Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn tại công ty cổ phần Fafim Việt Nam...

Tài liệu Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn tại công ty cổ phần Fafim Việt Nam

.PDF
59
842
132

Mô tả:

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÀI SẢN NGẮN HẠN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN NGẮN HẠN TRONG DOANH NGHIỆP 1.1. Tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp 1.1.1.1. Khái niệm tài sản ngắn hạn Trong nền kinh tế thị trường, việc quản lý tài sản ngắn hạn đóng vai trò quan trọng đến việc tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Để đưa ra định nghĩa về “Tài sản ngắn hạn” có nhiều giáo trình đã đưa ra định nghĩa:  Theo PGS.TS.Lưu Thị Hương, Giáo trình tài chính doanh nghiệp, Nhà xuất bản Thống kê, năm 2003 thì tài sản ngắn hạn được hiểu: “Tài sản ngắn hạn đó là các tài sản có thời gian thu hồi vốn ngắn, trong khoảng thời gian 12 tháng hoặc một chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp bao gồm:  Tiền và các khoản tương đương tiền như tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển, chứng khoán dễ thanh khoản. Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn như cổ phiếu, trái phiếu. Các khoản phải thu về việc trả trước cho người bán, phải thu nội bộ…  Hàng tồn kho bao gồm nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, thành phẩm, hàng gửi bán, hàng mua đang đi đường… Các tài sản ngắn hạn thường tham gia và được thu hồi vốn sau một chu kỳ sản xuất kinh doanh”.  Theo PGS.TS.Trần Ngọc Thơ, Giáo trình quản trị tài chính doanh nghiệp hiện đại, Nhà xuất bản thống kê, năm 2009 thì tài sản ngắn hạn được hiểu: “Tài sản ngắn hạn hay cũng gọi là tài sản lưu động là một khoản mục trong bảng cân đối kế toán bao gồm tất cả loại tài sản có thể dễ dàng chuyển đổi sang tiền mặt trong vòng 1 năm hay trong một chu kỳ sản xuất kinh doanh. Tài sản ngắn hạn bao gồm tiền mặt và các khoản tương đương tiền, các khoản phải thu ngắn han, các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, hàng tồn kho và những tài sản có tính thanh khoản khác”. 1.1.1.2. Đặc điểm của tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp Trong doanh nghiệp, tài sản ngắn hạn được phân biệt với tài sản dài hạn ở những đặc điểm về luân chuyển. Khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, khác với tài sản dài hạn chỉ dịch chuyển từng phần vào giá thành sản phẩm, thì tài sản ngắn hạn dịch chuyển toàn bộ và một lần vào giá trị sản phẩm. Chính vì vậy, tài sản ngắn hạn chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất kinh doanh và khi kết thúc chu kỳ sẽ hoàn thành 1 một vòng luân chuyển. Ngoài ra, trong quá trình luân chuyển ngày, tài sản ngắn hạn liên tục thay đổi hình thái. Trong doanh nghiệp sản xuất, sự thay đổi này được thể hiện qua chu trình: T-H-SX-H’-T’. Mở đầu chu kỳ sản xuất kinh doanh, tài sản ngắn hạn có hình thái tiền tệ. Sau đó chuyển sang hình thái nguyên vật liệu dự trữ. Qua quá trình sản xuất, các nguyên vật liệu dự trữ thành thành phẩm hay bán thành phẩm. Kết thúc quá trình này, khi đã tiêu thụ được thành phẩm, tài sản ngắn hạn lại quay trở về hình thái ban đầu. Đối với doanh nghiệp thương mại, quá trình này bao gồm: T-H-T’. Tài sản ngắn hạn cũng có hình thái ban đầu là tiền tệ, sau đó chuyển sang hàng hóa và cuối cùng quay trở lại hình thái tiền tệ. Như vậy, có thể nói tài sản ngắn hạn luôn tham gia vào tất cả các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh thông qua sự vận động thường xuyên và thay đổi các hình thái. Từ đó có thể thấy rằng đặc điểm của tài sản ngắn hạn bao gồm những điểm sau:  Tài sản ngắn hạn có tính thanh khoản cao nên đáp ứng được khả năng thanh toán của doanh nghiệp.  Tài sản ngắn hạn là một bộ phần của nguồn vốn sản xuất nên nó vận động và luân chuyển liên tục trong mọi giai đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh.  Tài sản ngắn hạn có thể dễ dàng chuyển đổi từ dạng vật chất sang tiền tệ nên việc quản lý là rất phức tạp. 1.1.2. Vai trò của tài sản ngắn hạn Để tiến hành sản xuất, ngoài TSDH như máy móc, thiết bị, nhà xưởng... doanh nghiệp phải bỏ ra một lượng tiền nhất định để mua sắm hàng hóa, nguyên vật liệu. phục vụ cho quá trình sản xuất. Như vậy, TSNH là điều kiện đầu tiên để doanh nghiệp đi vào hoạt động hay nói cách khác TSNH là điều kiện tiên quyết của quá trình sản xuất kinh doanh.  TSNH đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp được tiến hành thường xuyên, liên tục. TSNH còn là công cụ phản ánh đánh giá quá trình mua sắm, dự trữ, sản xuất, tiêu thụ của doanh nghiệp.  TSNH có khả năng quyết định đến quy mô hoạt động của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp hoàn toàn tự chủ trong việc sử dụng TSNH nên khi muốn mở rộng quy mô của doanh nghiệp phải huy động một lượng TSNH nhất định để đầu tư ít nhất là đủ để dự trữ vật tư hàng hóa. TSNH còn giúp cho doanh nghiệp chớp được thời cơ kinh doanh và tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp.  TSNH là công cụ phản ánh, đánh giá quá trình vận động của vật tư. Trong doanh nghiệp sự vận động của TSNH phản ánh sự vận động của vật tư. TSNH nhiều hay ít là phản ánh số lượng vật tư, hàng hóa dự trữ, sử dụng ở các khâu dự trữ, sản xuất, 2 Thang Long University Library lưu thông nhiều hay ít. TSNH luân chuyển nhanh hay chậm còn phản ánh số lượng vật tư sử dụng tiết kiệm hay không. Thời gian nằm ở khâu sản xuất và lưu thông có hợp lí hay không hợp lí. Bởi vậy thông qua tình hình vận chuyển TSNH có thể kiểm tra, đánh giá một cách kịp thời với các mặt mua sắm, dự trữ, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp.  