CHƢƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Khái quát về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
1.1.1 Khái niệm về doanh nghiệp và phân loại doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế, có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch
ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực
hiện các hoạt động kinh doanh.
Cũng theo Luật doanh nghiệp 2005 giải thích, kinh doanh là việc thực hiện liên
tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ
sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ.
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế vì lợi, mặc dù thực tế một số tổ chức doanh
nghiệp có các hoạt động không hoàn toàn nhằm mục tiêu lợi nhuận.
1.1.1.2. Phân loại doanh nghiệp
* Theo bản chất kinh tế của của chủ sở hữu
Bộ môn Kinh tế vi mô chia các tổ chức doanh nghiệp ra làm 3 loại hình chính dựa trên
hình thức và giới hạn trách nhiệm của chủ sở hữu:
- Doanh nghiệp tư nhân (Proprietorship).
- Doanh nghiệp hợp danh (Partnership).
- Doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn (Corporation).
Thông thường doanh nghiệp tư nhân chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng số các
doanh nghiệp, nhưng doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn lại chiếm tỷ trọng lớn nhất về
doanh thu, đặc biệt trong các lĩnh vực đòi hỏi vốn lớn như sản xuất hàng hóa, tài
chính,…
Số liệu thống kê ở Việt Nam từ năm 2005 đến 2012 cho thấy số lượng doanh
nghiệp tăng nhanh từ khoảng 11 vạn lên hơn 20 vạn, trong đó tỷ trọng doanh nghiệp tư
nhân giảm dần từ khoảng hơn 30% xuống hơn 20%, trong khi tỷ trọng doanh nghiệp
trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần tăng từ hơn 57% lên 67%. Tỷ trọng doanh
nghiệp hợp danh không đáng kể
* Căn cứ vào hình thức pháp lý doanh nghiệp
Căn cứ vào Luật Doanh nghiệp 2005 thì hình thức pháp lý của các loại hình
doanh nghiệp ở Việt Nam bao gồm:
Công ty trách nhiệm hữu hạn (bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở
lên và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên) là doanh nghiệp mà các thành viên
trong công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty
trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty.
1
Công ty cổ phần là doanh nghiệp mà vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều
phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cá nhân hay tổ chức sở hữu cổ phần của doanh nghiệp
được gọi là cổ đông và chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác
trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.
Công ty hợp danh là doanh nghiệp trong đó có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu
của công ty, cùng kinh doanh dưới một cái tên chung (gọi là thành viên hợp danh). Thành
viên hợp doanh phải là cá nhân và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các
nghĩa vụ của công ty. Ngoài ra trong công ty hợp danh còn có các thành viên góp vốn.
Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm
bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Mỗi cá nhân chỉ
được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo Luật đầu tư nước
ngoài 1996 chưa đăng kí lại hay chuyển đổi theo quy định.
* Căn cứ theo quy mô
Các tiêu chuẩn phân chia doanh nghiệp theo quy mô bao gồm:
- Tổng số vốn đầu tư của doanh nghiệp
- Số lượng lao động trong doanh nghiệp.
Theo những tiêu chí trên, khoản 1 điều 3 Nghị định số 56/2012/NĐ-CP ngày
30/6/2012 có quy định như sau:
DN siêu
nhỏ
II. Công
nghiệp và
xây dựng
III. Thương
mại và dịch
vụ
Doanh nghiệp vừa
Tổng
nguồn
vốn
20 tỷ
đồng trở
xuống
Số lao
động
từ trên 10
người đến
200 người
10 người
trở xuống
20 tỷ
đồng trở
xuống
từ trên 10
người đến
200 người
10 người
trở xuống
10 tỷ
đồng trở
xuống
từ trên 10
người đến
50 người
Tiêu chí
I. Nông, lâm
nghiệp và
thủy sản
Doanh nghiệp nhỏ
Số lao
động
10 người
trở xuống
Doanh nghiệp lớn
Tổng
nguồn
Số lao
vốn
động
từ trên 20
từ trên
tỷ đồng
200 người
đến 100 tỷ đến 300
đồng
người
từ trên 20
từ trên
tỷ đồng
200 người
đến 100 tỷ đến 300
đồng
người
Tổng
nguồn
vốn
từ trên
100 tỷ
đồng
từ trên
100 tỷ
đồng
từ trên 300
người
từ trên 10
tỷ đồng
đến 50 tỷ
đồng
từ trên
50 tỷ
đồng
từ trên 100
người
từ trên 50
người đến
100 người
2
Thang Long University Library
Số lao
động
từ trên 300
người
1.1.2. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Quá trình sử dụng vốn đầu tư xét về mặt bản chất chính là quá trình thực hiện
sự chuyển hoá vốn bằng tiền để tạo nên những yếu tố cơ bản của sản xuất, kinh doanh
và phục vụ sinh hoạt xã hội. Quá trình này còn được gọi là hoạt động đầu tư hay đầu
tư vốn.
Đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh, hoạt động đầu tư là một bộ phận trong
quá trình hoạt động của mình nhằm tăng thêm cơ sở vật chất kỹ thuật mới, duy trì các
cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có và là điều kiện phát triển sản xuất, kinh doanh của các
doanh nghiệp.
Đối với nền kinh tế, hoạt động đầu tư là một lĩnh vực hoạt động nhằm tạo ra và
duy trì các cơ sở vật chất của nền kinh tế.
Có nhiều quan điểm để phân loại các hoạt động đầu tư, theo từng tiêu thức ta có
thể phân ra như sau:
- Theo lĩnh vực hoạt động: Các hoạt động đầu tư có thể phân thành đầu tư phát
triển sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, đầu tư phát triển cơ sở
hạ tầng.
- Theo đặc điểm các hoạt động đầu tư:
+ Đầu tư cơ bản nhằm tái sản xuất các tài sản cố định.
+ Đầu tư vận hành nhằm tạo ra các tài sản lưu động cho các cơ sở sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ mới hình thành hoặc thêm các tài sản lưu động cho các cơ sở hiện có.
- Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi đủ vốn đã bỏ ra:
+ Đầu tư ngắn hạn là hình thức đầu tư có thời gian hoàn vốn nhỏ hơn một năm.
+ Đầu tư trung hạn và dài hạn là hình thức đầu tư có thời gian hoàn vốn lớn hơn
một năm.
- Đứng ở góc độ nội dung:
+ Đầu tư mới hình thành nên các cơ sở sản xuất, kinh doanh và dịch vụ.
+ Đầu tư thay thế nhằm mục đích đổi mới tài sản cố định làm cho chúng đồng
bộ và tiến bộ về mặt kỹ thuật.
