doanh thu cao (thể hiện khả năng sản xuất) và một khoản lợi nhuận cao (thể
hiện khả năng sinh lời).
- Ngoài ra hiệu quả sử dụng TSNH của doanh nghiệp còn là việc doanh nghiệp có
một kết cấu tài sản hợp lý cùng với một kết cấu tối ưu của TSNH.
1.2.2. Sự cần thiết nâng cao hiệu quả TSNH
Để có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, mỗi doanh nghiệp phải có một
lượng vốn nhất định và nguồn tài trợ tương ứng, không có vốn sẽ không có bất kỳ hoạt
động sản xuất kinh doanh nào. Song việc sử dụng vốn như thế nào cho có hiệu quả cao
mới chính là yếu tố quyết định cho sự tăng trưởng và phát triển của các doanh nghiệp. Với
3
ý nghĩa đó, việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn đóng vai trò hết sức quan
trọng trong doanh nghiệp.
Cụ thể, sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả sử dụng TSNH là:
- Nâng cao hiệu quả sử dụng TSNH sẽ góp phần nâng cao năng suất và khả năng
tiêu thụ hàng hóa của doanh nghiệp. Thật vậy, TSNH được sử dụng càng hiệu quả thì
năng lực sản xuất hàng hóa càng cao, chi phí sản xuất cũng giảm xuống khiến cho sản
phẩm của doanh nghiệp có chất lượng không đổi trong khi giá thành lại giảm. Do vậy,
tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, tăng doanh thu và đem lại lợi nhuận tốt nhất cho
doanh nghiệp.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng TSNH giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí đầu tư cho
TSNH. Bởi lẽ, TSNH được sử dụng một cách hợp lí sẽ góp phần đấy nhanh tốc độ lưu
chuyển TSNH, làm cho tài sản quay được nhiều vòng hơn và tạo ra nhiều lợi nhuận hơn
từ một đồng vốn bỏ ra.
- TSNH được sử dụng hợp lí còn góp phần cải thiện tình hình thanh toán cho doanh
nghiệp, tăng cường khả năng chi trả cho các khoản nợ vay. Điều này có ý nghĩa rất quan
trọng bởi vì hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp đều phải vay vốn của ngân hàng hay các
đối tượng khác để bù đắp phần thiếu hụt của đơn vị mình dẫn đến một thực trạng là riêng
số tiền lãi phải trả hàng năm đã chiếm một tỷ trọng đáng kể trong chi phí sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
Từ những lý do trên, cho thấy sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả công tác quản lý
và sử dụng tài sản ngắn hạn trong các doanh nghiệp. Đó là một trong những nhân tố quyết
định cho sự thành công của một doanh nghiệp, xa hơn nữa là sự tăng trưởng và phát triển
của nền kinh tế.
1.2.3. Phân tích hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp
1.2.3.1. Phân tích về cơ cấu của tài sản ngắn hạn
Quy mô tài sản ngắn hạn được hiểu là tỉ trọng tài sản ngắn hạn trên tổng tài sản của
doanh nghiệp. Tỷ trọng tài sản ngắn hạn cao hay thấp tùy thuộc vào loại hình hoạt động
sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp. Đối với những doanh nghiệp thương mại,
chuyên phân phối hàng hóa và sản phẩm thì tỉ trọng tài sản ngắn hạn luôn rất cao, thường
chiếm đến hơn 90% trên tổng tài sản. Mặt khác, những doanh nghiệp sản xuất, hay các
doanh nghiệp vận tải, xây dựng... lại có tỉ trọng tài sản ngắn hạn thấp hơn một chút do đặc
điểm hoạt động của các doanh nghiệp này yêu cầu phải đầu tư nhiều hơn cho tài sản dài
hạn. Xem xét quy mô tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp, nhằm đánh giá xem liệu lượng
vốn đầu tư cho tài sản ngắn hạn có phù hợp với đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp hay
4
Thang Long University Library
không. Từ đó, đưa ra những điều chỉnh trong chính sách đầu tư nhằm tối đa hóa lợi nhuận
của doanh nghiệp.
Xem xét cơ cấu tài sản ngắn hạn tức là xem xét tỷ trọng từng khoản mục nhỏ trong
tổng tài sản ngắn hạn, nó cho biết trong tổng tài sản ngắn hạn khoản mục nào đang được
doanh nghiệp đầu tư nhiều nhất, từ đó đánh giá được cơ cấu tài sản ngắn hạn đã hợp lý
hay chưa. Các khoản mục nhỏ cấu thành lên tài sản ngắn hạn là:
Tiền và các khoản tƣơng đƣơng tiền
Nếu tỷ trọng tiền và các khoản tương đương tiền đang chiếm phần lớn trên tổng tài
sản ngắn hạn của doanh nghiệp, ta có thể đưa ra kết luận rằng doanh nghiệp đấy đang dự
trữ quá nhiều tiền. Việc dự trữ nhiều tiền trong tài khoản sẽ tăng khả năng thanh toán của
doanh nghiệp, nhưng mặt khác nó gây lãng phí do không được đưa vào quá trình đầu tư,
qua đó ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Nhưng doanh nghiệp dữ tỷ trọng tiền
và các khoản tương đương tiền quá thấp thì doanh nghiệp sẽ dễ gặp phải rủi ro thanh
khoản. Hơn nữa, dự trữ tiền mặt trong tài khoản quá thấp cũng gây ảnh hưởng đến việc
chi tiêu trong các hoạt động thường ngày của doanh nghiệp.