TSNH là bộ phận chủ yếu cấu thành nên giá thành sản phẩm do đặc điểm luân chuyển toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm. Giá trị của hàng hóa bán ra được tính toán trên cơ sở bù đắp được giá thành sản phẩm cộng thêm một phần lợi nhuận. Do đó, TSNH đóng vai trò quyết định trong việc tính giá cả hàng hóa bán ra. 1.1.3. Phân loại tài sản ngắn hạn Việc quản lý và sử dụng TSNH muốn tiến hành một cách khoa học và hiệu quả đòi hỏi nhà quản lý phải nắm được thành phần và kết cấu của TSNH, từ đó có các biện pháp điều chỉnh và nâng cao hiệu suất sử dụng TSNH. Người ta sử dụng các tiêu thức khác nhau để phân loại TSNH tùy thuộc vào mục tiêu của nhà quản lý. Có hai tiêu thức phân loại chủ yếu thường được sử dụng: phân loại theo hình thái biểu hiện và phân loại theo vai trò của TSNH đối với quá trình sản xuất kinh doanh. 1.1.3.1. Phân loại theo hình thái biểu hiện  Tiền và các khoản tương đương tiền: Tiền bao gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển, tiền dưới dạng séc các loại, tiền trong thẻ tín dụng và trong tài khoản ATM. Tiền là loại tài sản có tính thanh khoản cao nhất, đứng đầu tiên bên tài sản trên bảng cân đối kế toán. Loại tài sản này có thể dễ dàng chuyển đổi thành các tài sản khác hoặc thanh toán các nghĩa vụ tài chính cho doanh nghiệp, bởi vậy nó cho phép doanh nghiệp duy trì khả năng chi trả và phòng tránh rủi ro thanh toán. Bên cạnh đó các tài sản dạng đặc biệt như: vàng, bạc, đá quý, kim khí quý được dùng chủ yếu cho mục đích dự trữ. Tuy nhiên, tiền mặt cũng là loại tài sản không hoặc gần như không sinh lợi, bởi vậy việc giữ tiền mặt ở mức độ nào để vừa đảm bảo an toàn vừa tiết kiệm vốn lại là một câu hỏi quan trọng cần nhà quản trị tài chính quan tâm giải quyết.  Đầu tư tài chính ngắn hạn: Là các khoản đầu tư tài chính có thời hạn thu hồi vốn không quá 1 năm tài chính hoặc trong một chu kỳ kinh doanh.  Các khoản phải thu: là một thành phần của tài sản ngắn hạn có tầm quan trọng đối với doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty thương mại, mua bán hàng hóa. Hoạt động mua bán chịu giữa các bên phát sinh các khoản tín dụng thương mại. Các khoản phải thu chủ yếu bao gồm các khoản phải thu từ khách hàng, ngoài ra còn có các khoản ứng trước cho nhà cung cấp. 3  Hàng tồn kho:  Hàng tồn kho trong khâu dự trữ: bao gồm vật tư dự trữ. Đây là các loại nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, vật đóng gói và công cụ dụng cụ phục vụ cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.  Hàng tồn kho trong khâu sản xuất: bao gồm các sản phẩm dở dang (sản phẩm đang chế tạo).  Hàng tồn kho trong khâu tiêu thụ: bao gồm thành phẩm. Đây là giá trị những sản phẩm đã được sản xuất xong, đạt tiêu chuẩn kỹ thuật và đã được nhập kho.  Các chi phí trả trước: Là những khoản chi phí lớn hơn thực tế đã phát sinh có liên quan đến nhiều chu kỳ kinh doanh nên được phân bổ vào giá thành sản phẩm của nhiều chu kỳ kinh doanh như: chi phí thuê tài sản, chi phí nghiên cứu thí nghiệm, cải tiến kỹ thuật, chi phí xây dựng, lắp đặt các công trình tạm thời, chi phí về ván khuôn, giàn giáo, phải lắp dùng trong xây dựng cơ bản. Tác dụng của phân loại theo hình thái biểu hiện: Cho phép doanh nghiệp xem xét đánh giá mức tồn kho dự trữ và khả năng thanh toán của doanh nghiệp, biết được kết cấu tài sản ngắn hạn theo hình thái biểu hiện để có hướng điều chỉnh hợp lý và hiệu quả. 1.1.3.2. Phân loại theo vai trò của TSNH với quá trình sản xuất kinh doanh Theo tiêu thức này, TSNH chia thành 3 loại chủ yếu sau:  TSNH trong khâu dự trữ sản xuất: Nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, vật liệu đóng gói, công cụ dụng cụ nhỏ.  TSNH trong khâu trực tiếp sản xuất: Sản phẩm đang chế tạo (sản phẩm dở dang, bán thành phẩm), chi phí trả trước, chi phí sản xuất kinh doanh dở dang…  TSNH trong khâu lưu thông: Thành phẩm, tiền, các khoản phải thu, các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, cho vay ngắn hạn, các khoản vốn trong thanh toán (các khoản phải thu, tạm ứng…) Tác dụng của cách phân loại này cho phép doanh nghiệp thấy được kết cấu TSNH theo từng khâu của quá trình sản xuất kinh doanh. Từ đó, cho phép đánh giá tình hình phân bổ TSNH trong các khâu và vai trò từng thành phần với quá trình kinh doanh. Tạo cơ sở đưa ra các giải pháp tổ chức quản lý nhằm hợp lý hóa kết cấu TSNH và tăng tốc độ luân chuyển TSNH. Trong khoá luận này em sử dụng cách phân loại theo hình thái biểu hiện. Cách phân loại trên giúp cho việc phân tích các khoản mục trong TSNH một cách chi tiết và cụ thể hơn cách phân loại theo vai trò sản xuất kinh doanh. Hơn nữa, phân loại theo 4 Thang Long University Library hình thái biểu hiện phù hợp với đặc thù kinh doanh, thương mại thuần tuý không có sản xuất của Công ty. 1.1.4. Kết cấu tài sản ngắn hạn và các nhân tố ảnh hưởng Kết cấu TSNH là tỷ trọng giữa từng bộ phận TSNH trên tổng số TSNH của doanh nghiệp. Bên cạnh việc nghiên cứu các cách phân loại TSNH theo những tiêu thức khác nhau, doanh nghiệp còn phải đánh giá và nắm bắt được kết cấu của TSNH ở từng cách phân loại đó. Kết cấu TSNH thể hiện thành phần và các mối quan hệ tỷ lệ thành phần trong tổng số TSNH của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp có kiểu kết cấu TSNH khác nhau. Việc phân tích kết cấu TSNH của doanh nghiệp theo các tiêu thức phân loại khác nhau sẽ giúp doanh nghiệp hiểu rõ hơn những đặc điểm của TSNH mà mình đang quản lý, sử dụng từ đó xác định đúng các trọng điểm và các biện pháp quản lý TSNH có hiệu quả phù hợp với các điều kiện của doanh nghiệp. Bên cạnh đó việc phân tích, theo dõi kết cấu TSNH trong các thời kì khác nhau có thể thấy được những biến đổi tích cực cũng như những hạn chế còn tồn tại trong việc quản lý TSNH của doanh nghiệp. Các nhân tố ảnh hưởng đến kết cấu của TSNH doanh nghiệp có nhiều loại, tuy nhiên có thể chia thành những nhóm chính:  Các nhân tố về mặt cung ứng vật tư như khoảng cách giữa doanh nghiệp với nơi cung cấp, khả năng cung ứng của thị trường, kì hạn giao hàng và khối lượng vật tư được cung cấp mỗi lần giao hàng, chủng loại vật tư được cung cấp…đều ảnh hưởng đến tỷ trọng TSNH vào khâu dự trữ.  