+ Đầu tư mở rộng nhằm nâng cao năng lực sản xuất để hình thành nhà máy
mới, phân xưởng mới..v.v.. với mục đích cung cấp thêm các sản phẩm cùng loại.
+ Đầu tư mở rộng nhằm tạo ra các sản phẩm mới.
- Theo quan điểm quản lý của chủ đầu tư, hoạt động đầu tư có thể chia thành:
+ Đầu tư gián tiếp: Trong đó người bỏ vốn không trực tiếp tham gia điều hành
quá trình quản lý, quá trình thực hiện và vận hành các kết quả đầu tư. Thường là việc
3
các cá nhân, các tổ chức mua các chứng chỉ có giá như cổ phiếu, trái phiếu .. v.v.. hoặc
là việc viện trợ không hoàn lại, hoàn lại có lãi xuất thấp của các quốc gia với nhau.
+ Đầu tư trực tiếp: Trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia quá trình điều
hành, quản lý quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư. Đầu tư trực tiếp được
phân thành hai loại sau:
* Đầu tư dịch chuyển: Là loại đầu tư trong đó người có tiền mua lại một số cổ
phần đủ lớn để nắm quyền chi phối hoạt động của doanh nghiệp. Trong trường hợp
này việc đầu tư không làm gia tăng tài sản mà chỉ thay đổi quyền sở hữu các cổ phần
doanh nghiệp.
* Đầu tư phát triển: Là việc bỏ Vốn đầu tư để tạo nên những năng lực sản xuất
mới ( về cả lượng và chất) hình thức đầu tư này là biện phát chủ yếu để cung cấp việc
làm cho người lao động, là tiền đề đầu tư gián tiếp và đầu tư dịch chuyển.
Người ta thường quan niệm đầu tư là việc bỏ vốn hôm nay để mong thu được
lợi nhuận trong tương lai. Tuy nhiên tương lai chứa đầy những yếu tố bất định mà ta
khó biết trước được. Vì vậy khi đề cập đến khía cạnh rủi ro, bất chắc trong việc đầu tư
thì các nhà kinh tế quan niệm rằng: đầu tư là đánh bạc với tương lai. Còn khi đề cập
đến yếu tố thời gian trong đầu tư thì các nhà kinh tế lại quan niệm rằng: Đầu tư là để
dành tiêu dùng hiện tại và kì vọng một tiêu dùng lớn hơn trong tương lai .
Tuy ở mỗi góc độ khác nhau người ta có thể đưa ra các quan niệm khác nhau về đầu
tư, nhưng một quan niệm hoàn chỉnh về đầu tư phải bao gồm các đặc trưng sau đây:
- Công việc đầu tư phải bỏ vốn ban đầu.
- Đầu tư luôn gắn liền với rủi ro, mạo hiểm…..Do vậy các nhà đầu tư phải nhìn
nhận trước những khó khăn nay để có biện pháp phòng ngừa.
- Mục tiêu của đầu tư là hiệu quả. Nhưng ở những vị trí khác nhau, người ta
cũng nhìn nhận vấn đề hiệu quả không giống nhau. Với các doanh nghiêp thường thiên
về hiệu quả kinh tế, tối đa hoá lợi nhuận. Còn đối với nhà nước lại muốn hiệu quả kinh
tế phải gắn liền với lợi ích xã hội.Trong nhiều trường hợp lợi ích xã hội được đặt lên
hàng đầu.
Vì vậy một cách tổng quát ta có thể đưa ra khái niệm về lĩnh vực đầu tư như
sau: Đầu tư là một hình thức bỏ vốn vào hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội
nhằm thu được những lợi ích kì vọng trong tương lai.
Kinh doanh là việc thực hiện một hoặc một số công đoạn của quá trình từ đầu
tư đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện quá trình dịch vụ trên thị trường nhằm mục
đích sinh lời.
Các hình thức kinh doanh chính như sau:
4
Thang Long University Library
Kinh doanh chuyên môn hoá
Kinh doanh chuyên môn hóa tức là doanh nghiệp chỉ chuyên môn kinh doanh
một mặt hàng hay một nhóm hàng hóa nhất điịnh. Ví dụ như: xăng dầu, lương thực.
Loại hình kinh doanh chuyên môn hóa có các ưu điểm sau:
- Nắm chắc được thông tin về người mua, ngưòi bán, giá cả,thị trường, tình
hình hàng hóa và dịch vụ nên có thể làm chủ được thị truờng để vưon lên thành độc
quyền trong kinh doanh.
- Trình độ chuyên môn hóa ngày càng cao, có điều kiện để hiện đại hóa các cơ
sở vật chất kĩ thuật, đặc biệt là hệ thống cơ sở vật chất chuyên dùng tạo lợi thế lớn
trong cạnh tranh.
- Có khả năng đào tạo được những cán bộ quản lý,các chuyên gia và nhân viên
kinh doanh giỏi về cả chuyên môn và nghiệp vụ.
Bên cạnh những ưu điểm đó thì loại hình kinh doanh này cũng tồn tại những
nhược điểm sau:
- Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế thị trường thì hệ số rủi ro cao.
- Khi mặt hàng kinh doanh không chiếm được lợi thế nữa và doanh nghiệp
muốn chuyển hướng kinh doanh thì sự chuyển hướng này diễn ra chậm.
Kinh doanh tổng hợp
Kinh doanh tổng hợp là loại hình kinh doanh nhiều loại hàng hóa khác nhau,
kinh doanh không lệ thuộc vào thị trường truyền thống, bất cứ hàng hóa nào có thể
kiếm được lợi nhuận thì doanh nghiệp kinh doanh.
Loại hình kinh doanh này có những ưu điểm sau:
- Hạn chế được rủi ro trong kinh doanh và dễ dàng chuyển hướng kinh
doanh(Khi kinh doanh một loại hàng hóa nào nào đó bất lợi thì doanh nghiệp có thể
nhanh chong chuyển sang kinh doanh loại hàng hóa khác).
- Vốn kinh doanh không bị ứ đọng vì mua nhanh, bán nhanh và doanh nghiệp
thường đầu tư cho những mặt hàng có khả năng lưu chuyển nhanh nên khả năng quay
vòng vốn nhanh.
- Thị trưòng kinh doanh rộng lớn và luôn phải đối đầu với vấn đề cạnh tranh
của các doanh nghiệp khác nên kích thích tính năng động của các doanh nghiệp.
Loại hình kinh doanh này cũng có những nhược điểm sau:
- Khó trở thành độc quyền trên thị trường và ít có điều kiện tham gia vào các
liên minh độc quyền.