Các khoản đầu tƣ tài chính ngắn hạn
Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao cho thấy doanh nghiệp đang
đầu tư nhiều vào hoạt động tài chính như: mua các chứng khoán, trái phiếu, tín phiếu ngắn
hạn hay đầu tư nhiều tiền nhàn rỗi vào các khoản tiền gửi có kỳ hạn trong ngân hàng. Tỷ
trọng các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn cao hay thấp phụ thuộc nhiều vào loại hình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thường thì các doanh nghiệp không chuyên về lĩnh
vực tài chính sẽ hạn chế đầu tư vào các khoản tài chính ngắn hạn để tránh rủi ro do hạn
chế về mặt kiến thức của lĩnh vực này. Những biến động của thị trường chứng khoán, tỷ lệ
lạm phát hay lãi suất ngân hàng cũng ảnh hưởng rất lớn đến tỷ trọng các khoản đầu tư tài
chính ngắn hạn của doanh nghiệp.
Các khoản phải thu
Tỷ trọng các khoản phải thu sẽ phản ảnh chính sách tín dụng của doanh nghiệp. Các
khoản phải thu, đặc biệt là phải thu khách hàng chiếm tỷ trọng lớn cho thấy doanh nghiệp
đang nới lỏng chính sách tín dụng và ngược lại, nếu tỷ trọng các khoản này thấp thì doanh
nghiệp đang thắt chặt chính sách tín dụng. Việc nới lỏng hay thắt chặt chính sách tín dụng
phụ thuộc nhiều vào tình hình biến động của nền kinh tế cũng như chính sách bán hàng và
chính sách sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Như vậy, việc phân tích quy mô và cơ cấu tài sản ngắn hạn sẽ giúp doanh nghiệp
đánh giá xem lượng vốn đầu tư cho tài sản ngắn hạn và dài hạn đã phù hợp chưa. Các
khoản mục nhỏ cấu thành lên tài sản ngắn hạn đã chiếm tỷ trọng hợp lý với đặc điểm hoạt
5
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hay chưa. Từ đó, đưa ra chính sách quản lý
tài sản ngắn hạn hiệu quả.
Hàng tồn kho
Nếu tỷ trọng hàng tồn kho quá cao cho thấy lượng vốn bị tồn đọng trong hàng tồn
kho lớn, lượng vốn đấy không được đưa vào lưu thông sẽ ảnh hưởng đến khả năng sinh
lời của doanh nghiệp. Hơn nữa, lượng hàng tồn kho lớn còn thể hiện hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp còn trì trệ và không được hiệu quả. Nhưng nếu giữ tỷ trọng
hàng tồn kho thấp sẽ khiến doanh nghiệp rơi vào tình trạng không, nguyên vậy liệu để sản
xuất và không đủ hàng hóa cung cấp cho khách hàng. Do vậy việc xem xét tỷ trọng hàng
tồn kho sẽ giúp doanh nghiệp nhận định được thực trạng lượng hàng tồn kho của mình, từ
đó điều chỉnh theo hướng hợp lý nhất nhằm nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp.
1.2.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng TSNH
a) Các chỉ tiêu về khả năng thanh toán
Khả năng thanh toán ngắn hạn cho biết khả năng chuyển đổi tài sản có tính thanh
khoản cao thành tiền để đáp ứng nhu cầu trong ngắn hạn. Tài sản ngắn hạn gồm 3 loại chủ
yếu là: Tiền, các khoản phải thu và hàng tồn kho. Khả năng thanh toán ngắn hạn được tích
bằng công thức:
Khả năng thanh toán
ngắn hạn
Tài sản ngắn hạn
=
Nợ ngắn hạn
Khi hệ số này ở mức nhỏ hơn 1, thể hiện khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của
doanh nghiệp là yếu tố dẫn đến rủi ro tài chính, rủi ro thanh khoản cao. Ngược lại, nếu hệ
số này ở mức lớn hơn 1, cho thấy khả năng thanh toán của doanh nghiệp là tương đối tốt,
đủ khả năng đảm bảo thanh toán cho các khoản nợ ngắn hạn. Song nếu hệ số này cao quá,
tức là lượng TSNH tồn trữ quá lớn và bộ phận tài sản này không vận động, không sinh lời
sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Hệ số này lớn hay nhỏ hơn còn phụ thuộc vào đặc điểm ngành nghề kinh doanh của
doanh nghiệp. Chẳng hạn đối với doanh nghiệp thương mại,TSNH thường chiếm tỷ trọng
lớn hơn trong tổng tài sản nên hệ số này tương đối cao. Do đó, khi đánh giá khả năng
thanh toán nợ ngắn hạn cần phải dựa vào hệ số trung bình của doanh nghiệp cùng ngành.
Tuy nhiên, hệ số này chỉ phản ánh một cách tạm thời tình hình thanh toán của doanh
nghiệp vì tài sản ngắn hạn bao gồm cả các khoản phải thu và hàng tồn kho. Chính vì vậy
để đánh giá chính xác hơn về khả năng thanh toán của doanh nghiệp, ta cần xét thêm một
số chỉ tiêu khác nữa.
6
Thang Long University Library
Khả năng thanh toán nhanh phản ánh khả năng thanh toán thực sự của doanh
nghiệp trước các khoản nợ ngắn hạn, nó cho biết những chỉ tiêu có tính thanh khoản cao
nhất trong tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp có đáp ứng được nhu cầu nợ ngắn hạn hay
không mà không cần sử dụng tới hàng tồn kho. Khả năng thanh toán nhanh có công thức
tính là:
TSNH – Hàng tồn kho
Khả năng thanh toán
nhanh
=
Nợ ngắn hạn
Hệ số này thường được so sánh với hệ số trung bình của ngành, thông thường khả
năng thanh toán của công ty được đánh giá an toàn khi hệ số này > 1 vì công ty có thể
trang trải các khoản nợ ngắn hạn mà không cần bán bớt hàng tồn kho.