Các nhân tố về mặt sản xuất cũng như đặc điểm kĩ thuật, công nghệ sản xuất của doanh nghiệp, mức độ phức tạp của sản phẩm chế tạo: độ dài của chu kì sản xuất, trình độ tổ chức của quá trình sản xuất.  Những nhân tố về thanh toán: những doanh nghiệp sử dụng phương thức thanh toán hợp lí, giải quyết thanh toán kịp thời thì tỷ trọng TSNH sẽ không thay đổi. Đồng thời việc chấp hành kỉ luật thanh toán của khách hàng cũng ảnh hưởng tới kết cấu của TSNH.  Điều kiện tiêu thụ sản phẩm cũng có ảnh hưởng nhất định tới kết cấu TSNH. Quy mô sản phẩm tiêu thụ lớn hay nhỏ, khoảng cách giữa các công trình và doanh nghiệp dài hay ngắn đều ảnh hưởng đến tỷ trọng TSNH trong lưu thông. 1.2. Hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp 1.2.1. Khái niệm hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp Theo cách hiểu đơn giản thì sử dụng tài sản hiệu quả có nghĩa là với một số lượng tài sản nhất định đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ mang lại lợi nhuận cao nhất với chi phí thấp nhất. Điều này được hiểu trên hai khía cạnh: 5  Với số tài sản hiện có, doanh nghiệp có thể sản xuất ra số lượng sản phẩm lớn hơn với chất lượng tốt hơn, giá thành hạ để tăng lợi nhuận.  Đầu tư thêm tài sản một cách thích hợp nhằm mở rộng quy mô sản xuất để tăng doanh số tiêu thụ với yêu cầu đảm bảo tốc độ tăng lợi nhuận phải lớn hơn tốc độ tăng của tài sản. Như vậy, có thể hiểu: “Hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ, năng lực khai thác và sử dụng tài sản trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận và mục tiêu tăng trưởng với chi phí tối thiểu trong một khoảng thời gian nhất định”. Hiệu quả sử dụng TSNH của doanh nghiệp được lượng hóa thông qua hệ thống các chỉ tiêu về lợi nhuận, khả năng sinh lời, tốc độ luân chuyển, khả năng hoạt động,…Thông qua các chỉ tiêu đó có thể phản ánh mối quan hệ giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra ban đầu của quá trình sản xuất kinh doanh. Chi phí bỏ ra càng ít so với kết quả đạt được thì hiệu quả sử dụng tài sản càng cao. 1.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng TSNH Để có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, mỗi doanh nghiệp phải có một lượng vốn nhất định và nguồn tài trợ tương ứng, không có vốn sẽ không có bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào. Song việc sử dụng vốn như thế nào cho có hiệu quả cao mới chính là yếu tố quyết định cho sự tăng trưởng và phát triển của các doanh nghiệp. Với ý nghĩa đó, việc quản lý, sử dụng và nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản nói chung và TSNH nói riêng là một nội dung rất quan trọng của công tác quản lý tài chính doanh nghiệp. Quan niệm về tính hiệu quả của việc sử dụng TSNH phải được hiểu trên hai khía cạnh:  Một là, với số tài sản hiện có có thể sản xuất thêm một số lượng sản phẩm với chất lượng tốt, giá thành hạ để tăng thêm lợi nhuận cho doanh nghiệp.  Hai là, đầu tư thêm tài sản một cách hợp lý nhằm mở rộng quy mô sản xuất để tăng doanh thu tiêu thụ với yêu cầu đảm bảo tốc độ tăng lợi nhuận phải lớn hơn tốc độ tăng tài sản. Dựa trên việc đạt được hai khía cạnh này, ta thấy rõ những lợi ích to lớn của việc sử dụng hiệu quả TSNH, cụ thể là: Nâng cao hiệu quả sử dụng TSNH sẽ góp phần nâng cao năng suất và khả năng tiêu thụ hàng hóa của doanh nghiệp. TSNH được sử dụng càng hiệu quả thì năng lực sản xuất hàng hóa càng cao, chi phí sản xuất cũng giảm xuống khiến cho sản phẩm của doanh nghiệp có chất lượng không đổi trong khi giá thành lại giảm. Do vậy, tăng khả 6 Thang Long University Library năng cạnh tranh trên thị trường, tăng doanh thu sẽ đem lại lợi nhuận tốt nhất cho doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả sử dụng TSNH giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí đầu tư cho TSNH. Bởi lẽ, TSNH được sử dụng một cách hợp lí sẽ góp phần đấy nhanh tốc độ lưu chuyển TSNH, làm cho tài sản quay được nhiều vòng hơn và tạo ra nhiều lợi nhuận hơn từ một đồng vốn bỏ ra. TSNH được sử dụng hợp lí còn góp phần cải thiện tình hình thanh toán cho doanh nghiệp, tăng cường khả năng chi trả cho các khoản nợ vay. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng bởi vì hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp đều phải vay vốn của ngân hàng hay các đối tượng khác để bù đắp phần thiếu hụt của đơn vị mình dẫn đến một thực trạng là riêng số tiền lãi phải trả hàng năm đã chiếm một tỷ trọng đáng kể trong chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Từ những lý do trên, cho thấy sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả công tác quản lý và sử dụng tài sản ngắn hạn trong các doanh nghiệp. Đó là một trong những nhân tố quyết định cho sự thành công của một doanh nghiệp, xa hơn nữa là sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. 