- Mỗi ngành hàng kinh doanh chỉ là những ngành hàng kinh doanh nhỏ nên
5
không thể tìm kiếm được lợi nhuận siêu ngạch.
- Không bộc lộ sở trường kinh doanh. Do không chuyên môn hóa nên khó đào
tạo về chuyên môn và bồi dưỡng được những chuyên gia giỏi.
* Mục tiêu hoạt động kinh doanh
Đối với mỗi doanh nghiệp thì mục tiêu kinh doanh đầu tiên là lợi nhuận vì lợi
nhuận duy trì sự sống của toàn bộ công nhân viên trong công ty cũng như sự tồn tại
của doanh nghiệp và nó cũng là động lực của kinh doanh. Muốn có lợi nhuận thì
doanh thu bán hàng phải lớn hơn chi phí bỏ ra. Muốn có doanh thu bán hàng và dịch
vụ lớn thì phải bán được hàng và giảm tối đa các khoản chi phí kinh doanh không cần
thiết. Nền kinh tế ngày nay là nền kinh tế thị trường do vậy không có độc quyền bán
cũng như độc quyền mua, chính vì vậy mà các doanh nghiệp phải cạnh tranh với nhau
để tiêu thụ được hàng hoá. Trong điều kiện cạnh tranh trên thị trường, việc thu hút
khách hàng không phải là công việc có thể thực hiện trong ít ngày mà nó là một công
việc lâu dài và bền bỉ. Doanh nghiệp phải kinh doanh loại hàng hoá phù hợp với nhu
cầu và thị hiếu của người tiêu dùng để được khách hàng chấp nhận. Muốn làm được
điều này, doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới mẫu
mã cũng như tăng cường công tác bán hàng. Lợi nhuận và sự kì vọng vào nó phụ thuộc
vào loại hàng hoá và chất lượng hàng hoá mà doanh nghiệp kinh doanh. Ngoài ra, khối
lượng và giá cả hàng hoá bán được, cung cầu hàng hoá trên thị trường, chi phí và tốc
độ tăng giảm chi phí kinh doanh,...cũng là những nhân tố quan trọng quyết định đến sự
thành bại của doanh nghiệp.
Công việc kinh doanh chịu sự chi phối của rất nhiều yếu tố chủ quan và khách
quan, vấn đề rủi ro là không thể tránh khỏi, do vậy an toàn là mục tiêu thứ hai mà
doanh nghiệp cần quan tâm. Thị trường kinh doanh luôn có nhiều biến động có thể gây
rủi ro cho công việc kinh doanh của doanh nghiệp, vì vậy vấn đề bảo toàn nguồn vốn
và duy trì hoạt động kinh doanh đòi hỏi phải có sự an toàn thông qua việc đa dạng hoá
kinh doanh “trứng không cho hết vào một giỏ”. Các quyết định kinh doanh phải được
đưa ra nhanh, nhạy và kịp thời nếu không cơ hội sẽ trôi qua nhưng các quyết định đó
cũng cần phải được cân nhắc mặt lợi, mặt hại. Chính vì vậy, bản lĩnh và khả năng nhìn
xa trông rộng của người lãnh đạo hết sức quan trọng đối với sự sống còn của doanh
nghiệp.
Ngày nay, nền kinh tế thị trường cạnh tranh vô cùng khốc liệt. Chính vì điều đó
mà các doanh nghiệp cần phải hoạch định chiến lược cho đúng đắn. Điều quan trọng là
phải chiếm lĩnh được thị trường và tạo chỗ đứng vững chắc trên thị trường. Mục đích
chính của công việc kinh doanh là lợi nhuận nhưng không phải lúc nào mục đích này
cũng được thực hiện nên doanh nghiệp cần phải có sự lựa chọn mục tiêu. Doanh
6
Thang Long University Library
nghiệp cần phải xác định được đâu là mục tiêu quan trọng nhất, có khả năng thực hiện
lớn nhất và sẽ được doanh nghiệp thực hiện trước nhất để đặt đó là mục tiêu hàng đầu.
Việc lựa chọn mục tiêu có thể biểu diễn thông qua mô hình tháp mục tiêu. Trong mô
hình này, các mục tiêu quan trọng và dễ thực hiện được đặt trên nhất và tuần tự là các
mục tiêu lâu dài hơn.
Nhìn chung, các doanh nghiệp thương mại hoạt động trong lĩnh vực lưu thông
hàng hoá thường có ba mục tiêu cơ bản là: lợi nhuận, an toàn và vị thế của doanh
nghiệp. Đối với các doanh nghiệp mới bắt đầu bước vào kinh doanh thì yếu tố an toàn
được đặt lên hàng đầu và chỉ khi nào mục tiêu an toàn được thực hiện thì các mục tiêu
tiếp theo là vị thế và lợi nhuận của doanh nghiệp mới được thực hiện. Mục tiêu lợi
nhuận là mục tiêu lâu dài và để đạt được mục tiêu này doanh nghiệp cũng phải tuân
thủ các quy luật của thị trường nếu không muốn phải trả giá đắt bởi thị trường cũng có
quy luật riêng của nó đó là:
+ Quy luật hàng hoá vận động từ nơi có giá trị thấp đến nơi có giá trị cao
+ Quy luật mua rẻ bán đắt. Thuận theo đó thì doanh nghiệp có lợi nhuận thông
qua phần chênh lệch giá còn ngược lại thì doanh nghiệp sẽ bị lỗ.
+ Quy luật “mua của người chán, bán cho người cần”. Nếu doanh nghiệp thực
hiện được điều này thì sẽ thu được lợi nhuận cao hơn vì người bán vì muốn bán hàng
nhanh sẽ chịu bán với giá thấp hơn còn người mua thì do muốn có hàng hoá đó nên
sẵn sàng trả cao hơn lúc bình thường.
1.2. Hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
1.2.1 Khái niệm hiệu quả kinh doanh và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh
doanh
1.2.1.1. Khái niệm hiệu quả kinh doanh
Từ trước đến nay các nhà kinh tế đã đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp.
7
- Trong điều kiện kinh tế thị trường, doanh nghiệp muốn tồn tài và phát triển
đòi hỏi kinh doanh phải có hiệu quả . Hiệu quả kinh doanh cao, doanh nghiệp có điều
kiện mở rộng và phát triển, đầu tư thêm thiết bị , phương tiện áp dụng tiến bộ khoa học
kỹ thuật, công nghệ mới , nâng cao đời sống người lao động.