Đây là chỉ tiêu được các chủ nợ ngắn hạn rất quan tâm vì thông qua các chỉ tiêu này,
các chủ nợ có thể đánh giá được tại thời điểm phân tích doanh nghiệp có khả năng thanh
toán ngay các khoản nợ ngắn hạn hay không. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, chỉ tiêu
này chưa phản ánh một cách chính xác khả năng thanh toán của doanh nghiệp, đặc biệt là
các doanh nghiệp có khoản phải thu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng TSNH. Do đó, để đánh
giá chính xác và chặt chẽ hơn cần xem xét thêm khả năng thanh toán tức thời của doanh
nghiệp.
Khả năng thanh toán tức thời cho biết tiền và các khoản tương đương tiền có đáp
ứng được nhu cầu thanh toán cho các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp hay không.
Khẳ năng thanh toán tức thời được tính bằng:
Khả năng thanh toán
tức thời
Tiền và các khoản tương đương tiền
=
Nợ ngắn hạn
Hệ số khả năng thanh toán tức thời là một chỉ tiêu đánh giá sát hơn khả năng thanh
toán của doanh nghiệp. Trong đó, tiền bao gồm: tiền mặt, tiền gửi, tiền đang chuyển. Các
khoản tương đương tiền là các khoản đầu tư ngắn hạn (dưới 3 tháng) có thể chuyển đổi
thành tiền bất cứ lúc nào như: chứng khoán ngắn hạn, thương phiếu… Đây là các tài sản
có tính thanh khoản cao, độ rủi ro thấp.
Tùy thuộc vào ngành nghề kinh doanh mà tỷ số về khả năng thanh toán tức thời
bằng bao nhiêu là hợp lý. Thông thường, tỷ số này xấp xỉ 0,5 là tốt. Nếu quá lớn cho thấy
tài sản của doanh nghiệp tồn tại dưới dạng tiền nhiều làm cho hiệu quả sử dụng tài sản của
doanh nghiệp sẽ không cao. Ngược lại, nếu tỷ số này quá nhỏ lại phản ánh một tình hình
tài chính không lành mạnh, khó khăn trong việc thanh toán các khoản nợ phải trả ngay.
7
b) Chỉ tiêu phản ánh tốc độ luân chuyển của tài sản ngắn hạn
Số vòng quay của TSNH (Sức sản xuất của TSNH)cho biết số vòng quay của
TSNH thực hiện trong một thời kỳ nhất định. Nó cho biết một đồng TSNH bình quân bỏ
ra có thể tạo ra được bao nhiêu đồng tổng doanh thu. Số vòng quay càng lớn, hiệu quả sử
dụng TSNH càng cao và ngược lại. Số vòng quay TSNH được tính bằng công thức:
Doanh thu thuần
Số vòng quay TSNH
=
Tài sản ngắn hạn
Thời gian một vòng quay của TSNH cũng phản ánhtốc độ luân chuyển của tài sản
ngắn hạn còn được thể hiện dưới dạng thời gian của một vòng quay. Được tính bằng công
thức:
360
Thời gian một vòng
quay của TSNH
=
Vòng quay TSNH
Thời gian của một vòng quay ngắn cũng tức là tốc độ luân chuyển tài sản ngắn hạn
nhanh và doanh nghiệp có thể thu hồi vốn sớm.
Hệ số đảm nhiệm TSNH cho biết doanh nghiệp muốn có 1 đồng luân chuyển thuần
thì phải đầu tư bao nhiêu đồng tài sản ngắn hạn. Hệ số này được tính bằng công thức:
Tài sản ngắn hạn
Hệ số đảm nhiệm TSNH
=
Doanh thu thuần
Thông qua chỉ tiêu này các nhà phân tích sẽ xây dựng được các kế hoạch đầu tư tài
sản của mình, đồng thời có cơ sở để đánh giá tính chính xác của kế hoạch đầu tư tài sản
hiện tại.
c) Chỉ tiêu phản ảnh khả năng sinh lời
Tỷ suất sinh lời của tài sản ngắn hạnphản ánh khả năng sinh lời của tài sản ngắn
hạn. Nó cho biết mỗi đơn vị tài sản ngắn hạn có trong kỳ đem lại bao nhiêu đơn vị lợi
nhuận sau thuế.Chỉ tiêu này được tính bằng công thức:
Tỷ suất sinh lời của
TSNH
Lợi nhuận sau thuế
=
Tài sản ngắn hạn
Tỷ suất sinh lời của tài sản ngắn hạn phản ánh mỗi đồng tài sản ngắn hạn sử dụng
trong kỳ đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp
đều mong muốn chỉ số này càng cao càng tốt vì như vậy đã sử dụng được hết giá trị của
tài sản ngắn hạn. Hiệu quả của việc sử dụng tài sản ngắn hạn thể hiện ở lợi nhuận của
doanh nghiệp, đây chính là kết quả cuối cùng mà doanh nghiệp đạt được. Kết quả này
8
Thang Long University Library
phản ánh hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng tài sản
ngắn hạn nói riêng. Với công thức trên ta thấy, nếu tài sản ngắn hạn sử dụng trong kỳ thấp
mà lợi nhuận sau thuế cao thì hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn cao.
Để phân tích tỷ suất sinh lời của TSNH, ta có thể xác định các nhân tố ảnh hưởng
theo phương pháp Dupont như sau:
Tỷ suất sinh lời
=
của TSNH
Tỷ suất sinh
lời của TSNH
Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu thuần
x
Doanh thu thuần
TSNH bình quân
= Tỷ suất sinh lời của x Số vòng quay của TSNH
tổng doanh thu thuần
Dựa vào mô hình này, ta thấy được mối liên hệ của các chỉ tiêu tài chính với nhau và
ảnh hưởng của chúng đến hiệu quả sử dụng TSNH của doanh nghiệp. Cũng nhờ có mô
hình Dupont ta có thể xem xét các thành phần tác động tới tỉ suất sinh lời của tài sản ngắn
hạn, từ đó có biện pháp kiểm soát tốt các thành phần đó nhằm đạt được tỉ suất sinh lời trên
tài sản ngắn hạn như mong muốn.
Như vậy, theo mô hình Dupont, tỷ suất sinh lời trên tài sản ngắn hạn chịu ảnh hưởng
của 2 nhân tố: tỷ suất sinh lời của tổng doanh thu thuần và số vòng quay của tài sản ngắn
hạn. Muốn cho tỷ suất sinh lời của TSNH cao thì cần có các biện pháp nâng cao 2 nhân tố
ảnh hưởng trên.
Suất hao phí của tài sản ngắn hạn so với lợi nhuận sau thuế cho biết để có được
một đồng lợi nhuận sau thuế trong kỳ thì doanh nghiệp cần đầu tư bao nhiêu đồng TSNH.
Chỉ tiêu này nhỏ chứng tỏ hiệu quả sử dụng TSNH của công ty tốt và ngược lại. Suất hao
phí lợi nhuận sau thuế được tính bằng công thức:
TSNH
Suất hao phí của TSNH trên lợi
nhuận sau thuế
=
Lợi nhuận sau thuế
d) Chỉ tiêu đánh giá năng lực hoạt động của TSNH
Vòng quay hàng tồn kho phản ánh mối quan hệ giữa hàng tồn kho và giá vốn
hàng bán trong một kỳ kinh doanh theo công thức:
Giá vốn hàng bán
Vòng quay hàng tồn kho
=
Hàng tồn kho
Chỉ tiêu vòng quay hàng tồn kho thể hiện khả năng quản trị hàng tồn kho của doanh
nghiệp hiệu quả như thế nào. Vòng quay hàng tồn kho là số lần mà hàng hóa tồn kho bình
quân luân chuyển trong kỳ.
9
Chỉ tiêu này thường được so sánh qua các năm để đánh giá năng lực quản trị hàng
tồn kho là tốt hay xấu. Chỉ tiêu này lớn cho thấy tốc độ quay vòng của hàng hóa trong kho
là nhanh và ngược lại, nếu nó nhỏ thì tốc độ quay vòng hàng tồn kho thấp.
Tỷ số này có giá trị cao sẽ ủng hộ lòng tin của khách hàng vào khả năng thanh toán
của doanh nghiệp, nếu tỷ số thấp sẽ cho thấy tình hình sản xuất kinh doanh trì trệ và kém
năng động của doanh nghiệp đó. Nhưng cũng có thể doanh nghiệp tăng mức dự trữ
nguyên vật liệu khi dự đoán trước giá sản phẩm sẽ tăng hoặc do có sự gián đoạn trong
khâu cung cấp nguyên vật liệu cho sản xuất. Bởi vậy khi so sánh cần có thêm những
thông tin về dự trữ nhằm đảm bảo tính chuẩn xác. Đây là một chỉ tiêu khá quan trọng để
đánh giá hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Tỷ số này đo lường tính
thanh khoản của hàng tồn kho. Nếu việc quản lý hàng tồn kho của doanh nghiệp không
hiệu quả sẽ phát sinh chi phí lưu trữ hàng tồn kho làm giá bán tăng.
Chu kỳ lƣu kho: Cho ta biết trung bình kể từ khi doanh nghiệp mua hàng đến khi
bán được hàng mất bao nhiêu thời gian.
Chu kỳ lưu kho
360
=
Vòng quay hàng tồn kho
Việc doanh nghiệp duy trì hàng tồn kho thấp có thể khiến vòng quay hàng tồn kho
tăng lên tuy nhiên tại một số thời điểm có thể doanh nghiệp sẽ không đủ hàng hoá để đáp
ứng nhu cầu của thị trường làm cho doanh thu bị giảm đi. Do đó, hàng tồn kho có ảnh
hưởng trược tiếp tới hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn ở khâu dự trữ.Nếu hệ số này thấp
chứng tỏ công tác quản lý hàng tồn kho càng tốt, hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn càng
cao.
Vòng quay các khoản phải thu phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản phải thu
thành tiền mặt của doanh nghiệp và được xác định theo công thức:
Vòng quay các khoản
phải thu
Doanh thu thuần
=
Các khoản phải thu
Đây là chỉ số cho thấy tính hiệu quả của chính sách tín dụng mà doanh nghiệp áp
dụng đối với các bạn hàng. Chỉ số vòng quay càng cao cho thấy doanh nghiệp được khách
hàng trả nợ càng nhanh. Nhưng nếu so sánh với các doanh nghiệp cùng ngành mà chỉ số
này vẫn quá cao thì có thể doanh nghiệp sẽ có thể bị mất khách hàng vì các khách hàng sẽ
chuyển sang tiêu thụ sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh cung cấp thời gian tín dụng dài
hơn. Và như vậy thì doanh nghiệp chúng ta sẽ bị sụp giảm doanh số. Khi so sánh chỉ số
này qua từng năm, nhận thấy sự sụt giảm thì rất có thể là doanh nghiệp đang gặp khó khăn
10
Thang Long University Library
với việc thu nợ từ khách hàng và cũng có thể là dấu hiệu cho thấy doanh số đã vượt quá
mức.
Kỳ thu tiền bình quân: Chỉ tiêu này phản ánh số ngày cần thiết để thu được các
khoản phải thu (số ngày của một vòng quay các khoản phải thu). Vòng quay các khoản
phải thu càng lớn thì kỳ thu tiền trung bình càng nhỏ và ngược lại. Kỳ thu tiền trung
bình được xác định theo công thức:
360
Kỳ thu tiền bình quân
=
Vòng quay các khoản phải thu
Tuy nhiên trong nhiều trường hợp kỳ thu tiền bình quân cao hay thấp chưa thể có
kết luận chắc chắn, mà còn phải xem xét lại các mục tiêu và chính sách của doanh
nghiệp như: mục tiêu mở rộng thị trường, chính sách tín dụng của doanh nghiệp. Mặt
khác dù chỉ tiêu này có thể đánh giá là khả quan thì doanh nghiệp cần phải phân tích
kỹ hơn vì tầm quan trọng của nó và kỹ thuật tính toán đã che dấu đi các khuyết tật
trong việc quản trị các khoản phải thu.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, việc tồn tại các khoản phải thu trong
doanh nghiệp là điều khó tránh khỏi. Nhờ các chính sách bán chịu mà doanh nghiệp có
thể thu hút thêm khách hàng, mở rộng thị trường, duy trì thị trường có sẵn, nâng cao
hiệu quả sử dụng máy móc, thiết bị…Tuy nhiên việc bán chịu có thể khiến doanh
nghiệp chịu rủi ro, đó là việc giảm giá trị hàng hoá, tốc độ chu chuyển vốn chậm, rủi
ro về khả năng thu hồi nợ. Do đó doanh nghiệp cần phải quan tâm đến kỳ thu tiền bình
quân và đưa ra các chính sách nhằm rút ngắn thời gian này.
Vòng quay các khoản phải trả được tính bằng công thức:
Vòng quay các
khoản phải trả
GVHB + Chi phí chung, chi phí bán hàng, quản lý
=
Phải trả người bán + Lương, thưởng, thuế phải trả
Đây là chỉ tiêu nói lên số vòng quay các khoản phải trả, chỉ tiêu này đánh giá bao
nhiêu đồng chi phí bán hàng,chi phí quản lý chung và giá vốn hàng bán bỏ ra thì có 1
đồng DN đi chiếm dụng vốn của khách hàng, người lao động. Chỉ tiêu này càng thấp
càng tốt. Việc chiếm dụng khoản vốn này có thể sẽ giúp doanh nghiệp giảm được chi
phí về vốn, đồng thời thể hiện uy tín về quan hệ thanh toán đối với nhà cung cấp và
chất lượng sản phẩm đối với khách hàng.
Thời gian trả chậm trung bình được tính bằng công thức:
Thời gian trả chậm trung bình
=
360
Vòng quay các khoản phải trả
11
Chỉ tiêu này nói lên độ dài bình quân của một lần luân chuyển tiền hay số ngày bình
quân cần thiết để các khoản trả người bán thực hiện một vòng quay trong kỳ. Thời gian
luân chuyển tiền càng dài càng tốt.
Thời gian luân chuyển tiền mặt của một công ty được định nghĩa là khoảng thời
gian từ khi thanh toán các khoản nợ đến khi thu được tiền và được tính bằng:
Thời gian thu tiền
của khách hàng
+
Thời gian chuyển
đổi hàng tồn kho
–
Thời gian phải
trả người bán
Rút ngắn thời gian luân chuyển tiền mặt làm tăng khả năng sinh lợi của công ty bởi
vì chu kỳ chuyển đổi tiền mặt càng dài thì nhu cầu tài trợ từ bên ngoài với chi phí cao
càng lớn. Do đó, bằng cách giảm thời gian tiền mặt bị ứ đọng trong vốn luân chuyển, công
ty có thể hoạt động hiệu quả hơn vì giảm được chi phí trong điều kiện doanh số của công
ty không đổi. Như vậy, thời gian luân chuyển tiền mặt ngắn hơn sẽ làm tăng khả năng
sinh lợi của công ty vì nó cải thiện hiệu quả của việc sử dụng vốn luân chuyển.
Thời gian luân chuyển tiền mặt cũng là một cách hữu dụng để đánh giá dòng tiền
của công ty bởi vì nó đo lường khoảng thời gian đã đầu tư vào vốn lưu động, cách đo
lường tính thanh khoản này hiệu quả và toàn diện hơn so với phương pháp truyền
thống là sử dụng tỉ số thanh toán hiện hành và tỉ số thanh toán nhanh vốn chỉ tập trung
vào các giá trị cố định trên bảng cân đối kế toán.
1.3. Các nhân tố ảnh hƣởng đến hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn
Tình hình sử dụng tài sản ngắn hạn ở các doanh nghiệp khác nhau là khác nhau.
Hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn còn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố cả ở bên trong và bên
ngoài. Ta có thể xét các nhân tố thành hai nhóm chủ yếu sau:
1.3.1. Nhóm các nhân tố chủ quan
Nhóm các nhân tố chủ quan là nhóm các nhân tố thuộc về phía doanh nghiệp. Một
số các nhân tố chính có thể kể đến như:
Sự phù hợp giữa tài sản cố định và tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp
Mỗi loại hình doanh nghiệp đều có một cơ cấu riêng về tài sản sao cho nó là phù
hợp nhất cho sự phát triển của doanh nghiệp. Sự cân đối giữa tỷ trọng tài sản ngắn hạn với
tài sản cố định sẽ thúc đẩy quá trình phát triển của doanh nghiệp đồng thời nó cũng có tác
động lớn đến hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp.
Nếu trong doanh nghiệp lượng tài sản ngắn hạn quá nhiều so với nhu cầu của doanh
nghiệp, trong khi đó tài sản cố định thì không đủ cho hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp được diễn ra một cách bình thường, điều này cũng sẽ làm ảnh hưởng lớn đến hiệu
quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp, dễ gây ứ đọng tài sản ngắn hạn tốn kém chi phí lưu
12
Thang Long University Library
kho, nhưng cũng không đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh khi không có đủ tài sản
ngắn hạn cho hoạt động kinh doanh.
Nếu tài sản ngắn hạn quá ít không đủ cho hoạt động kinh doanh, tài sản cố định quá
nhiều sẽ dẫn đến dư thừa tài sản cố định, như vậy doanh nghiệp sẽ gây ra lãng phí nguồn
vốn khi đầu tư vào tài sản cố định làm ứ đọng vốn của doanh nghiệp.
Nói tóm lại, một sự đầu tư không hợp lý vào cả tài sản ngắn hạn hay tài sản cố định
cũng có thể gây ra tình trạng ứ đọng hay thiếu hụt cho doanh nghiệp, cả hai trường hợp
đều không tốt vì không đảm bảo hoạt động cho doanh nghiệp. Vì vậy, doanh nghiệp cần
phải có chính sách đầu tư một cách hợp lý nhất để tiết kiệm được tiền nhưng cũng phải
đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh được diễn ra một cách bình thường và liên
tục.
Các nhân tố thuộc về trình độ quản lý của doanh nghiệp
Việc quản lý và sử dụng tài sản ngắn hạn là hết sức cần thiết đòi hỏi trình độ cán bộ
phải hiểu biết và có chuyên môn cao trong lĩnh vực quản lý. Quản lý và sử dụng tài sản
ngắn hạn phải được lập kế hoạch và thực hiện một cách đồng bộ và khoa học, kế hoạch
quản lý và sử dụng tài sản ngắn hạn phải được lập một cách tỉ mỉ và phải phù hợp với tình
hình hiện tại của doanh nghiệp. Trong quá trình sử dụng tài sản ngắn hạn cần phải quản lý
sao cho không bị lệch kế hoạch cũng như phù hợp với tình hình phát triển kinh doanh của
doanh nghiệp. Vì vậy trình độ quản lý đóng vai trò hết sức quan trọng quyết định tới hiệu
quả sử dụng tài sản ngắn hạn.
Các yếu tố thuộc về trình độ nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là một nhân tố quan trọng chính trong bất cứ doanh nghiệp nào. Đó
là một trong những nhân tố quyết định trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Trình độ của nguồn nhân lực được đo bằng trình độ lành nghề, học vấn, kinh
nghiệm, hiểu biết, vì thế cũng là một nhân tố hết sức quan trọng quyết định hiệu quả sử
dụng tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp. Bởi vì, những cán bộ công nhân trong doanh
nghiệp là những người trực tiếp quản lý và sử dụng tài sản ngắn hạn, nếu nguồn nhân lực
không có trình độ hoặc trình độ kém, tay nghề kém sẽ dẫn đến việc sử dụng tài sản ngắn
hạn không đúng hoặc gây lãng phí làm giảm hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn và làm
cho hiệu quả sản xuất kinh doanh giảm. Vì vậy doanh nghiệp cần phải có chính sách
nhằm đài tạo và phát triển hơn nữa trình độ của cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp,
không chỉ vì mục đích nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn mà còn vì mục đích
phát triển doanh nghiệp.
13
Trình độ công nghệ và khoa học kỹ thuật
Ngày nay, sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ trên thế giới đã buộc
doanh nghiệp phải thay đổi cả về máy móc, thiết bị, trình độ quản lý cũng như nguồn
nhân lực nhằm bắt kịp với sự phát triển của các quốc gia trên thế giới.
Do vậy, trình độ quản lý và sử dụng tài sản ngắn hạn trong các doanh nghiệp cũng
thường xuyên phải thay đổi nhằm cho phù hợp với sự phát triển của khoa học. Các doanh
nghiệp cần phải đầu tư mua sắm máy móc thiết bị hiện đại, các công nghệ hữu ích nhằm
phục vụ cho quá trình phát triển của doanh nghiệp nói chung và để nâng cao hiệu quả sử
dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp nói riêng. Đây là một đòi hỏi hết sức cần thiết đối
với doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Ảnh hưởng của ngành nghề kinh doanh đến hiệu quả sử dụng tài sản ngắn
hạn trong doanh nghiệp
Ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp cũng là nhân tố ảnh hưởng hết sức sâu
sắc tới hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp. Nhìn chung có thể chia các
doanh nghiệp ra thành các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành công nghiệp nặng, các
doanh nghiệp hoạt động trong các ngành công nghiệp nhẹ và các doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực thương mại dịch vụ.
Mỗi một doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau thì sẽ có nhu cầu về
tài sản ngắn hạn là khác nhau, do đó hoạt động quản lý và sử dụng tài sản ngắn hạn cũng
là khác nhau. Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong ngành công nghiệp nặng thì nhu
cầu về tài sản ngắn hạn của họ không cao, chỉ chiếm khoảng 20- 30% trong tổng tài sản
của doanh nghiệp. Còn đối với các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành công nghiệp
nhẹ thì nhu cầu về tài sản ngắn hạn của họ là trung bình khoảng 50% tổng tài sản của
doanh nghiệp. Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ là có nhu
cầu về tài sản ngắn hạn là nhiều nhất, chiểm khoảng 70- 80% tổng tài sản của doanh
nghiệp. Như vậy, đối với từng loại hình doanh nghiệp khác nhau cần phải có một chế độ
sử dụng và quản lý tài sản ngắn hạn cho phù hợp với đặc thù hoạt động của doanh nghiệp
mình có như vậy mới có thể nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn trong
các doanh nghiệp.
1.3.2. Nhóm các nhân tố khách quan
Là các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp tác động vào làm ảnh hưởng tới hiệu quả sử
dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp. Các yếu tố đó bao gồm:
Các yếu tố thuộc về môi trường kinh tế
Nền kinh tế khi vận hành luôn mang trong nó sự biến đổi và rất nhiều những rủi ro
tiềm ẩn. Sự thay đổi thường xuyên của các biến số kinh tế này luôn đặt doanh
14
Thang Long University Library
nghiệp trước nguy cơ phá sản nếu không có biện pháp ứng phó kịp thời. Các biến số
chủ yếu trong nền kinh tế thay đổi đó là:
- Lạm phát: khi nền kinh tế xảy ra tình trạng lạm phát tức là hiện tượng mất giá của
đồng tiền, làm cho giá cả hàng hoá, nguyên vật liệu tăng nhanh và biến động không
ngừng, khi đó doanh nghiệp cần phải có những chính sách đối với quản lý tài sản ngắn
hạn sao cho việc các biến số kinh tế thay đổi không làm ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả
của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Các biến động về cung cầu hàng hoá trên thị trường: các biến động này làm cho
giá cả các mặt hàng thay đổi, các nhà quản trị doanh nghiệp cần phải có biện pháp quản lý
sao cho giá cả của sản phẩm sản xuất ra đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của thị trường
mà không làm cho giảm chất lượng của sản phẩm.
- Sự thay đổi về chính sách kinh tế của Nhà nước: để điều hành nền kinh tế, Nhà
nước có rất nhiều các chính sách nhằm ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp. Khi đó các doanh nghiệp cần phải có những chính sách nhằm bắt kịp
với sự thay đổi đó nhằm đảm bảo sự phát triển của doanh nghiệp.
- Sự thay đổi của lãi suất trên thị trường: Điều này làm cho việc sử dụng vốn của
doanh nghiệp sẽ trở nên đắt đỏ hơn, vì vậy doanh nghiệp cần phải có biện pháp nhằm
quản lý và sử dụng tài sản ngắn hạn một cách tiết kiệm và hợp lý nhằm mang lại hiệu
quả tốt nhất cho doanh nghiệp.
Sự biến động của các thị trường
Thị trường các nhân tố sản xuất, thị trường tài chính, thị trường lao động, thị trường
máy móc thiết bị các thị trường này thường xuyên thay đổi để đáp ứng nhu cầu của nền
kinh tế thị trường hiện nay. Sự thay đổi này kéo theo sự thay đổi của nguyên vật liệu, giá
nhân công lao động, máy móc thiết bị… không chỉ về giá cả mà còn về chất lượng và
mức độ khan hiếm. Vì vậy doanh nghiệp cần phải tăng cường quản lý hoạt động của
doanh nghiệp, nhất là quản lý việc sử dụng tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp.
15
Sự phát triển của khoa học công nghệ
Khoa học công nghệ tác động đến tất cả các mặt của nền kinh tế xã hội, doanh
nghiệp chịu rất nhiều tác động của công nghệ, nếu áp dụng công nghệ đúng chỗ và tiên
tiến sẽ giúp cho doanh nghiệp phát triển. Do vậy doanh nghiệp cần phải biết áp dụng khoa
học công nghệ vào lĩnh vực quản lý, nhất là quản lý tài sản ngắn hạn sẽ tạo ra hiệu quả lớn
cho doanh nghiệp.
Sự thay đổi của môi trường tự nhiên
Do tài sản ngắn hạn bao gồm nguyên nhiên vật liệu sản xuất nhất là những doanh
nghiệp chế biến thực phẩm, do đó chịu ảnh hưởng rất nhiều của hoạt động sản xuất kinh
doanh. Vì vậy doanh nghiệp cần tăng cường quản lý tài sản ngắn hạn, chú ý vấn đề lưu
kho và bảo quản tài sản ngắn hạn sao cho hoạt động sản xuất kinh doanh không bị gián
đoạn và không phụ thuộc nhiều vào tự nhiên.
16
Thang Long University Library
CHƢƠNG 2. THỰC TRANG HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN NGẮN HẠN
CỦA CÔNG TY TNHH SẢN XUẤT VÀ THƢƠNG MẠI ĐẶNG TÙNG
2.1. Tổng quan về Công ty TNHH sản xuất và thƣơng mại Đăng Tùng
2.1.1. Khái quát về Công ty TNHH sản xuất và thương mại Đăng Tùng
2.1.1.1. Giới thiệu chung về Công ty
Tên công ty: Công ty TNHH sản xuất và thương mại Đăng Tùng
Tên giao dịch: DANG TUNG SERVICE AND PRODUCT COMPANY LIMITED
Giám đốc: Phạm Văn Cậy
Ngày đăng ký kinh doanh: 14/10/2009
Địa chỉ trụ sở kinh doanh: Cụm công nghiệp Mả ông, Phường Đình Bảng, Thị xã Từ
Sơn, Bắc Ninh
Số điện thoại: (0241) 3840699
Mã số thuế: 2300499665
FAX: (0241) 61383168
Vốn điều lệ: 6.000.000.000 đồng ( Sáu tỷ đồng )
2.1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển
Công ty TNHH sản xuất và thương mại Đăng Tùng được thành lập ngày 14 tháng
10 năm 2009 theo quyết định thành lập số 2002000538/ QĐ/ KHĐT của Sở Kế Hoạch
Đầu tư Bắc Ninh. Công ty có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng và được cấp phép hoạt
động sản xuất kinh doanh trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật.
Tuy ra đời và hoạt động chưa lâu nhưng Công ty TNHH sản xuất và thương mại
Đăng Tùng đã có nhiều cố gắng trong tìm kiếm thị trường hoạt động, có nhiều hình thức
huy động vốn sản xuất, không ngừng đầu tư, đổi mới trang thiết bị, nâng cao trình độ quản
lí của cán bộ, tay nghề của kĩ sư và công nhân…chính nhờ có đường lối đúng đắn đi đôi
với các biện pháp thích hợp nên doanh thu, lợi nhuận đóng góp cho NSNN không ngừng
được nâng cao. Đến nay, Công ty đã đứng vững trong môi trường cạnh tranh khốc liệt của
nền kinh tế thị trường đang phát triển mạnh.
2.1.2. Ngành nghề kinh doanh của Công ty TNHH sản xuất và thương mại Đặng
Tùng
Các công việc kinh doanh của Công ty TNHH sản xuất và thương mại Đăng Tùng
bao gồm:
- Sản xuất phôi và thép hình U, I, V, khung nhà xưởng
- Kinh doanh và đầu tư bất động sản
17
- Cho thuê máy móc thiết bị sản xuất thép
- Mua bán, đại lý vật liệu xây dựng, sắt, thép, nhôm, đồng nguyên liệu, ống nước,
thiết bị cấp nước trong nhà, thiết bị nhiệt và phụ tùng thay thế, máy móc thiết bị phục
vụ sản xuất sắt, thép, gang
Hoạt động của Công ty TNHH sản xuất và thương mại Đăng Tùng chủ yếu là kinh
doanh và sản xuất các loại thép hình từ U, I, quy cách từ 100 mm đến 350 mm, thép góc
từ V quy cách từ 50 mm đến 120 mm; kinh doanh thương mại của công ty trong những
năm qua chủ yếu là mặt hàng thép công nghiệp các loại với tỷ trọng chiếm hơn 80%
doanh thu toàn công ty bao gồm: thép cuộn, thép tấm, thép hình.
2.1.3. Cơ cấu tổ chức doanh nghiệp
Sơ đồ 2. 1 Cơ cấu tổ chức của Công ty TNHH sản xuất và thương mại Đăng Tùng
Giám đốc
Phó giám đốc
Phòng kinh
doanh
Phòng kế
toán
Phòng kĩ
thuật
Bộ phận sản
xuất
Bộ phận
phân phối
tiêu thụ
(Nguồn: Phòng kế toán)
Giám đốc
Điều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty và chịu trách nhiệm
trước các thành viên sáng lập về thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn được giao. Giám đốc là
chủ tài khoản của công ty và là người chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc chấp hành
quy định luật của doanh nghiệp,kí kết các hợp đồng kinh tếvà văn bản giao dịch theo
phương hướng kế hoạch của công ty đồng thời chịu trách nhiệm tổ chức,thực hiện văn
bản đó.
18
Thang Long University Library
Phó giám đốc
Là người có trách nhiệm theo dõi, quản lý các hoạt động kinh doanh của Công ty,
tham gia điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, chịu trách nhiệm về mảng tiêu thụ
sản phẩm và chịu trách nhiệm trước Giám đốc.
Giúp việc cho Giám đốc trong quản lý điều hành các hoạt động của Công ty theo sự
phân công của Giám đốc.
Chủ động và tích cực triển khai, thực hiện nhiệm vụ được phân công và chịu trách
nhiệm trước Giám đốc về hiệu quả các hoạt động.
Phòng kinh doanh
Có nhiệm vụ tiếp thị và giao dịch vơi khách hàng dưới sự giám sát trực tiếp của phó
giám đốc thực hiện các hợp đồng mua bán theo quy định của công ty. Hợp tác chặt chẽ
với phòng kĩ thuật và bộ phận bán phân phối sản phẩm để nhập hàng và cung cấp hàng tốt
nhất tới khách hàng.
Phòng kế toán
Là bộ phận quan trọng trong vấn đề quản lý tài chính của công ty, bộ phận này có
nhiệm vụ cung cấp kịp thời các thông tin tài chính của công ty và tham mưu cho Giám
đốc quản lý các lĩnh vực sau:
- Công tác tài chính;
- Công tác kế toán tài vụ;
- Công tác kiểm toán nội bộ;
- Công tác quản lý tài sản;
- Công tác thanh quyết toán hợp đồng kinh tế;
- Kiểm soát các chi phí hoạt động của Công ty;
- Quản lý vốn, tài sản của Công ty, tổ chức, chỉ đạo công tác kế toán trong toàn
Công ty;
Nhằm giúp giám đốc hoạch định chiến lược về tài chính nhằm đảm bảo cho quá
trình kinh doanh tiến hành bình thường với hiệu quả kinh tế cao. Nhập và tính toán các dữ
liệu thu, chi, lãi, lỗ các khoản thanh toán với ngân sách theo chế độ kế toán hiện hành.
Theo dõi hệ thống số liệu về số lượng tài sản, tiền vốn các quỹ hiện có của công ty. Quyết
toán tài chính và lập báo cáo tài chính hàng quý theo quy định của nhà nước.
Phòng kỹ thuật
Tham mưu giúp việc cho Giám đốc và Lãnh đạo Công ty trong công tác quản lý
hoạt động kinh doannh xây lắp và đầu tư xây dựng cơ bản nội bộ.
19
Xây dựng kế hoạch và tổng hợp kết quả thực hiện theo định kỳ của Công ty để báo
cáo cơ quan cấp trên khi có yêu cầu.
Thực hiện và hướng dẫn nghiệp vụ về công tác kinh tế, kế hoạch, kỹ thuật trong
Công ty như: Văn bản, thông tư, chế độ chính sách mới để vận dụng, tiêu chuẩn, quy
chuẩn thay đổi hoặc mới ban hành.
Phối hợp với các phòng, ban chức năng để tham gia quản lý hoạt động sản xuất kinh
doanh của Công ty.
Bộ phận sản xuất
Có nhiệm vụ tổ chức thực hiện kế hoạch sản xuất của công ty, quản lý tốt máy móc
thiết bị, đảm bảo năng suất chất lượng của sản phẩm, đảm bảo tiết kiệm nguyên vật liệu,
quản lý nhằm giảm tỷ lệ hỏng của sản phẩm, thực hiện vệ sinh công nghiệp đảm bảo an
toàn trong sản xuất.
Bộ phận phân phối và tiêu thụ
Phân phối vận chuyển hàng tới tận tay người tiêu dùng, các cơ sở giáo dục, đào tạo,
các công ty, cơ sở đại lý khác.
Nhận xét:
Nhìn chung, về cơ cấu bộ máy quản lý của Công ty TNHH sản xuất và thương mại
Đăng Tùng là đã hợp lý. Công ty có đầy đủ các phòng ban, mỗi phòng ban đều có những
chức năng nhiệm vụ riêng xong đều phối hợp chặt chẽ với nhau hướng tới mục tiêu chung
là hoàn thành các kế hoạch kinh doanh của Công ty.
20
Thang Long University Library
- Xem thêm -