1.2.3. Phân tích hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp Quy mô tài sản ngắn hạn được hiểu là tỉ trọng tài sản ngắn hạn trên tổng tài sản của doanh nghiệp. Việc so sánh quy mô tài sản ngắn hạn với quy mô tài sản dài hạn sẽ cho thấy bức tranh tổng quát về lượng vốn đầu tư cho từng loại tài sản của doanh nghiệp. Tỉ trọng tài sản ngắn hạn cao hay thấp tùy thuộc vào loại hình hoạt động sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp. Đối với những doanh nghiệp thương mại, chuyên phân phối hàng hóa, sản phẩm thì tỉ trọng tài sản ngắn hạn luôn rất cao, thường chiếm đến hơn 90% trên tổng tài sản. Mặt khác, những doanh nghiệp sản xuất hay các doanh nghiệp vận tải, xây dựng... lại có tỉ trọng tài sản ngắn hạn thấp hơn một chút do đặc điểm hoạt động của các doanh nghiệp này yêu cầu phải đầu tư nhiều hơn cho tài sản dài hạn. Xem xét quy mô tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp nhằm đánh giá xem liệu lượng vốn đầu tư cho tài sản ngắn hạn có phù hợp với đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp hay không. Từ đó, đưa ra những điều chỉnh trong chính sách đầu tư nhằm tối đa hóa lợi nhuận của doanh nghiệp. Xem xét cơ cấu tài sản ngắn hạn tức là xem xét tỷ trọng từng khoản mục nhỏ trong tổng tài sản ngắn hạn, nó cho biết trong tổng tài sản ngắn hạn, khoản mục nào đang được doanh nghiệp đầu tư nhiều nhất, từ đó đánh giá được cơ cấu tài sản ngắn hạn đã hợp lý hay chưa. Các khoản mục nhỏ cấu thành lên tài sản ngắn hạn là: 7  Tiền và các khoản tương đương tiền Nếu tỷ trọng tiền và các khoản tương đương tiền đang chiếm phần lớn trên tổng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp thì ta có thể đưa ra kết luận rằng doanh nghiệp đấy đang dự trữ quá nhiều tiền. Việc dự trữ nhiều tiền trong tài khoản sẽ tăng khả năng thanh toán của doanh nghiệp, nhưng mặt khác nó gây lãng phí do không được đưa vào quá trình đầu tư, ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Ngược lại, nếu tỷ trọng tiền và các khoản tương đương tiền quá thấp thì doanh nghiệp sẽ dễ gặp phải rủi ro thanh khoản. Hơn nữa, dự trữ tiền mặt trong tài khoản quá thấp cũng gây ảnh hưởng đến việc chi tiêu trong các hoạt động thường ngày của doanh nghiệp.  Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao cho thấy doanh nghiệp đang đầu tư nhiều vào hoạt động tài chính như: mua các chứng khoán, trái phiếu, tín phiếu ngắn hạn hay đầu tư nhiều tiền nhàn rỗi vào các khoản tiền gửi có kỳ hạn trong ngân hàng. Tỷ trọng các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn cao hay thấp phụ thuộc nhiều vào loại hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thật vậy, thường thì các doanh nghiệp không chuyên về lĩnh vực tài chính sẽ hạn chế đầu tư vào các khoản tài chính ngắn hạn để tránh rủi ro do hạn chế về mặt kiến thức của lĩnh vực này. Những biến động của thị trường chứng khoán, tỷ lệ lạm phát hay lãi suất ngân hàng cũng ảnh hưởng rất lớn đến tỷ trọng các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn của doanh nghiệp.  Hàng tồn kho Nếu tỷ trọng hàng tồn kho quá cao cho thấy lượng vốn bị tồn đọng trong hàng tồn kho lớn, lượng vốn đấy không được đưa vào lưu thông sẽ ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Mặt khác, lượng hàng tồn kho lớn còn thể hiện hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp còn trì trệ và không được hiệu quả. Ngược lại, nếu tỷ trọng hàng tồn kho quá thấp sẽ khiến doanh nghiệp rơi vào tình trạng không đủ hàng hóa cung cấp cho khách hàng. Chính vì vậy, việc xem xét tỷ trọng hàng tồn kho sẽ giúp doanh nghiệp nhận định được thực trạng lượng hàng tồn kho của mình, từ đó điều chỉnh theo hướng hợp lý nhất nhằm nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp.  Các khoản phải thu Tỷ trọng các khoản phải thu sẽ phản ảnh chính sách tín dụng của doanh nghiệp. Các khoản phải thu, đặc biệt là phải thu khách hàng chiếm tỷ trọng lớn cho thấy doanh nghiệp đang nới lỏng chính sách tín dụng và ngược lại, nếu tỷ trọng các khoản này thấp thì doanh nghiệp đang thắt chặt chính sách tín dụng. Việc nới lỏng hay thắt chặt chính sách tín dụng phụ thuộc nhiều vào tình hình biến động của nền kinh tế cũng như chính sách bán hàng và chính sách sử dụng vốn của doanh nghiệp. 8 Thang Long University Library Như vậy, việc phân tích quy mô và cơ cấu tài sản ngắn hạn sẽ giúp doanh nghiệp đánh giá xem lượng vốn đầu tư cho tài sản ngắn hạn và dài hạn đã phù hợp chưa. Các khoản mục nhỏ cấu thành lên tài sản ngắn hạn đã chiếm tỷ trọng hợp lý với đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hay chưa. Từ đó, đưa ra chính sách quản lý tài sản ngắn hạn hiệu quả. 1.2.4. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp Để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn ta sử dụng các nhóm chỉ tiêu sau: 1.2.4.1. Nhóm chỉ tiêu đánh giá về khả năng sinh lời  Tỷ suất sinh lời trên doanh thu (ROS): Chỉ tiêu này cho biết một đồng doanh thu thuần của doanh nghiệp tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng. Tỷ số này thế hiện được lợi nhuận chiếm bao nhiêu phần trăm trong doanh thu. Tỷ số này mang giá trị dương nghĩa là Công ty kinh doanh có lãi và ngược lại Tỷ suất sinh lời trên doanh thu = Lợi nhuận ròng Doanh thu thuần  Tỷ suất sinh lời của tài sản ngắn hạn: Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tài sản ngắn hạn. Nó cho biết mỗi đơn vị tài sản ngắn hạn có trong kỳ đem lại bao nhiêu đơn vị lợi nhuận sau thuế. Tỷ suất sinh lời của TSNH Lợi nhuận ròng = Tài sản ngắn hạn Hệ số sinh lời của tài sản ngắn hạn phản ánh mỗi đồng tài sản ngắn hạn sử dụng trong kỳ đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp đều mong muốn chỉ số này càng cao càng tốt vì như vậy đã sử dụng được hết giá trị của tài sản ngắn hạn. Hiệu quả của việc sử dụng tài sản ngắn hạn thể hiện ở lợi nhuận của doanh nghiệp, đây chính là kết quả cuối cùng mà doanh nghiệp đạt được. Kết quả này phản ánh hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn nói riêng. Với công thức trên ta thấy, nếu tài sản ngắn hạn sử dụng bình quân trong kỳ thấp mà lợi nhuận sau thuế cao thì hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn cao. Để phân tích tỷ suất sinh lời của TSNH, ta có thể xác định các nhân tố ảnh hưởng theo phương pháp Dupont như sau: Tỷ suất sinh lời của TSNH = Lợi nhuận sau thuế Doanh thu thuần 9 x Doanh thu thuần TSNH bình quân Tỷ suất sinh lời của TSNH = Tỷ suất sinh lời của tổng doanh thu thuần x Số vòng quay của TSNH Dựa vào mô hình này, ta thấy được mối liên hệ của các chỉ tiêu tài chính với nhau và ảnh hưởng của chúng đến hiệu quả sử dụng TSNH của doanh nghiệp. Cũng nhờ có mô hình Dupont ta có thể xem xét các thành phần tác động tới tỉ suất sinh lời của tài sản ngắn hạn, từ đó có biện pháp kiểm soát tốt các thành phần đó nhằm đạt được tỉ suất sinh lời trên tài sản ngắn hạn như mong muốn. Như vậy, theo mô hình Dupont, tỷ suất sinh lời trên tài sản ngắn hạn chịu ảnh hưởng của 2 nhân tố: tỷ suất sinh lời của tổng doanh thu thuần và số vòng quay củ tài sản ngắn hạn. Muốn cho tỷ suất sinh lời của TSNH cao thì cần có các biện pháp nâng cao 2 nhân tố ảnh hưởng trên.  Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA): Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản của doanh nghiệp tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng, đồng thời tỷ số này cũng thể hiện hiệu quả quản lý và sử dụng tài sản để tạo ra thu nhập của doanh nghiệp. Nếu tỷ suất này lớn hơn 0 thì có nghĩa doanh nghiệp làm ăn có lãi và ngược lại Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản = Lợi nhuận ròng Tổng tài sản Công thức Dupont thứ nhất: ROA = ROS x Vòng quay tài sản Có hai xu hướng cần phải tăng lãi ròng bằng cách tiết kiệm chi phí và tăng giá bán. Việc tăng giá bán phải được thị trường chấp nhận, có nghĩa là giá bán tăng thì chất lượng sản phẩm cũng phải tăng. Muốn tăng vòng quay tài sản cần phải tăng doanh thu bằng cách giảm giá bán nhưng giảm giá sẽ làm cho ROS giảm, vì vậy ta có thể vẫn tăng giá bán những chất lượng sản phẩm cũng phải tăng, sự tăng lên này được người tiêu dùng chấp nhận. Như vậy, đảm bảo doanh thu vẫn tăng bên cạnh đó doanh nghiệp tăng cường hoạt động xúc tiến bán hàng như: áp dụng các dịch vụ chăm sóc khách hàng, dịch vụ bảo hành, chiết khấu thương mại…  Tỷ suất sinh lời trên vốn cổ chủ sở hữu (ROE): Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng, đồng thời chỉ số này để đo khả năng sinh lợi trên mỗi đồng vốn cổ phần. Nếu tỷ số này mang giá trị dương nghĩa là Công ty làm ăn có lãi và ngược lại Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu = Lợi nhuận ròng Vốn chủ sở hữu 10 Thang Long University Library Đẳng thức Dupont 2: ROE = ROS x Vòng quay tài sản x (Tổng Tài Sản/VCSH) Có 2 xu hướng để tăng ROE đó là tăng ROA, ROS hoặc là tăng hệ số đòn bẩy tài chính. Vì vậy, khi muốn tăng tỷ số này thì doanh nghiệp phải xem xét và đánh giá khả năng trả nợ của mình để đưa ra quyết định có vay thêm hay không. Tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu hay được đem so sánh với tỷ suất sinh lợi trên tài sản (ROA). Nếu tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu lớn hơn ROA thì có nghĩ là đòn bẩy tài chính của Công ty đã có tác dụng tích cực. Cho nên hệ số ROE càng cao thì các cổ phiếu càng hấp dẫn các nhà đầu tư hơn  Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tổng tài sản: Doanh thu thuần Hiệu suất sử dụng tổng tài sản = Tổng tài sản Chỉ tiêu này đo lường hiệu quả sử dụng tổng tài sản trong doanh nghiệp, cho biết cứ một đồng tổng tài sản đưa vào sản xuất kinh doanh sẽ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng tổng tài sản là một phạm trù rộng, bao hàm nhiều mặt tác động nhau. Vì vậy, khi phân tích các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng tổng tài sản ta phải xem xét trên nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau.  Kỳ luân chuyển tài sản ngắn hạn: Kỳ luân chuyển tài sản ngắn hạn phản ánh số ngày để thực hiện một vòng quay tài sản ngắn hạn. Chỉ tiêu này càng nhỏ, tốc độ thu hồi lưu động của doanh nghiệp cang cao và ngược lại. Công thức tính như sau K = 365 Vòng quay vốn lưu động trong kỳ  Hệ số đảm nhiệm tài sản ngắn hạn: Chỉ tiêu này phản ánh số tài sản ngắn hạn cần có để đạt được một đồng doanh thu thuần trong kỳ. Hệ số này càng nhỏ thì hiệu quả sử dụng vốn ngắn hạn càng cao. Hệ số đảm nhiệm tài sản ngắn hạn = Tài sản ngắn hạn Doanh thu thuần 1.2.4.2. Nhóm chỉ tiêu đánh giá chung về khả năng thanh toán Do đặc điểm của tài sản ngắn hạn có tính thanh khoản cao, cho nên việc sử dụng hiệu quả tài sản ngắn hạn là sự lựa chọn đánh đổi giữa khả năng sinh lời với tính thanh khoản. Do đó, khi phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp thì người ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau đây: 11  Khả năng thanh toán ngắn hạn: Đây là một trong những thước đo khả năng thanh toán của một doanh nghiệp, được sử dụng rộng rãi nhất là khả năng thanh toán ngắn hạn. Công thức tính khả năng thanh toán ngắn hạn là: Tài sản ngắn hạn Nợ ngắn hạn Khả năng thanh toán ngắn hạn cho thấy doanh nghiệp có bao nhiêu tài sản có thể chuyển đổi thành tiền mặt để đảm bảo thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Hệ số này đo Khả năng thanh toán ngắn hạn = lường khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Nếu khả năng thanh toán ngắn hạn giảm cho thấy khả năng thanh toán giảm, đó là dấu hiệu báo trước những khó khăn về tài chính sẽ xảy ra. Nếu hệ số này cao, điều đó có nghĩa là doanh nghiệp luôn sẵn sàng thanh toán các khoản nợ. Tuy nhiên, nếu hệ số này cao quá sẽ giảm hiệu quả hoạt động vì doanh nghiệp đầu tư quá nhiều vào tài sản ngắn hạn.  