- Nhà kinh tế học Adam Smith cho rằng: "Hiệu quả là kết quả đạt được trong
hoạt động kinh tế, là doanh thu tiêu thụ hàng hoá". Như vậy, hiệu quả được đồng
nghĩa với chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh, có thể do tăng chi phí mở
rộng sử dụng nguồn lực sản xuất. Nếu cùng một kết quả có hai mức chi phí khác nhau
thì theo quan điểm này doanh nghiệp cũng đạt hiệu quả.
- Hiệu quả kinh doanh được xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt được với chi
phí bỏ ra. Điển hình cho quan điểm này là tác giả Manfred - Kuhn và quan điểm này
được nhiều nhà kinh tế và quản trị kinh doanh áp dụng và tính hiệu quả kinh tế của các
quá trình sản xuất kinh doanh
- Kết quả kinh doanh được xem là một đại lượng vật chất được tạo ra trong quá
trình hoạt động kinh doanh. Do đó có kết quả chưa chắc đã có hiệu quả.
- Hiệu quả kinh doanh là một đại lượng so sánh đầu vào và đầu ra trong quá
trình hoạt động kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh phải được xem xét toàn diện cả về
mặt không gian, thời gian, định tính và định lượng.
- Hiệu quả kinh doanh là sự tăng trưởng kinh tế phản ánh nhịp độ tăng của các
chỉ tiêu kinh tế. Cách hiểu này chỉ là phiến diện, nó chỉ đúng trên mức độ biến động
theo thời gian.
- Hiệu quả kinh doanh là mức độ tiết kiệm chi phí và mức tăng kết quả. Đây là
biểu hiện của bản chất chứ không phải là khái niệm về hiệu quả kinh tế.
.- Từ các khái niệm về hiệu quả kinh doanh trên ta có thể đưa ra một số khái
niệm ngắn gọn như sau: hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ
lợi dụng các nguồn lực (lao động, , thiết bị, vốn và các yếu tố khác) nhằm đạt được
mục tiêu kinh doanh mà doanh nghiệp đã đề ra.
1.2.1.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh
Hiệu quả kinh doanh là một trong các công cụ hữu hiệu để các nhà quản trị thực
hiện các chức năng của mình. Việc xem xét và tính toán hiệu quả kinh doanh không
những chỉ cho biết việc sản xuất đạt ở trình độ nào mà còn cho phép các nhà quản trị
phân tích, tìm ra các nhân tố để đưa ra các biện pháp thích hợp trên cả hai phương diện
tăng kết quả và giảm chi phí kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả. Với tư cách là một
công cụ đánh giá và phân tích kinh tế, phạm trù hiệu quả không chỉ được sử dụng ở
giác độ tổng hợp, đánh giá chung trình độ sử dụng tổng hợp đầu vào trong phạm vi
toàn doanh nghiệp mà còn sử dụng để đánh giá trình độ sử dụng từng yếu tố đầu vào ở
8
Thang Long University Library
phạm vi toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như ở từng bộ
phận cấu thành của doanh nghiệp.
Ngoài ra, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh còn là sự biểu hiện của việc lựa
chọn phương án sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp phải tự lựa chọn phương án sản
xuất kinh doanh của mình cho phù hợp với trình độ của doanh nghiệp. Để đạt được
mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, doanh nghiệp buộc phải sử dụng tối ưu nguồn lực sẵn
có. Nhưng việc sử dụng nguồn lực đó bằng cách nào để có hiệu quả nhất lại là một bài
toán mà nhà quản trị phải lựa chọn cách giải. Chính vì vậy, ta có thể nói rằng việc
nâng cao hiệu quả kinh doanh không chỉ là công cụ hữu hiện để các nhà quản trị thực
hiện các chức năng quản trị của mình mà còn là thước đo trình độ của nhà quản trị.
Ngoài những chức năng trên của hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, nó còn
là vai trò quan trọng trong cơ chế thị trường.
Thứ nhất, nâng cao hiệu quả kinh doanh là cơ sở cơ bản để đảm bảo sự tồn tại
và phát triển của doanh nghiệp. Sự tồn tại của doanh nghiệp được xác định bởi sự có
mặt của doanh nghiệp trên thị trường, mà hiệu quả kinh doanh lại là nhân tố trực tiếp
đảm bảo sự tồn tại đó, đồng thời mục tiêu của doanh nghiệp là luôn tồn tại và phát
triển một cách vững chắc. Do vậy, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là một đòi hỏi
tất yếu khách quan đối với tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường
hiện nay. Do yêu cầu của sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp đòi hỏi nguồn
thu nhập của doanh nghiệp phải không ngừng tăng lên. Nhưng trong điều kiện nguồn
vốn và các yếu tố kỹ thuật cũng như các yếu tố khác của quá trình sản xuất chỉ thay
đổi trong khuôn khổ nhất định thì để tăng lợi nhuận đòi hỏi các doanh nghiệp phải
nâng cao hiệu quả kinh doanh. Như vậy, hiệu quả kinh doanh là hết sức quan trọng
trong việc đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Một cách nhìn khác sự tồn tại của doanh nghiệp được xác định bởi sự tạo ra
hàng hóa, của cải vật chất và các dịch vụ phục vụ cho nhu cầu của xã hội, đồng thời
tạo ra sự tích lũy cho xã hội. Để thực hiện được như vậy thì mỗi doanh nghiệp đều
phải vươn lên và đứng vững để đảm bảo thu nhập đủ bù đắp chi phí bỏ ra và có lãi
trong quá trình hoạt động kinh doanh. Có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu tái sản
xuất trong nền kinh tế. Như vậy chúng ta buộc phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh một cách liên tục trong mọi khâu của quá trình hoạt động kinh doanh như là
một nhu cầu tất yếu. Tuy nhiên, sự tồn tại mới chỉ là yêu cầu mang tính chất giản đơn
còn sự phát triển và mở rộng của doanh nghiệp mới là yêu cầu quan trọng. Bởi vì sự
tồn tại của doanh nghiệp luôn luôn phải đi kèm với sự phát triển mở rộng của doanh
nghiệp, đòi hỏi phải có sự tích lũy đảm bảo cho quá trình sản xuất mở rộng theo đúng
quy luật phát triển.
9
Thứ hai, nâng cao hiệu quả kinh doanh là nhân tố thúc đẩy sự cạnh tranh và
tiến bộ trong kinh doanh. Chính việc thúc đẩy cạnh tranh yêu cầu các doanh nghiệp
phải tự tìm tòi, đầu tư tạo nên sự tiến bộ trong kinh doanh. Chấp nhận cơ chế thị trường là chấp nhận sự cạnh tranh. Song khi thị trường ngày càng phát triển thì cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng gay gắt và khốc liệt hơn. Sự cạnh tranh lúc này
không còn là sự cạnh tranh về mặt hàng mà cạnh tranh về mặt chất lượng, giá cả mà cò
phải cạnh tranh nhiều yếu tố khác nữa. mục tiêu của doanh nghiệp là phát triển thì
cạnh tranh là yếu tố làm cho doanh nghiệp mạnh lên nhưng ngược lại cũng có thể là
cho doanh nghiệp không tồn tại được trên thị trường. Để đạt được mục tiêu là tồn tại
và phát triển mở rộng thì doanh nghiệp phải chiến thắng trong cạnh tranh trên thị trường. Do đó doanh nghiệp cần phải có hàng hóa, dịch vụ chất lượng tốt, giá cả hợp lý.