Khả năng thanh toán nhanh: Khả năng thanh toán nhanh được tính toán trên cơ sở những tài sản lưu ngắn hạn có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền, đôi khi chúng còn được gọi là tài sản có tính thanh khoản, tài sản có tính thanh khoản bao gồm tất cả tài sản ngắn hạn trừ hàng tồn kho. Do đó, khả năng thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào hàng tồn kho. Khả năng thanh toán nhanh = TSNH – hàng tồn kho Nợ ngắn hạn  Khả năng thanh toán tức thời: Khả năng thanh toán tức thời được xác định trên cơ sở lượng tiền dự trữ tại doanh nghiệp bao gồm tiền măt, tiền gửi ngân hàng và các khoản tương đương tiền khác có thể nhanh chóng thanh toán các khoản nợ phải trả trong ngắn hạn của doanh nghiệp đó. Do vậy, khả năng thanh toán tức thời cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn mang tính ngay lập tức của một đơn vị. Tiền và các khoản tương đương tiền Khả năng thanh toán tức thời = Nợ ngắn hạn 1.2.4.3. Nhóm chỉ tiêu hoạt động Đây là các hệ số đo lường khả năng hoạt động của doanh nghiệp. Để nâng cao hệ số hoạt động, các nhà quản trị doanh nghiệp phải biết những tài sản nào chưa được sử dụng, không sử dụng hoặc không tạo ra thu nhập cho doanh nghiệp. Vì thế doanh nghiệp cần phải biết cách sử dụng những tài sản đó sao cho mang lại hiệu quả hoặc phải loại bỏ những tài sản đó đi. Hệ số đo lường khả năng hoạt động đôi khi còn được 12 Thang Long University Library gọi là hệ số hiệu quả hoặc hệ số luân chuyển. Do đó, khi phân tích các chỉ tiêu hoạt động thì người ta thường sử dụng các chỉ sau đây:  Hiệu suất sử dụng tài sản ngắn hạn: Doanh thu thuần Hiệu suất sử dụng tài sản ngắn hạn = Tài sản ngắn hạn Hiệu suất sử dụng tài sản ngắn hạn cho biết một đồng tài sản ngắn hạn thì tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu, tỷ lệ này phụ thuộc vào mùa vụ kinh doanh và ngành nghề kinh doanh. Do đó, người phân tích tài chính doanh nghiệp chỉ sử dụng tỷ số này trong so sánh doanh nghiệp với bình quân toàn ngành hoặc với doanh nghiệp khác cùng ngành và so sánh cùng một thời kỳ. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn càng cao.  Vòng quay các khoản phải thu: Các khoản phải thu là các khoản bán chịu mà doanh nghiệp chưa thu được tiền về quỹ do thực hiện chính sách tín dụng thương mại, các khoản tạm ứng chưa thanh toán và các khoản trả trước cho người bán… Doanh thu thuần Vòng quay các khoản phải thu = Các khoản phải thu Vòng quay các khoản phải thu được sử dụng để xem xét cẩn thận quá trình khách hàng thanh toán các khoản nợ cho doanh nghiệp. Khi khách hàng thanh toán các khoản nợ đã đến hạn thì lúc đó các khoản phải thu đã quay được một vòng.  Chu kỳ thu tiền: 360 Chu kỳ thu tiền = Vòng quay các khoản phải thu Chỉ tiêu này cho ta biết tốc độ chuyển đổi nợ phải thu từ khách hàng thanh tiền trong quỹ của doanh nghiệp là bao lâu. Chỉ tiêu này càng nhỏ thì tình hình kinh doanh của doanh nghiệp càng tốt và ngược lại, chỉ tiêu này càng lớn thì doanh nghiệp đang trong tình trạng các khoản nợ của khách hàng đã quá hạn.  Vòng quay hàng tồn kho: Vòng quay của hàng tồn kho là một tiêu chuẩn để đánh giá doanh nghiệp sử dụng hàng tồn kho của mình hiệu quả như thế nào. Giá vốn hàng bán Vòng quay của hàng tồn kho = Hàng tồn kho 13 Các doanh nghiệp kinh doanh, sản xuất luôn phải tính đến mức dự trữ tồn kho bởi doanh nghiệp không thể nào đến lúc sản xuất mới mua nguyên vật liệu. Để tránh trường hợp bị ứ đọng hàng tồn kho thì doanh nghiệp phải có trước một lượng vật tư hàng hóa vừa phải, bởi nếu dự trữ hàng tồn kho quá nhiều thì doanh nghiệp sẽ mất khoản chi phí để bảo quản vật liệu. Nếu lượng dự trữ quá ít không đủ cho sản xuất sẽ dẫn đến tình trạng tạm ngừng hoạt động ở các khâu sản xuất tiếp theo. Như vậy có thể thấy chỉ tiêu này rất quan trọng đối với doanh nghiệp, nó quyết định thời điểm đặt hàng cũng như mức dự trữ an toàn cho doanh nghiệp. Vòng quay dự trữ, tồn kho cao thể hiện được khả năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là tốt, có như vậy mới đạt được mục tiêu mà doanh nghiệp đề ra. Chỉ tiêu này cao phản ánh được số lượng nguyên vật liệu được đưa vào sử dụng cũng như hàng hóa được bán ra nhiều, như vậy là doanh thu sẽ tăng và đồng thời lợi nhuận mà doanh nghiệp đạt được cũng tăng theo. Vòng quay hàng tồn kho cao hay thấp phụ thuộc vào đặc điểm của từng ngành nghề kinh doanh và phụ thuộc vào mặt hàng kinh doanh.  Chu kỳ lưu kho: 360 Chu kỳ lưu kho = Vòng quay hàng tồn kho Chỉ tiêu này cho ta biết số ngày lượng hàng tồn kho được chuyển đổi thành doanh thu. Từ chỉ tiêu này có thể biết được số ngày cần thiết cho việc luân chuyển kho vì hàng tồn kho có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn ở khâu dự trữ. Hệ số này chứng tỏ công tác quản lý hàng tôn kho càng tốt, hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn càng cao và ngược lại.  