Mặt khác hiệu quả lao động là đồng nghĩa với việc giảm giá thành, tăng khối lượng
hàng hóa, chất lượng, mẫu mã không ngừng được cải thiện nâng cao....
Thứ ba, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh chính là nhân tố cơ bản tạo ra sự
thắng lợi cho doanh nghiệp trong quá trình hoạt động kinh doanh trên thị trường.
Muốn tạo ra sự thắng lợi trong cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng
nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình. Chính sự nâng cao hiệu quả kinh doanh là
con đường nâng cao sức cạnh tranh và khả năng tồn tại, phát triển của mỗi doanh
nghiệp.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh
1.2.2.1. Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán
Tình trạng tài chính DN được thể hiện khá rõ nét qua khả năng thanh toán. Một
DN nếu có tình trạng tài chính tốt, lành mạnh chứng tỏ hoạt động của DN có hiệu quả,
DN có đủ khả năng thanh toán. Ngược lại, nếu DN ở tình trạng tài chính xấu, chứng tỏ
hoạt động kinh doanh kém hiệu quả, DN không đảm bảo khả năng thanh toán các
khoản nợ, uy tín của DN thấp. Thực tế cho thấy, nếu khả năng thanh toán của DN
không đảm bảo, chắc chắn DN sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong mọi hoạt động, thậm
chí DN có thể rơi vào tình trạng phá sản.
* Hệ số khả năng thanh toán hiện thời (nợ ngắn hạn)
Là mối quan hệ giữa tài sản ngắn hạn và các khoản nợ ngắn hạn. Hệ số này thể
hiện mức độ đảm bảo của tài sản lưu động với nợ ngắn hạn. Chỉ tiêu này đánh giá tốt
nhất khả năng thanh toán ngắn hạn.
Hệ số khả năng thanh toán hiện thời =
Tài sản lưu động + Đầu tư ngắn hạn
Tổng nợ ngắn hạn
10
Thang Long University Library
Hệ số này phản ảnh toàn bộ tiền và các loại tài sản lưu động có thể chuyển
thành tiền để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn trong vòng một năm, hoặc một chu kỳ
kinh doanh. Hệ số này xấp xỉ bằng 1 thì doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các
khoản nợ ngắn hạn và tình hình tài chính của doanh nghiệp được đánh giá là tốt.
* Hệ số khả năng thanh toán nhanh (tức thời)
Hệ số này thể hiện khả năng về tiền mặt và các loại tài sản có thể chuyển ngay
thành tiền để thanh toán nợ ngắn hạn.
Hệ số thanh
toán Nhanh
Tổng vốn bằng tiền+ Đầu tư ngắn hạn+Các khoản phải thu
=
Tổng nợ ngắn hạn
Hệ số này càng gần 1 càng tốt, càng nhỏ xa 1 thể hiện doanh nghiệp đang gặp
nhiều khó khăn để thanh toán các khoản nợ đến hạn phải trả. Nếu hệ số này quá lớn lại
gây tình trạng mất cân đối của vốn lưu động
* Hệ số thanh toán bằng tiền
Phản ánh khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn bằng tiền.
`
Tổng số vốn bằng tiền
=
Hệ số thanh toán bằng tiền
Tổng nợ ngắn hạn
Hệ số này lớn hơn 0,5 là tốt, nếu quá cao chứng tỏ doanh nghiệp đang giữ vốn
quá nhiều dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn thấp. Nếu quá nhỏ doanh nghiệp gặp khó
khăn trong việc thanh toán các khoản công nợ, có thể phải bán đi hàng hoá để trả nợ.
* Hệ số thanh toán nợ dài hạn
Chỉ tiêu so sánh giữa giá trị còn lại của tài sản cố định được hình thành từ
nguồn vốn vay với số dư nợ dài hạn.
Hệ số thanh toán nợ
=
dài hạn
Giá trị còn lại của tài sản cố định hình thành
từ nguồn vốn vay hoặc nợ dài hạn
Tổng nợ dài hạn
* Tỷ lệ các khoản phải thu so với các khoản phải trả
Bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng có một số vốn bị khách hàng chiếm dụng và
lại phải chiếm dụng của người khác. So sánh phần bị chiếm dụng và phần chiếm dụng
sẽ cho biết thêm tình hình công nợ của doanh nghiệp.
Tổng số nợ phải thu
Hệ số nợ phải thu, phải trả
=
Tổng số nợ phải trả
11
Tỷ lệ này lớn hơn 1 chứng tỏ doanh nghiệp đang bị chiếm dụng vốn nhiều hơn
là mình đi chiếm dụng của người ta, và tỷ lệ này càng lớn chứng tỏ đơn vị bị chiếm
dụng vốn nhiều và ngược lại.
1.2.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực hoạt động của doanh nghiệp
Các chỉ tiêu đánh giá khả năng hoạt động là nhóm chỉ tiêu đặc trưng cho việc sử
dụng tài nguyên, nguồn lực của DN. Bao gồm các chỉ tiêu sau:
* Số vòng quay hàng tồn kho
Số vòng quay hàng tồn kho là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hoạt động
kinh doanh của DN, thể hiện khả năng quản trị hàng tồn kho của DN.
Giá vốn hàng bán
Số vòng quay hàng tồn kho =
Hàng tồn kho trung bình
Chỉ tiêu vòng quay hàng tồn kho cho biết trong 1 năm hay 1 kỳ, vốn đầu tư cho
hàng tồn kho quay được bao nhiêu vòng. Tỷ số càng lớn thì số vòng quay càng nhiều,
chứng tỏ hàng tồn kho vận động không ngừng, đó là nhân tố để tăng doanh thu, góp
phần tăng lợi nhuận của DN.
* Thời gian quay vòng kho
360
Thời gian vòng quay =
Số vòng quay hàng tồn kho
Chỉ tiêu này cho biết 1 vòng quay của hàng tồn kho mất bao nhiêu ngày, chỉ
tiêu này càng thấp, chứng tỏ hàng tồn kho vận động nhanh đó là nhân tố góp phần tăng
doanh thu và lợi nhuận của DN.
* Số vòng quay khoản phải thu
Số vòng quay các khoản phải thu phản ánh tốc độ biến đổi các khoản phải thu
thành tiền mặt. Hệ số này là một thước đo quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động
của doanh nghiệp.
Doanh thu thuần
Số vòng quay phải thu của khách hàng =
Phải thu khách hàng trung bình
Chỉ tiêu này cho biết trong 1 kỳ phân tích, các khoản phải thu quay được bao
nhiêu vòng. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ DN thu hồi tiền hàng kịp thời, ít bị chiếm
dụng vốn. Tuy nhiên, chỉ tiêu này quá cao có thể phương thức thanh toán tiền của DN
quá chặt chẽ, khi đó sẽ ảnh hưởng đến sản lượng tiêu thụ. Mặt khác, chỉ tiêu này cho
12
Thang Long University Library
biết mức độ hợp lý các khoản phải thu đối với từng mặt hàng cụ thể của DN trên thị
trường.
* Thời gian quay vòng khoản phải thu
360
Thời gian quay vòng khoản phải thu =
Số vòng quay các khoản phải thu
Chỉ tiêu này xác định thời gian của một vòng quay các khoản phải thu của
khách hàng. Chỉ tiêu này càng ngắn chứng tỏ tốc độ thu tiền càng nhanh, DN ít bị
chiếm dụng vốn. Ngược lại, thời gian của 1 vòng quay càng dài, chứng tỏ tốc độ thu
hồi tiền hàng càng chậm, số vốn của DN bị chiếm dụng nhiều.
* Số vòng quay các khoản phải trả
Số vòng quay các khoản phải trả phản ánh khả năng chiếm dụng vốn của DN
đối với nhà cung cấp.
Số vòng quay các
khoản phải phải
Giá vốn hàng bán + hàng tồn kho cuối kỳ hàng tồn kho đầu kỳ
=
Phải trả người bán
Chỉ số này cho biết trong 1 kỳ, các khoản phải trả người bán quay được bao
nhiêu vòng, chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ DN thanh toán tiền hàng kịp thời, ít đi
chiếm dụng vốn của các đối tượng. Tuy nhiên nếu chỉ tiêu này quá cao có thể DN thừa
tiền luôn thanh toán trước hạn, ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn. Chỉ tiêu này cho
biết mức độ hợp lý của các khoản phải trả đối với mặt hàng cụ thể của DN ua trên thị
trường.
* Thời gian quay vòng các khoản phải trả
360
Thoquay vòng các khoản phải trả =
Thời gian
Số vòng quay các khoản phải trả
Chỉ tiêu trên xác định thời gian của 1 vòng quay các khoản phải trả người bán.
Chỉ tiêu này càng ngắn chứng tỏ khả năng thanh toán tiền hàng cáng nhanh, DN ít đi
chiếm dụng vốn của các đối tác. Ngược lại, thời gian của 1 vòng quay càng dài, chứng
tỏ khả năng thanh toán chậm, số vốn của DN đi chiếm dụng nhiều, ảnh hưởng đến uy
tín và thương hiệu của công ty trên thị trường.
13
* Thời gian quay vòng của tiền (CCC)
Thời gian quay vòng của tiền là một thước đo để đánh giá khả năng quản lý
dòng tiền của doanh nghiệp.
Thời gian quay
vòng của tiền
(CCC)
=
Thời gian quay
vòng khoản
phải thu
+
Thời gian
quay vòng
kho
-
Thời gian quay
vòng các khoản
phải trả
Chỉ tiêu thời gian quay vòng của tiền (CCC) phản ánh khoảng thời gian ròng
tính theo ngày kể từ khi DN thanh toán tiền mua hàng cho đến khi DN thu được tiền.
Nếu giá trị của chỉ tiêu này nhỏ thì khả năng quản lý vốn lưu động tốt. Ngược lại, chỉ
tiêu này càng lớn thì lượng tiền mặt của doanh nghiệp càng khan hiếm cho hoạt động
sản xuất kinh doanh và cho các hoạt động khác như đầu tư.
1.2.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản
Bên cạnh các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, khả năng
hoạt động, các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng TS cũng phản ánh một phần không
nhỏ về hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của DN.
* Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng TSNH
Lợi nhuận sau thuế
Tỷ suất sinh lời của TSNH =
TSNH
Chỉ tiêu tỷ suất sinh lời của TSNH cho biết trong 1 kỳ kinh doanh DN đầu tư 1
đồng TSNH thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế, chỉ tiêu này càng cao hiệu
quả sử dụng TSNH là tốt, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh cho DN.
Doanh thu thuần
Hiệu suất sử dụng TSNH
=
TSNH
Chỉ tiêu Hiệu suất sử dụng TSNH cho biết một đồng TSNH tạo ra được bao
nhiêu đồng doanh thu thuần. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ sử dụng TSNH là tốt.
14
Thang Long University Library
* Hiệu suất sử dụng TSDH
Lợi nhuận sau thuế
Tỷ suất sinh lời của TSDH =
TSDH
Chỉ tiêu tỷ suất sinh lời của TSDH cho biết cứ 1 đồng TSDH sử dụng trong kỳ
thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Chỉ tiêu này càng cao hiệu quả sử dụng
TSDH là tốt, đó là nhân tố sự hấp dẫn của các nhà đầu tư.
H
Hiệu suất sử dụng TSDH =
Doanh thu thuần
TSDH
Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng TSDH cho biết một đồng TSDH tạo ra bao nhiêu
đồng doanh thu thuần. Chỉ tiêu càng cao sẽ góp phần tăng lợi nhuận cho DN. Mặt
khác, chỉ tiêu này thể hiện sức sản xuất của TSDH, chỉ tiêu càng cao chứng tỏ TS hoạt
động tốt, đó là nhân tố góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh doanh.
* Hiệu suất sử dụng tổng TS
Doanh thu thuần
Hiệu suất sử dụng TS =
Tổng TS
Hệ số hiệu suất sử dụng TS cho biết với mỗi 1 đồng TS có bao nhiêu đồng
doanh thu thuần được tạo ra. Hệ số vòng quay tổng TS càng cao đồng nghĩa với việc
sử dụng TS của DN vào các hoạt động sản xuất kinh doanh càng hiệu quả.
1.2.2.4. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng chi phí
Chi phí kinh doanh của doanh nghiệp được biểu hiện hao phí sức lao động cá
biệt của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định, nó là căn cứ để xác định số tiền
phải bù đắp thu nhập của doanh nghiệp trong thời kỳ đó. Nó được phản ánh qua các
chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng chi phí, bao gồm các chỉ tiêu sau đây:
* Tỷ suất sinh lời của GVHB
Lợi nhuận gộp về bán hàng
Tỷ suất sinh lời của GVHB =
GVHB
15
Chỉ tiêu tỷ suất sinh lời của GVHB cho biết trong kỳ kinh doanh, DN đầu tư 1
đồng GVHB thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận gộp. Hệ số này càng cao cho thấy
mức lợi nhuận trong GVHB càng lớn, thể hiện các mặt hàng kinh doanh có lời nhất,
do vậy DN càng đẩy mạnh khối lượn tiêu thụ. Chỉ tiêu này thường phụ thuộc vào đặc
điểm kinh doanh của từng ngành nghề cụ thể.
* Tỷ suất sinh lời của chi phí bán hàng
Tỷ suất sinh lời của
chi phí bán hàng
Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh
=
Chi phí bán hàng
Chỉ tiêu tỷ suất sinh lời của chi phí bán hàng cho biết trong kỳ kinh doanh, DN
đầu tư 1 đồng chi phí bán hàng thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này
càng cao chứng tỏ mức lợi nhuận trong chi phí bán hàng càng lớn, DN đã tiết kiệm
được chi phí bán hàng.
* Tỷ suất sinh lời của chi phí quản lý DN
Tỷ suất sinh lời của chi phí
quản lý doanh nghiệp
Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh
=
Chi phí quản lý kinh doanh
Chỉ tiêu tỷ suất sinh lời của chi phí quản lý DN cho biết trong 1 kỳ kinh
DN đầu tư 1 đồng chi phí quản lý DN thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận thuần.
Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ mức lợi nhuận trong chi phí quản lý DN càng lớn, DN
đã tiết kiệm chi phí quản lý của mình.
1.2.2.5. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lời
Khả năng sinh lợi của doanh nghiệp là chỉ tiêu phản ánh mức lợi nhuận mà
doanh nghiệp thu được trên 1 đơn vị chi phí hay yếu tố đầu vào hay trên 1 đơn vị đầu ra
phản ánh kết quả sản xuất. Mức lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được tính trên 1 đơn vị
càng cao thì khả năng sinh lợi càng cao, dẫn đến hiệu quả kinh doanh càng cao và ngược
lại; mức lợi nhuận thu được trên 1 đơn vị càng nhỏ, khả năng sinh lợi càng thấp, kéo theo
hiệu quả kinh doanh càng thấp. Vì thế, khả năng sinh lợi của doanh nghiệp là biểu hiện cao
nhất và tập trung nhất của hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
* Hệ số sinh lợi của doanh thu (ROS)
Hệ số sinh lợi của doanh thu (ROS) thể hiện khả năng tạo ra lợi nhuận của
doanh thu thuần. Mặt khác, chỉ tiêu này phản ánh trình độ kiểm soát chi phí của các
nhà quản trị nhằm tăng sự cạnh tranh trên thị trường.
16
Thang Long University Library
Lợi nhuận sau thuế
Hệ số sinh lợi doanh thu (ROE) =
Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này cho biết trong 1 kỳ kinh doanh, DN thu được 1 đồng doanh thu
thuần thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế thu nhập DN, chỉ tiêu này càng
cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng chi phí càng tốt. Tỷ số này mang giá trị dương nghĩa là
công ty kinh doanh có lãi và ngược lại, tỷ số mang giá trị âm nghĩa là công ty kinh
doanh thua lỗ. Đó là nhân tố giúp nhà quản trị mở rộng thị trường, tăng doanh thu.
* Hệ số sinh lợi của TS (ROA)
Trong quá trình tiến hành hoạt động kinh doanh, DN mong muốn mở rộng quy
mô sản xuất, thị trường tiêu thụ nhằm tăng trưởng mạnh. Hệ số sinh lời của TS (ROA)
giúp nhà quản trị đánh giá hiệu quả sử dụng các TS đã đầu tư.
Hệ số sinh lời của TS (ROA) =
Lợi nhuận sau thuế
Tổng tài sản
Chỉ tiêu này cho biết trong 1 kỳ kinh doanh DN bỏ ra 1 đồng TS đầu tư thì thu
được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Nếu tỷ số này lớn hơn 0, thì có nghĩa doanh
nghiệp làm ăn có lãi. Tỷ số càng cao cho thấy DN sử dụng TS càng tốt, đó là nhân tố
giúp nhà quản trị đầu tư theo chiều rộng như xây dựng nhà xưởng, mua thêm máy móc
thiết bị,... Còn nếu tỷ số nhỏ hơn 0, thì doanh nghiệp làm ăn thua lỗ.
Tỷ số lợi nhuận ròng trên TS phụ thuộc vào mùa vụ kinh doanh và ngành nghề
kinh doanh. Do đó, khi xem xét hiệu quả kinh doanh, DN chỉ sử dụng tỷ số này trong
so sánh doanh nghiệp với bình quân toàn ngành hoặc với doanh nghiệp khác cùng
ngành và so sánh cùng một thời kỳ.
Phân tích hệ số sinh lợi tài sản (ROA) bằng phương pháp phân tích tài chính
Dupont như sau:
Mô hình tài chính Dupont là một trong các mô hình thường được vận dụng để
phân tích hiệu quả sử dụng TS của DN trong mối quan hệ mật thiết giữa các yếu tố đầu
vào và kết quả đầu ra. Yếu tố đầu vào của DN thể hiện bằng các TS đầu tư. Kết quả
đầu ra của DN là chỉ tiêu doanh thu thuần, lợi nhuận. Mục đích của mô hình tài chính
Dupont là phân tích khả năng sinh lời của 1 đồng TS mà DN sử dụng dưới sự ảnh
hưởng cụ thể của những bộ phận TS, chi phí, doanh thu nào. Thông qua phân tích, mô
hình Dupont giúp cho các nhà quản trị đưa ra các quyết định nhằm đạt được khả năng
lợi nhuận mong muốn. Trong phân tích theo mô hình Dupont, cụ thể như sau:
17
ROA =
Hệ số sinh lời
của TS (ROA)
x
=
x
Hệ số sinh lời của
doanh thu (ROS)
x
Số vòng quay của
tổng TS
Trong đó, số vòng quay của tổng TS càng cao chứng tỏ sức sản xuất của các TS
càng nhanh, đó là nhân tố tăng sức sinh lời của TS. Vòng quay của tổng TS bị ảnh
hưởng bởi các nhân tố: tổng doanh thu thuần càng lớn, số vòng quay càng nhiều; tổng
TS càng nhỏ, số vòng quay càng nhiều. Song tổng doanh thu thuần và tổng TS có quan
hệ mật thiết với nhau, trong thực tế hai chỉ tiêu này thường quan hệ cùng chiều, khi
tổng TS tăng thì doanh thu thuần tăng. Trên cơ sở đó, nếu DN muốn tăng vòng quay
tổng TS thì cần phân tích các nhân tố có liên quan, phát hiện mặt tích cực, tiêu cực của
từng nhân tố để có biện pháp nâng cao số vòng quay tổng TS, góp phần nâng cao hiệu
quả kinh doanh.
Khi nghiên cứu khả năng sinh lợi của TS phải quan tâm đến mức tăng của
VCSH bởi số vòng quay của tổng TS và sức sinh lời của doanh thu thuần là 2 nhân tố
không phải lúc nào cũng tăng ổn định. Mặt khác, để tăng lợi nhuận trong tương lai,
DN phải đầu tư thêm. Việc tăng VCSH phụ thuộc vào lợi nhuận thuần và chính sách
phân phối lợi nhuận của công ty. Do vậy, cần tăng VCSH và tăng những nguồn tài trợ
từ bên ngoài.
Tóm lại, phân tích hiệu quả sử dụng TS của DN dựa vào mô hình tài chính
Dupont đã đánh giá đầy đủ hiệu quả trên mọi phương diện. Đồng thời phát hiện ra các
nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng TS để từ đó có biện pháp nâng cao lợi nhuận
cho DN.
* Hệ số sinh lợi VCSH (ROE)
Hệ số sinh lợi VCSH (ROE) cho biết khả năng tạo ra lợi nhuận của VCSH mà
DN sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Lợi nhuận sau thuế
Hệ số sinh lợi VCSH (ROE) =
VCSH
Hệ số này cho biết 1 đồng VCSH của DN tạo ra bao nhiều đồng lợi nhuận sau
thuế. Nếu tỷ số này mang giá trị dương, là công ty làm ăn có lãi; nếu mang giá trị âm
là công ty làm ăn thua lỗ. Nếu chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng VCSH
của DN là tốt, góp phần nâng cao khả năng đầu tư của chủ DN. Đó là nhân tố giúp nhà
quản trị tăng VCSH để phục vụ cho hoạt động kinh doanh.
18
Thang Long University Library
Cũng như tỷ số lợi nhuận trên TS, tỷ số này phụ thuộc vào thời vụ kinh doanh.
Ngoài ra, nó còn phụ thuộc vào quy mô và mức độ rủi ro của DN. Để so sánh chính
xác, cần so sánh tỷ số này của một DN với tỷ số bình quân của toàn ngành, hoặc với tỷ
số của DN tương đương trong cùng ngành.
Phân tích hệ số sinh lợi VCSH (ROE) bằng phương pháp phân tích tài chính
Dupont như sau:
Để phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời của VCSH ta có thể
biến đổi chỉ tiêu ROE theo mô hình tài chính Dupont.
ROE =
Hệ số sinh lợi
VCSH (ROE)
x
x
Hệ=số sinh lợi
= của doanh thu (ROS)
Số vòng
X quay
x của tổng TS
HệXsố TS
x so với VCSH
Nhìn vào quan hệ trên ta thấy muốn nâng cao khả năng sinh lời của VCSH có
thể tác động vào 3 nhân tố: hệ số TS so với VCSH, số vòng quay của tổng TS và hệ số
sinh lợi của doanh thu (ROS).
Chỉ tiêu ROE phản ánh khả năng sinh lời của vốn chủ sở hữu và được các nhà
đầu tư đặc biệt quan tâm.
1.2.2.6. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động
* Năng suất lao động của một công nhân viên
Năng suất lao động
của một nhân viên
trong kỳ
=
Tổng giá trị sản xuất tạo ra trong kỳ
Tổng số CNV làm việc trong kỳ
Chỉ tiêu này cho biết một công nhân viên trong kỳ làm ra được bao nhiêu đồng
doanh thu.
* Kết quả sản xuất trên một đồng chi phí tiền lương
Kết quả sản xuất trên
một đồng chi phí tiền
lương
Doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ
=
Tổng chi phí tiền lương bình
quân
19
Chỉ tiêu này cho biết một đồng chi phí tiền lương trong kỳ làm ra được bao
nhiêu đồng doanh thu.
* Chỉ tiêu lợi nhuận bình quân tính cho một lao động
Lợi nhuận trong kỳ
Chỉ tiêu lợi nhuận bình quân cho một lao động
=
Tổng số lao động bình quân
trong kỳ
Chỉ tiêu này cho biết bình quân một lao động trong kỳ tạo ra được bao nhiêu
đồng lợi nhuận.
*Hệ số sử dụng lao động
Tổng số lao động được sử dụng
Hiệu số sử dụng lao động
=
Tổng số lao động hiện có
Chỉ tiêu này cho biết trình độ sử dụng lao động của doanh nghiệp: số lao động
của doanh nghiệp đã được sử dụng hết năng lực hay chưa, từ đó tìm nguyên nhân và
giải pháp thích hợp.
1.3. Nhân tố ảnh hƣởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
1.3.1. Nhân tố chủ quan
13.2.1 Công tác tổ chức quản lý
Công tác tổ chức quản lý là việc sắp xếp, phân chia quyền hạn và trách nhiệm
cụ thể, riêng lẻ cho từng người cũng như cho tập thể trong một tổ chức. Công tác tổ
chức quản lý hợp lý sẽ giúp cho nhân viên làm việc một cách có hiệu quả do tổ chức
đã phân rõ nguồn lực cho từng công việc cụ thể, các nhân viên đã hiểu rõ từng qui tắc
cũng như quy trình làm việc để có thể xử lí thông tin, ra quyết định và giải quyết công
việc có hiệu quả.
1.3.2.2 Trình độ tổ chức sản xuất
- Trình độ quản lý của các cấp lãnh đạo trong công ty rất quan trọng. Nếu các
cấp lãnh đạo trong công ty không đủ năng lực quản lý sẽ dẫn đến công ty phát triển sai
hướng hoặc sẽ làm lãng phí về nguồn lực của công ty. Vì vậy đạo tạo đội ngũ cán bộ
có trình độ là yếu tố rất cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh.
- Tay nghề của người lao động: trình độ và tay nghề của người lao động ảnh hưởng
rất lớn đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty. Trình độ và tay nghề của công nhân,
nhân viên yếu, kém sẽ làm công ty kém phát triển, hiệu quả công việc không cao. Dẫn đến
ảnh hưởng đến năng suất lao động công ty. Lãng phí về nguồn lực.
20
Thang Long University Library
- Xem thêm -