Hệ số trả nợ: Hệ số trả nợ là chỉ tiêu đo lường tốc độ thu nợ của doanh nghiệp và được xác định bằng công thức: Hệ số trả nợ = Giá vốn hàng bán + chi phí bán hàng, quản lí Phải trả người bán + Lương, thưởng, thuế phải trả Chỉ tiêu này càng lớn cho thấy tốc độ trả nợ của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.  Thời gian trả nợ trung bình: Chỉ tiêu này cho biết số ngày bình quân mà doanh nghiệp chiếm dụng vốn của nhà cung cấp thông qua mua hàng hóa trả chậm trước khi thanh toán nơ, được tính toán bằng công thức: 14 Thang Long University Library Thời gian trả nợ trung bình = 360 Hệ số trả nợ Thời gian trả nợ trung bình càng dài phản ánh khả năng chiếm dụng vốn từ các doanh nghiệp tốt. Tuy nhiên, không phải kỳ trả tiền bình quân càng dài càng tốt, vì khi đó nhà cung cấp bị thiệt, và có thể gây ảnh hưởng không tốt cho mối quan hệ giữa doanh nghiệp với đối tác.  Chu kỳ kinh doanh: Chu kỳ kinh doanh = Chu kỳ thu tiền + Chu kỳ lưu kho Chỉ tiêu này cho ta biết được thời gian cần thiết kể từ khi doanh nghiệp mua nguyên vật liệu đến khi doanh nghiệp thu được tiền bán hàng. Chỉ tiêu này được chia ra làm hai giai đoạn đó là giai đoạn tồn kho và giai đoạn thu tiền bán hàng. Có thể thấy rằng nếu chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp thấp, chứng tỏ hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp từ lúc nhập nguyên vật liệu, sản xuất đến khi bán hàng thu được tiền về quỹ là tốt. Còn ngược lại nếu chu kỳ kinh doanh lớn, ta cần xem xét do chu kỳ thu tiền hay do chu kỳ lưu kho tác động để từ đó có hướng giải quyết nhằm đem lại hiệu quả kinh doanh tốt nhất cho doanh nghiệp.  Thời gian luân chuyển tiền: Thời gian luân chuyển tiền = Chu kỳ kinh doanh – Thời gian trả nợ Mục đích của doanh nghiệp khi quan tâm đến chỉ tiêu này là dựa vào chỉ tiêu này để có thể thay đổi các chính sách liên quan đến tín dụng mua hàng và tín dụng bán hàng. Tiêu chuẩn thanh toán tín dụng mua hàng và nhận tiền từ người mua có thể thay đổi trên cơ sở báo cáo của thời gian luân chuyển tiền. Nếu chỉ tiêu này cho khả năng thanh toán tiền mặt tốt, chính sách tín dụng đã áp dụng có thể tiếp tục được duy trì. Ngoài ra còn để nghiên cứu dòng tiền của doanh nghiệp. Báo cáo lưu chuyển tiền mặt và nghiên cứu thời gian luân chuyển tiền mặt sẽ rất hữu ích cho các quản trị để phân tích dòng tiền. 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp Hiệu quả sử dụng TSNH của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố, bao gồm cả nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan. Để có thể phát huy được những mặt tích cực cũng như giảm bớt mặt tiêu cực tác động đến quá trình sử dụng TSNH đòi hỏi các nhà quản trị doanh nghiệp cần nắm bắt các nhân tố đó để từ đó đề ra những biện pháp quản lý và sử dụng TSNH hiệu quả nhất. 15 1.3.1. Nhân tố khách quan Các nhân tố khách quan thuộc môi trường vĩ mô của doanh nghiệp nên có phạm vi rất rộng, bao trùm lên toàn bộ nền kinh tế và tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến mọi mặt hoạt động của doanh nghiệp.  Môi trường tự nhiên: Môi trường tự nhiên là toàn bộ các yếu tố tự nhiên tác động đến doanh nghiệp như nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng. Nhân tố này ảnh hưởng lớn và trực tiếp đến quyết định quản lí TSNH của doanh nghiệp, cụ thể là mức dự trữ. Sở dĩ như vậy là do tính mùa vụ của thị ttrường cung ứng lẫn thị trường tiêu thụ. Hơn nữa khi điều kiện tự nhiên không thuận lợi thì doanh nghiệp phải tốn chi phí nhiều hơn cho công tác dự trữ (chi phí vận chuyển, bảo quản) từ đó làm giảm hiệu quả sử dụng TSNH của doanh nghiệp.  Môi trường kinh doanh  Biến động cung cầu hàng hóa: tác động vào khả năng cung ứng của thị trường đối với nhu cầu nguyên vật liệu hay khả năng tiêu thụ của doanh nghiệp trên thị trường, từ đó làm tăng hay giảm mức dự trữ của doanh nghiệp, và ảnh hưởng tới khả năng quay vòng của TSNH, đến mức sinh lợi.  Tốc độ phát triển của nền kinh tế: Khi nền kinh tế tăng trưởng chậm, sức mua bị giảm sút làm ảnh hưởng đến tình hình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, sản lượng tiêu thụ bị suy giảm, doanh thu ít đi, lợi nhuận giảm sút và tất yếu làm giảm hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh nói chung và TSNH nói riêng.  Mức độ cạnh tranh trên thị trường: để đạt được hiệu quả cao nhất trong nền kinh tế thị rường thì mỗi doanh nghiệp phải có những biện pháp, chính sách hấp dẫn so với đối thủ cạnh tranh như chấp nhận bán chịu, cung ứng đầu vào ổn định, chi phí thấp,…Như vậy doanh nghiệp sẽ phải đề ra các biện pháp và các chiến lược thích hợp để tăng vòng quay TSNH, giảm chi phí, tăng lợi nhuận.  Sự thay đổi của chính sách kinh tế vĩ mô: bằng luật pháp kinh tế và các chính sách kinh tế, Nhà Nước thực hiện việc điều tiết và quản lí nguồn lực trong nền kinh tế tạo môi trường và hành lang cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh theo hướng nhất định. Chỉ một sự thay đổi nhỏ trong chế độ, chính sách hiện hành cũng ảnh hưởng rất lớn đến chiến lược kinh doanh và ảnh hưởng đến hiệu quả họat động của doanh nghiệp nói chung và hiệu quả sử dụng TSNH nói riêng.  Môi trường khoa học công nghệ: Sự phát triển của khoa học công nghệ không những làm thay đổi chất lượng, số lượng sản phẩm mà còn làm phát sinh những nhu cầu mới, khách hàng trở nên khó tính hơn. Ngoài ra nó còn ảnh hưởng đến tốc độ chu chuyển tiền, các khoản dự trữ, tồn kho nhờ tăng năng suất, rút ngắn thời gian 16 Thang Long University Library sản xuất. Do vậy các doanh nghiệp phải nắm bắt được điều này để có biện pháp đầu tư, đổi mới công nghệ phù hợp. 1.3.2. Nhân tố chủ quan Ngược lại với các nhân tố khách quan là những nhân tố chủ quan xuất phát từ bản thân doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể thay đổi các nhân tố này để đạt được kết quả kinh doanh tốt nhất. Nhân tố chủ quan cơ bản gồm:  Cơ cấu TSNH của doanh nghiệp: Việc xác định cơ cấu TSNH của doanh nghiệp hợp lý bao nhiêu thì hiệu quả sử dụng TSNH của doanh nghiệp càng được tối ưu hóa bấy nhiêu. Nếu bố trí cơ cấu TSNH không hợp lý, làm mất sự cân đối giữa TSNH và TSDH dẫn đến làm thiếu hoặc thừa một loại tài sản nào đó sẽ làm giảm hiệu quả sử dụng TSNH.  Vấn đề xác định nhu cầu TSNH: Việc xác định nhu cầu TSNH thiếu chính xác dẫn đến tình trạng thừa hoặc thiếu vốn trong sản xuất kinh doanh. Nếu thừa thì sẽ gây lãng phí còn nếu thiếu sẽ gây ảnh hưởng đến họat động sản xuất kinh doanh. Điều này ảnh hưởng không tốt đến quá trình họat động kinh doanh cũng như hiệu quả sử dụng TSNH của doanh nghiệp.  Việc lựa chọn phương án đầu tư: Đây là nhân tố cơ bản ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sử dụng TSNH của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp đầu tư sản xuất ra những sản phẩm lao vụ dịch vụ chất lượng cao, mẫu mã phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, đồng thời giá hành hạ thì doanh nghiệp thực hiện được quá trình tiêu thụ nhanh, tăng vòng quay của TSNH, nâng cao hiệu quả sử dụng TSNH và ngược lại.  Trình độ quản của doanh nghiệp: Trình độ quản lý của doanh nghiệp mà yếu kém sẽ dẫn đến thất thoát vật tư, hàng hóa trong quá trình mua sắm, dự trữ, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. 17 KẾT LUẬN CHƯƠNG I Chương 1 đã tập trung nghiên cứu làm rõ các khái niệm, đặc điểm của tài sản ngắn hạn cũng như các vấn đề cơ bản về hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp. Bên cạnh đó chương 1 cũng đã đưa ra các chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn. Đây là cơ sở để khoá luận tiếp tục phân tích thực trạng về hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn tài Công ty Cổ phần Fafim Việt Nam trong chương 2. 18 Thang Long University Library CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN NGẮN HẠN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN FAFIM VIỆT NAM 2.1. Khái quát về Công ty Cổ phần Fafim Việt Nam 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Cổ phần Fafim Việt Nam Tên tiếng Việt : CÔNG TY CỔ PHẦN FAFIM VIỆT NAM Tên tiếng Anh : FAFIM VIETNAM JOINT STOCK COMPANY Tên viết tắt : FAFIM VIỆT NAM Vốn điều lệ : 96.738.280.000 đồng Trụ sở chính : 19 Nguyễn Trãi, P.Khương Trung, Q.Thanh Xuân, Hà Nội Điện thoại : 04.38534360 Fax : 04.38531611 E-mail : [email protected] Website : www.fafimvietnam.vn Tổng giám đốc : Phạm Văn Họa Vốn điều lệ : 96.738.280.000 đồng (Bằng chữ: Chín mươi sáu tỷ bảy trăm ba mươi tám triệu hai trăm tám mưới nghìn đồng) Loại hình doanh nghiệp: Công ty Cổ phần Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: 0100109850 cấp ngày 27/05/2010 – tại Sở Kế hoạch và đầu tư thành phố Hà Nội. Công ty Cổ phần Fafim Việt Nam gọi tắt là Công ty Fafim Việt Nam có đơn vị tiền thân là Doanh nghiệp Quốc gia Chiếu bóng và Chụp ảnh Việt Nam được thành lập tại Chiến khu Việt Bắc theo Sắc lệnh số 147/SL ngày 15 tháng 03 năm 1953 của Chủ tịch Hồ Chí Minh với chức năng nhiệm vụ chính là tuyên truyền chính sách, chủ trương của Chính phủ; nêu cao những thành tích, những gương đấu tranh anh dũng của quân dân Việt Nam; giới thiệu đời sống và thành tích đấu tranh, kiến thiết của nhân dân các nước bạn; và giáo dục văn hóa và chính trị cho nhân dân. Qua nhiều lần thay đổi về tổ chức và bộ máy, từ Quốc doanh phát hành phim Trung ương (1958) đến Hãng Fafim Việt Nam (1992), năm 1993, Công ty được chính thức chuyển thành Công ty Xuất nhập khẩu Phát hành phim Việt Nam theo Quyết định số 801/QĐ-BVHTT ngày 26 tháng 4 năm 1993 của Bộ Văn hoá-Thông tin nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch. Năm 2010, Công ty Xuất nhập khẩu Phát hành phim Việt Nam được chuyển đổi thành Công ty TNHH một thành viên Xuất nhập khẩu và Phát hành phim Việt Nam 19 theo Quyết định số 1174/QĐ-BVHTTDL ngày 02/4/2010 của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch. Thực hiện Quyết định số 1344/QĐ-BVHTTDL ngày 20/04/2011 của Bộ Văn Hóa, Thể thao và Du lịch về việc cổ phần hóa Công ty TNHH MTV Xuất Nhập khẩu và Phát hành phim Việt Nam, Công ty Cổ phần Fafim Việt Nam đã hình thành và chính thức hoạt động theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp công ty cổ phần số 0100109850 do Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội cấp lần thứ 2 ngày 03/07/2012. 2.1.2. Bộ máy quản lý Sơ đồ 2.1. Cơ cấu tổ chức của Công ty Cổ phần Fafim Việt Nam Đại hội đồng cổ đông Ban kiểm soát Hội đồng quản trị Ban Tổng giám đốc Phòng Tài chính kế toán Phòng Hành chính tổng hợp Phòng Kinh doanh Cụm Rạp chiếu phim Chi nhánh Công ty Cổ phần Fafim Việt Nam tại Đà Nẵng (Nguồn: Phòng Hành chính - Tổng hợp) Chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận  Đại hội đồng cổ đông: Là cơ quan có thẩm quyền cao nhất quyết định mọi vấn đề quan trọng của Công ty theo Luật doanh nghiệp và Điều lệ Công ty. ĐHĐCĐ là cơ 20 Thang Long University Library
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng