Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học phổ thông Một số phương pháp giúp học sinh yêu thích học môn ngữ văn ở trường thpt...

Tài liệu Một số phương pháp giúp học sinh yêu thích học môn ngữ văn ở trường thpt

.DOC
20
259
72

Mô tả:

ĐỀ TÀI: Một số phương pháp giúp học sinh yêu thích học môn Ngữ văn ở trường THPT PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở khoa học: 1.1.Cơ sở lí luận: Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định "Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục là khâu then chốt” và “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng xây dựng đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam". Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đã định hướng: "Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược". Chiến lược phát triển giáo dục 2011 - 2020 nhằm quán triệt và cụ thể hoá các chủ trương, định hướng đổi mới giáo dục và đào tạo, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 của đất nước. Muốn phát triển toàn diện về giáo dục thì khâu quan trọng nhất là đổi mới phương pháp dạy học, trong đó có môn Ngữ văn. Nếu đã từng thực sự biết khám phá, hiểu sâu và lĩnh hội hết những giá trị tư tưởng cũng như nghệ thuật của những tác phẩm văn học, chắc hẳn ai cũng có thể nhận thấy những chức năng đặc thù của văn học trong việc bồi đắp tâm hồn, hình thành nhân cách học sinh.Văn học trang bị những cảm xúc nhân văn, giúp con người hướng tới Chân - Thiện - Mỹ. Nhờ có Văn học mà đời sống tinh thần của con người ngày càng giàu có, phong phú, tinh tế hơn. Tâm hồn trở nên bớt chai sạn, thờ ơ, bàng quan trước những số phận, cảnh đời diễn ra xung quanh mình hàng ngày, trước thiên nhiên và tạo vật. Điều này càng quan trọng khi chúng ta đang sống trong guồng quay hối hả của cuộc sống hiện đại. Văn học bồi đắp cho học sinh lòng yêu nước, thái độ trân trọng truyền thống, và ngôn ngữ Mẹ đẻ... Thời nào cũng vậy, tác phẩm Văn học chân chính có khả năng kì diệu là thanh lọc tâm hồn con người, làm người “gần người hơn”. Môn Ngữ văn còn có vai trò quan trọng trong việc rèn luyện khả năng sử dụng ngôn ngữ, diễn đạt, cách thức tạo lập các loại văn bản phục vụ cho quá trình giao tiếp trên mọi lĩnh vực của mỗi người trong cuộc sống. Song có một thực trạng đáng buồn hiện nay là khi đất nước bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa thi một bộ phận học sinh coi nhẹ môn Ngữ văn và các môn xã hội, nhân văn nói chung. Các em chỉ quan tâm học Ngoại ngữ, Tin học và các môn khoa học tự nhiên. Thế kỉ XXI đã và sẽ chứng kiến tốc độ phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ. Do đó, không quá khó hiểu khi giới trẻ hiện nay có xu hướng tìm đến Ngoại ngữ, Tin học và các môn khoa học tự nhiên như là một sự bảo đảm cho tương lai. Nhưng thật sai lầm khi học sinh loại bỏ môn Ngữ văn ra khỏi hành trang tri thức khi bước vào đời. 1.2. Cơ sở thực tiễn: Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn, qua gần mười năm thực hiện đổi mới và thay sách giáo khoa đã giúp tôi nhận thấy: Để góp phần nâng cao hiệu quả của công việc đổi mới dạy học theo hướng phát huy sự chủ động sáng tạo của học sinh thì vấn đề làm thế nào tạo hứng thú học tập cho các em là cần làm, nên làm và có thể làm được. Nhất là trong tình hình hiện nay, khi mà ở các trường THPT đã có những biểu hiện của học sinh “chán” học môn Ngữ văn thì việc làm này lại càng cần thiết, là một hướng đi đúng để nâng cao chất lượng dạy của giáo viên, một vấn đề mà tất cả các nhà trường và toàn xã hội đang quan tâm. Nhìn chung, trong thực tế, hứng thú, yêu thích làm tăng hiệu quả của hoạt động, nó làm nảy sinh khát vọng sáng tạo bởi niềm đam mê của cá nhân. Thực tiễn đã chứng minh, không có một tài năng lỗi lạc nào mà trong hoạt động của họ không có niềm yêu thích. Hứng thú của học sinh THPT chủ yếu là do nghệ thuật giảng dạy của người thầy và bản thân nội dung tri thức khoa học của môn học quyết định. Ở lứa tuổi học sinh THPT, hứng thú nhận thức đang có sự chọn lọc rất mạnh mẽ. Học nhiều bộ môn khác nhau, các em có thể nhận biết tất cả nhưng không thể hứng thú với tất cả những điều đã nhận biết. Các em chỉ hứng thú với cái mà mình đã chọn lọc, phù hợp với hiện tại và tương lai của mình… Điều đó được thể hiện bằng sự ham học, ngạc nhiên chờ đón kiến thức mới, xúc động và cao hơn là say mê ấp ủ điều mình đang tìm tòi, phát hiện có khi quên ăn, quên ngủ. Đó còn là tính tìm kiếm tích cực - quá trình tích cực suy nghĩ là hạt nhân của hứng thú học tập. Ngoài ra còn tự giác đọc thêm tài liệu tham khảo, làm thêm bài tập, đọc thêm sách báo, hoạt động trong các giờ ngoại khoá.v.v… Vậy mà, học sinh có biểu hiện chán học Ngữ văn, chuyện lạ mà có thật đã phổ biến trong nhà trường từ nhiều năm nay. Thầy cô giáo lên tiếng, phụ huynh băn khoăn, học sinh đã lơ là và chỉ học để đối phó với những kì thi. Ngữ văn là bộ môn khoa học nhưng đồng thời cũng là bộ môn nghệ thuật - một môn nghệ thuật dùng chất liệu biến ảo vạn năng là ngôn ngữ, là tiếng mẹ đẻ của dân tộc, lẽ ra người học phải tiếp nhận nó với niềm đam mê. Thế nhưng tình trạng chữ xấu, sai chính tả trầm trọng, dùng từ không chính xác, câu cụt, văn rối, không biết sắp xếp ý.v.v… là những vấn đề thường gặp trên bài làm của học sinh. Nguy hại hơn, tâm hồn các em - cái đích cuối cùng của bộ môn Ngữ văn cần đạt tới cũng sẽ héo khô theo. Vì lí do trên tôi đã chọn và nghiên cứu đề tài này. 2. Phạm vi đề tài: Ứng dụng các phương pháp dạy học phát huy niềm đam mê, yêu thích học môn Ngữ văn ở trường THPT, cụ thể là đối với học sinh các khối lớp ở trường THPT Hoàng Hoa Thám. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: 3.1. Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu chỉ thị năm học, chiến lược phát triển giáo dục và thực trạng dạy và học Văn hiện nay ở trường THPT để đề ra những giải pháp hiệu quả giúp học sinh yêu thích môn Ngữ văn nhằm mục đích: - Đảm bảo yêu cầu chất lượng bộ môn do Bộ đề ra. - Giúp học sinh học tập nghiêm túc bộ môn và tiến tới có lòng yêu thích, hứng thú học tập bộ môn. - Bồi dưỡng tâm hồn phong phú, biết yêu thương, biết trân trọng, biết sẻ chia...và biết sống có trách nhiệm với bản thân, với gia đình và xã hội. - Kiểm nghiệm, rút kinh nghiệm qua thực tế đã làm trong thời gian vừa qua. 3.2. Nhiệm vụ: - Nghiên cứu lí luận về dạy học môn Ngữ văn ở trường THPT. - Đề ra những giải pháp hiệu quả và cụ thể việc áp dụng nhằm nâng cao chất lượng giáo dục bộ môn Ngữ văn ở trường THPT. - Rút ra được những bài học kinh nghiệm từ việc trải nghiệm thực tế. 4. Phương pháp nghiên cứu: 4.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận: Thu thập những thông tin lý luận về phương pháp dạy học văn trên các tập san giáo dục, các bài tham luận trên Internet, đặc biệt là vận dụng kinh nghiệm cá nhân. 4.2. Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động học tập và tâm lí của học sinh. 4.3. Phương pháp điều tra: Qua các phiếu thông tin theo mẫu: Khối Sĩ số HS thích học môn Ngữ HS không thích học môn Ngữ văn văn Số HS % Số HS % 10 11 12 Tổng 4.4. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: - Tham khảo hội thảo về đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn ở cấp trường, cấp cụm, cấp tỉnh. - Tham khảo hội thảo về đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn cấp Quốc gia mới tổ chức tại Huế. 4.5. Phương pháp thử nghiệm: Thử áp dụng các giải pháp vào giảng dạy các khối lớp ở trường THPT Hoàng Hoa Thám năm học 2012-2013. 4.6. Thời gian thực hiện: - Bắt đầu : 05/9/2012 - Kết thúc : 30/3/2013 PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Thực trạng công tác dạy và học môn Ngữ văn ở trường THPT. 1.1 Thực trạng chung: Vừa qua, Bộ GD&ĐT tổ chức hội nghị về công tác thi và tuyển sinh năm 2013, công bố một số điểm mới trong mùa tuyển sinh năm nay. Một trong số các điểm mới gây ra không ít băn khoăn trong dư luận là việc thí sinh thi vào các trường ĐH, CĐ thuộc khối Văn hóa – Nghệ thuật không phải dự thi môn Ngữ văn, chỉ xét tuyển dựa vào kết quả thi theo đề thi chung của Bộ GD&ĐT hoặc dựa vào kết quả thi tốt nghiệp và điểm trung bình 3 năm học THPT. Theo quy định mới của Bộ GD&ĐT: Các trường có tuyển sinh ngành đào tạo thuộc khối Văn hóa (khối C) không tổ chức thi, chỉ xét tuyển dựa vào kết quả theo đề thi chung của Bộ GD&ĐT; các trường có tuyển sinh ngành đào tạo thuộc khối Nghệ thuật (khối H, N, S), chỉ tổ chức thi các môn năng khiếu, xét tuyển môn Ngữ văn dựa vào kết quả thi tốt nghiệp và điểm trung bình 3 năm học THPT. Trước những quy định mới này, một số người đồng tình cho rằng: Ngữ văn là môn thi điều kiện, không quan trọng, điều quan trọng đối với những thí sinh thi vào các trường mang tính đặc thù này là phải có năng khiếu tốt. Và như vậy, nếu dựa vào điểm thi môn Ngữ văn, những thí sinh có năng khiếu tốt nhưng điểm thi môn Ngữ văn thấp, không được tuyển, có thể bỏ rơi tài năng. Tuy nhiên, thực tế từ trước đến nay, trong quan niệm của nhiều người, Ngữ văn vẫn là môn thi quan trọng và cần thiết, nhất là với các ngành thuộc khối Văn hóa - Nghệ thuật. Thông qua các bài thi môn Ngữ văn, người ta có thể đánh giá được phần nào “phông” văn hóa của những nghệ sỹ tương lai qua kỹ năng hành văn, diễn đạt, suy nghĩ, cảm xúc, cách ứng xử trước các vấn đề xã hội có liên quan được đặt ra qua các tác phẩm văn học. Trong bối cảnh “thi gì học nấy” đang là tình trạng chung khá phổ biến ở nhiều trường phổ thông hiện nay, việc “loại” môn Ngữ văn ra khỏi danh mục các môn thi vào các trường Văn hóa - Nghệ thuật có thể là “cú hích” làm gia tăng tình trạng học sinh hờ hững, lạnh nhạt đối với môn học quan trọng này. Trong những mùa tuyển sinh gần đây, hầu như năm nào dư luận cũng than phiền về tình trạng ngày càng có nhiều học sinh chán học môn Ngữ văn, quay lưng lại với khối C. Biểu hiện rõ nhất là số thí sinh dự thi vào khối C giảm sút nghiêm trọng, năm sau giảm nhiều hơn năm trước. Cùng với đó, số bài thi có điểm thấp dưới mức trung bình cũng tỷ lệ thuận với sự xuất hiện ngày càng nhiều những bài văn “cười ra nước mắt” bởi lối diễn đạt, cách dùng từ ngây ngô, vô hồn, sáo rỗng. Thực tế đáng buồn trên bắt nguồn từ sự nhận thức phiến diện, chưa đầy đủ về tầm quan trọng của môn học có tính chất đặc thù này. Nếu đã từng thực sự nghiêm túc khám phá, thưởng thức, chiếm lĩnh giá trị nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm văn học, chắc hẳn ai cũng có thể nhận thấy những chức năng đặc thù của văn học trong việc bồi đắp tâm hồn, hình thành nhân cách học sinh.Văn học trang bị những cảm xúc nhân văn, giúp con người hướng tới Chân - Thiện - Mỹ. Nhờ có Văn học mà đời sống tinh thần của con người ngày càng giàu có, phong phú, tinh tế hơn. Sự quay lưng, né tránh đối với các môn khoa học xã hội nói chung, môn Ngữ văn nói riêng đang là một thực tế đáng buồn và chắc chắn sẽ gây ra những hệ lụy không mong muốn. Đó là một trong những biểu hiện đáng lo ngại về sự xem thường các giá trị văn hóa, tinh thần, các yếu tố góp phần bồi đắp tâm hồn, hình thành nhân cách, xa hơn là sự quay lưng với các giá trị làm người.Các vụ bạo lực học đường liên tiếp xảy ra trong thời gian qua, những vụ hành xử theo kiểu “xã hội đen” mà thủ phạm đang dần “trẻ hóa” có chiều hướng gia tăng phải chăng ít nhiều có sự liên quan đến việc xa rời, hời hợt đối với các giá trị đạo đức, nhân văn trong các môn khoa học xã hội được học trong nhà trường. Văn học giúp con người biết rung động trước những điều đang diễn ra trong cuộc sống hàng ngày, biết xúc động, thiết tha trước những điều tốt đẹp và cả bức xúc, phản kháng trước cái ác, cái xấu. Do đó, nếu không có những cảm xúc thẩm mỹ tốt đẹp, trong sáng thì khó trở thành một nhân cách hoàn thiện. 1.2.Thực trạng dạy và học môn Ngữ văn ở trường THPT Hoàng Hoa Thám: 1.2.1. Về học sinh: Thực trạng tình hình HS học tập bộ môn Ngữ văn ở trường phổ thông hiện nay đang làm nhiều người lo lắng, nhất là đối với giáo viên dạy trực tiếp như chúng tôi. Theo xu hướng chung của thời đại, HS bây giờ không thích học môn Ngữ văn chứ chưa nói là đam mê. Nền kinh tế thị trường có tác động không nhỏ tới việc lựa chọn ngành nghề trong tương lai của mỗi HS cũng như quan điểm lựa chọn nghề cho con cái của các bậc phụ huynh và còn nhiều lí do khác nữa... Đại đa số các em không thích học môn Ngữ văn vì thế đã xuất hiện học sinh trong giờ học làm việc riêng, học các môn khác; không đọc văn bản trước ở nhà; không soạn bài và làm bài tập. Tình trạng học sinh xuống cấp về đạo đức, thói vô cảm đang hàng ngày diễn ra. Không ít học sinh sa vào các tai tệ nạn xã hội.Tình trạng học sinh bỏ học ở mức báo động. Học sinh học theo xu hứng chung của xã hội, chỉ tập trung học các môn khoa học tự nhiên mà quay lưng lại với bộ môn Ngữ văn và các môn xã hội nói chung. Từ lâu môn Ngữ văn đã là môn học hết sức quan trọng, người xưa quan niệm: “Văn tức là người”, “Văn học là nhân học”, “Tiên học lễ, hậu học văn”...Văn học vừa là môn khoa học vừa là môn nghệ thuật, nó không chỉ cung cấp cho HS những kiến thức về thời đại văn học, về tác giả, tác phẩm văn học...mà còn giúp các em có một tâm hồn phong phú, biết giao tiếp, ứng xử trong xã hội. Học làm văn còn giúp các em rèn luyện khả năng sử dụng tiếng Việt, biết làm văn, biết trình bày quan điểm, chính kiến của bản thân. Đối với cấp học THPT môn Ngữ văn còn là môn thi tốt nghiệp bắt buộc, là môn thi đại học thuộc khối C, D... Trên thực tế, nhiều năm qua ý thức học tập môn Ngữ văn của HS chưa thực sự nghiêm túc và chưa có hiệu quả. Qua công tác kiểm tra việc chuẩn bị bài ở nhà của HS chúng tôi thấy phần lớn HS có vở soạn bài, có nội dung bài soạn nhưng không đảm bảo yêu cầu. Hầu hết các em đều soạn theo kiểu chống đối, chủ yếu chép trong sách Để học tốt hoặc ở các tài liệu tham khảo khác. Có HS không đọc trước văn bản nên không thể tóm tắt được văn bản, không thuộc nổi một đoạn thơ. Qua khâu chấm bài vẫn còn nhiều bài văn diễn đạt ngô nghê, trình bày thiếu lôgic, không biết chuyển đoạn, chuyển ý... Khi làm bài kiểm tra môn Ngữ văn nhiều HS nghĩ ngay đến tài liệu, nếu giáo viên coi nghiêm túc thì chỉ còn cách là làm văn “bịa”. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên: -Về phía chủ quan: Do học sinh có tư tưởng coi thường bộ môn, khi kiểm tra, khi thi thì ỷ lại vào tài liệu; lười suy nghĩ, ngại bày tỏ ý kiến. -Về phía khách quan: + Do xu thế chung của thời đại, HS thi ĐH khối C khó chọn trường, nếu tốt nghiệp ĐH cũng khó kiếm việc làm. + Do nhiều năm liền ra đề thi trắc nghiệm ở nhiều bộ môn nên học sinh ngại viết, ngại trình bày. + Do một số giáo viên dạy bộ môn Ngữ văn còn hạn chế về phương pháp, chưa tạo được hứng thú cho học sinh, chưa có những yêu cầu cụ thể và bắt buộc để học sinh học tập bộ môn. + Một số trường phổ thông còn xem nhẹ bộ môn này mà chú trọng nâng cao các bộ môn tự nhiên. 1.2.2. Về giáo viên: Nhìn chung, giáo viên trong trường đều có tinh thần đổi mới phương pháp dạy học, đưa nhiều phương pháp mới vào nâng cao chất lượng bộ môn như Ứng dụng sơ đồ tư duy; dạy học kết hợp phương pháp đối thoại; tích hợp kiến thức liên môn và giáo dục bảo vệ môi trường. Tổ chuyên môn cũng tổ chức Hội thảo chuyên đề đối với các chuyên đề như Ứng dụng sơ đồ tư duy; dạy học kết hợp phương pháp đối thoại; tích hợp kiến thức liên môn và giáo dục bảo vệ môi trường ở phạm vi cấp tổ và cấp trường. Tuy nhiên, còn một số giáo viên tỏ ra lúng túng khi đổi mới phương pháp hoặc chán nản trước tình trạng học sinh quay lưng lại với bộ môn. Là một giáo viên gắn bó hơn mười năm với nghề dạy học và trực tiếp giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở trường THPT Hoàng Hoa Thám và cũng là giáo viên nhiều năm phụ trách bồi dưỡng học sinh giỏi, ôn luyện thi đại học, tôi xin đưa ra một số giải pháp, đề xuất để làm thế nào cho học sinh có hứng thú, niềm đam mê và yêu thích học bộ môn Ngữ văn ở trường phổ thông hiện nay. 2. Giải pháp: 2.1. Sử dụng một số biện pháp quen thuộc theo hướng đổi mới: 2.1.1. Đọc diễn cảm: 2.1.1.a. Khái niệm Đọc diễn cảm : Đọc diễn cảm là thể hiện sáng tạo tác phẩm văn học trong giọng đọc nhằm tác động đến những người nghe. Nếu như các biện pháp khác thông thường tác động đến lý trí thì đọc diễn cảm, trước hết và chủ yếu tác động đến tình cảm. Bởi vì, về thực chất đọc diễn cảm thuộc nghệ thuật trình diễn, nó có những điểm tương đồng với ngâm thơ hoặc trình diễn ca khúc. Nếu giáo viên đọc diễn cảm tốt thì sẽ tạo nên bầu không khí văn chương trong giờ học. Người học, trong chừng mực nào đó, có thể thưởng thức giọng đọc và dễ sản sinh những ấn tượng, xúc động tự nhiên về văn bản. Có thể thấy rất rõ rằng trên thực tế học sinh ở nhà đã tiếp xúc với văn bản không chỉ một lần; việc lên lớp đọc lại văn bản nếu không tạo được sự khác biệt thì dễ gây nhàm chán và mất tập trung. Do đó, bằng hình thức đọc diễn cảm, giáo viên có thể tạo cho học sinh những bất ngờ, hoặc sự hứng thú và có thể khiến các em bỗng nhiên có cảm nhận mới mẻ về văn bản. Đó là chưa nói nếu như giáo viên yêu cầu học sinh trình bày thì có thể tạo cơ hội cho các em bộc lộ bản thân. Đương nhiên, giáo viên phải gieo vào học sinh ý thức đọc sao cho cuốn hút chứ không phải là qua chuyện, và đọc ở đây là thể hiện sự cảm thụ và thể nghiệm sâu sắc về tác phẩm, là làm sao để người khác cũng có thể sản sinh những ấn tượng tương tự như mình. Diễn cảm ở đây hoàn toàn không phải là ở sự uốn éo đầu lưỡi mà thể hiện những cảm xúc nội tại của tâm hồn. 2.1.1.b.Tại sao phải đọc diễn cảm: Vấn đề đang nói sẽ sáng tỏ hơn khi chúng ta làm rõ vấn đề tại sao lại phải đọc diễn cảm. Trước hết, vì ngôn từ văn bản nghệ thuật được tổ chức đặc biệt, nhà văn phải là nghệ sĩ ngôn từ. Ngôn từ văn học là ngôn từ mang tính hình tượng, biểu cảm, và ở những tác phẩm thơ chúng ta có thể nói đến tính nhạc của ngôn từ. Đọc thơ là để làm cho tác phẩm thơ vang lên như một bản nhạc làm cho nó ngân nga trong hồn người. Giáo sư Trần Thanh Đạm cho rằng đọc diễn cảm tác phẩm thơ là phải đọc làm sao cho tác phẩm “sáng hết hình và ngân hết nhạc”. Tuy nhiên, một phương diện khác quan trọng hơn, đấy là nội dung cảm hứng của văn bản, sản phẩm của việc thể hiện những rung động mãnh liệt, cảm hứng nồng nàn, cháy bỏng của nghệ sĩ vào tác phẩm. Đọc diễn cảm là làm sao lột tả được nội dung tình cảm của nó, phải đọc đúng giọng điệu, làm lây lan cảm xúc của nhà văn đến người đọc, truyền cảm hứng cho độc giả. Ngay tên gọi đã nói đúng bản chất của việc đọc diễn cảm, đó là người đọc phải thể hiện xúc cảm, tình cảm trong giọng đọc. Những cảm xúc này không phải giả tạo mà phải là cảm xúc chân thành, sâu sắc về văn bản. Nói đọc diễn cảm thuộc nghệ thuật trình diễn trước hết không phải là “khoe giọng” mà là sự thể hiện xúc động của trái tim. Chính vì thế, giáo viên sử dụng thích đáng biện pháp này sẽ tạo cho học sinh những ấn tượng tươi mới, những xúc động mạnh mẽ về văn bản; đồng thời nó có khả năng kích thích liên tưởng, tưởng tượng tạo sự thâm nhập thuận lợi vào thế giới nghệ thuật của văn bản. Cho nên, đây là biện pháp có tác dụng rèn luyện cảm thụ văn học cho học sinh. 2.1.1.c.Phạm vi sử dụng: Giáo viên có thể sử dụng biện pháp này trước khi hướng dẫn học sinh bước vào phân tích cụ thể văn bản, hoặc kết hợp với việc phân tích; cũng hoàn toàn có thể sử dụng sau khi đã hoàn tất việc tìm hiểu văn bản. Ở mỗi thời điểm nó đều có tác dụng riêng; hoặc là tạo những ấn tượng chung; hoặc kiểm nghiệm hay khắc sâu một sắc thái tình cảm nào đó; hoặc củng cố, thống nhất, nâng cao mọi ấn tượng về văn bản. 2.1.1.d.Đọc diễn cảm đối với bài thơ Đàn ghi ta của Lor- ca(Thanh Thảo) GV đọc hoặc hướng dẫn học sinh đọc: Đọc với giọng trầm buồn, xót xa, bi phẫn, phải tạo được sự ngân nga của tính nhạc trong thơ Thanh Thảo. 2.1.2 Trần thuật sáng tạo: Đây là biện pháp thường được dùng với học sinh THPT vì nó phù hợp với đặc điểm tâm lý cũng như năng lực của các em. Trần thuật sáng tạo là tự đặt mình vào một nhân vật nào đó trong văn bản mà trần thuật lại câu chuyện của nó. Hình thức này phát huy tính sáng tạo của học sinh, rèn luyện năng lực hoá thân, nhập thân vào nhân vật. Khi trần thuật, trong chừng mực nào đó, học sinh phải đặt mình vào vị trí nhân vật, thể nghiệm những gì mà nhân vật nếm trải trong tình huống của nó, từ đó hiểu sâu sắc hơn về nhân vật và mở rộng kinh nghiệm đời sống. Biện pháp này khiến học sinh hào hứng học tập, xoá bỏ khoảng cách với văn bản, phát huy được sự sáng tạo. Giáo viên phải thực hiện biện pháp này một cách linh hoạt, không nên rập khuôn. Việc trần thuật có thể thay cho việc đọc, hoặc thực hiện ở phần củng cố bài học, tuỳ vào đối tượng học sinh. Giáo viên nhất thiết phải có sự động viên khích lệ cũng như những hướng dẫn, uốn nắn cần thiết. Mục đích chính của trần thuật sáng tạo không chỉ để học sinh nắm vững hệ thống cốt truyện của văn bản mà là con đường để cảm thụ văn bản. Do đó, giáo viên phải định hướng việc trần thuật vào lĩnh hội và thể nghiệm giá trị của văn bản. Chẳng hạn, lưu ý học sinh diễn tả thế nào về những tình huống trọng yếu, những diễn biến tâm lý và xúc cảm tế nhị của nhân vật. Cũng cần lưu ý rằng đây là biện pháp phát huy sáng tạo của học sinh nhưng giáo viên phải có định hướng để học sinh không vì cảm xúc và tình cảm mà thay đổi ý đồ sáng tác của nhà văn hay tính cách của nhân vật. Trần thuật sáng tạo Truyền thuyết An Dương Vương và Mỵ Châu- Trọng Thủy- Kể lại Truyền thuyết An Dương Vương và Mỵ Châu- Trọng Thủy theo nhân vật Trọng Thủy: Tôi là Trọng Thủy, con trai của Triệu Đà. Ngày xưa, sau khi thua trận An Dương Vương, cha tôi tức lắm, lấy lòng oán hận và tìm mọi cách trả thù. Cha tôi xin hòa bằng cách ngỏ ý cho tôi cầu hôn với Mỵ Châu – con gái vua An Dương Vương. Dụng ý của cha tôi là sẽ dùng tôi làm mật thám trong việc đánh chiếm nước Nam để rửa hận. Vì cả tin, vua An Dương Vương chấp thuận lời cầu hòa và bằng lòng nhận lời cầu hôn của tôi với Mỵ Châu. Cha tôi lấy làm mừng biết bao. Lợi dụng tình yêu chân thành của Mỵ Châu, tôi dò la tin tức về bí mật nỏ thần và nơi cất dấu nỏ thần. Nể tình vợ chồng, Mỵ Châu đã kể cho tôi nghe : Vua An Dương Vương cùng dân chúng xây thành Cổ Loa ngăn chặn giặc phương Bắc, nhưng hễ cứ xây xong thành lại đổ. Nhà vua bèn lập đàn trai giới. Rồi được sứ Thanh Giang – Rùa vàng giúp đỡ. Nửa tháng thành xây xong, thành rộng hơn ngàn trượng, xoáy hình trôn ốc nên được gọi là Loa Thành. Sau đó Rùa vàng tháo móng vuốt đưa cho nhà vưa làm lẫy nỏ thần, nhờ đó mà An Dương Vương thắng được cha tôi. Một hôm, tôi dỗ Mỵ Châu cho xem trộm nỏ thần rồi làm một cái lẫy nỏ khác thay thế, sau đó tôi lấy lí do về nước thăm cha. Trước khi đi tôi căn dặn nàng : Tình vợ chồng không thể lãng quên, nghĩa cha mẹ không thể dứt bỏ. Nay ta trở về thăm cha , nếu như đến lúc hai nước thất hòa, Bắc Nam cách biệt, ta lại tìm nàng , lấy gì làm dấu. Nàng nói : Thiếp sẽ mặc áo lông ngỗng, đi đến đâu rứt lông ngỗng ở ngã ba đường làm dấu.Tôi mang nỏ thần về nước, cha tôi lập tức cử binh sang đánh. An Dương Vương cậy thế có nỏ thần nên khi quân của cha tôi tiến sát vẫn ngồi điềm nhiên đánh cờ. Khi biết nỏ thần không còn công hiệu, An Dương Vương bèn đặt Mỵ Châu sau lưng ngựa và tiến về phương Nam. Mỵ Châu ngồi sau yên ngựa, rứt lông ngỗng rắc xuống đường. Tôi nhận dấu lông ngỗng đuổi theo. Vua An Dương Vương chạy tới bờ biển, đường cùng bèn cầu cứu sứ Thanh Giang . Rùa vàng thét lớn: “Kẻ ngồi sau lưng chính là giặc đó”. An Dương Vương quay lại, thấy Mỵ Châu, hiểu ra sự việc, bèn tức giận rút gươm chém chết nàng. An Dương Vương cầm sừng tê bảy tấc cùng Rùa vàng đi xuống biển. Đời truyền đó là đất Dạ Sơn, xã Cao Xá, phủ Diễn Châu. Khi tôi quay về thì chỉ còn xác Mỵ Châu, tôi ôm xác nàng về táng ở Loa Thành, xác nàng biến thành Ngọc Thạch. Vì thương tiếc người vợ ngoan hiền, ngây thơ trong trắng mà bị tôi lừa gạt và vì quá ân hận về việc mình đã làm nên tôi đã lao đầu xuống giếng tự tử. Người đời sau kể lại rằng, mò ngọc ở biển Đông đem về lấy nước giếng này mà rửa thì thấy ngọc ngày càng sáng thêm. Bài làm của học sinh lớp 10 A3 2.1.3. Đặt những câu hỏi gợi cảm xúc, liên tưởng, tưởng tượng. Trước hết là những câu hỏi gợi cảm xúc, ở dạng đơn giản nhất chúng là những câu hỏi trắc nghiệm tình cảm. Những câu hỏi này có thể kiểm tra phản ứng tình cảm của học sinh; mặt khác nó thúc đẩy sự đồng cảm, khuyến khích các em lắng nghe tiếng nói của trái tim. Chẳng hạn, sau khi đọc diễn cảm, giáo viên có thể hỏi: Em có cảm nhận như thế nào về văn bản? Dạng câu hỏi này thường được gọi là câu hỏi ấn tượng chung. Và ở dạng tương tự, sẽ có các câu hỏi như: Em ấn tượng thế nào về (đoạn thơ, khổ thơ, câu thơ…trong bài thơ; hay hành động, ngôn ngữ, tích cách nhân vật… trong truyện)? Nhưng cũng có những hình thức đặt câu hỏi sáng tạo hơn, dựa vào việc khơi gợi liên tưởng của học sinh mà tạo sự đồng cảm, thể nghiệm văn bản. Chẳng hạn, dạy bài Ra ma buộc tội, khi phân tích hình tượng Xi-ta, đến đoạn nhà văn miêu tả nỗi đau đớn như nghẹt thở của nàng, giáo viên có thể đọc câu: “Giana-ki xấu hổ cho số kiếp của nàng. Nàng muốn chôn vùi cả hình hài và thân xác mình”, và hỏi học sinh: Khi chúng ta xấu hổ chúng ta có cảm giác thế nào khi đứng trước mặt mọi người? Hoặc khi hướng dẫn HS đọc thêm bài Đò Lèn (Nguyễn Duy), giáo viên ra câu hỏi: Cảm nhận chung của em về bài thơ Đò Lèn: Điều quý giá nhất đối với mỗi người có thể khác nhau, song quan trọng nhất là ta biết trân trọng và gìn giữ giá trị ấy như thế nào. Thật vậy, đối với Nguyễn Duy, tình cảm gia đình, đặc biệt là tình cảm bà cháu luôn là một ký ức đẹp trong tim. Qua bài Đò Lèn, tác giả đã bộc lộ những suy nghĩ sâu lắng về bà gắn liền với sự tỉnh ngộ, nhận ra được tình thương vô bờ mà bà dành cho cháu... Nhà thơ đã thể hiện hình ảnh của người bà qua sự hồi nhớ: Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế bà mò cua xúc tép ở đồng Quan bà đi gánh chè xanh ở Ba Trại Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn Đó là tất cả những cơ cực, vất vả mà người bà đã tảo tần nuôi đứa cháu. Trong cái đói, cái khổ của thời xưa, nổi bật lên trên ấy chính là hình ảnh lam lũ của bà. "Bà mò cua xúc tép", đó là những việc làm hàng ngày để kiếm cái ăn chăm lo cho con cháu. Ẩn hiện trong câu thơ hình ảnh bà còng lưng, nhẫn nại mò cua bắt ốc, không quản khó nhọc để niềm vui ánh lên trong những đôi mắt thơ ngây của cháu khi có miếng ăn... Thế nhưng xúc động hơn cả là hình ảnh bà đi gánh chè đêm đêm. Cái khó cái khổ đè nặng trên đôi vai gầy của bà, thể hiện trong từng bước chân "thập thững". Chi tiết đó đủ khắc họa lên được bao nhiêu nhọc nhằn, khó khăn của đời bà. Bước thấp bước cao lần đi trong "những đêm hàn" buốt giá, bà trở nên bé nhỏ, liêu xiêu, nhưng chất đầy sự thương yêu đối với con cháu, để làm nên một sức mạnh có thể chống chọi được với gió đêm, để có thể tiếp tục làm việc nuôi cháu. Bà hiện lên với sự mảnh mai, nhỏ bé nhưng trên đôi vai bà gánh chè rong như gánh cả một gia đình, một tương lai của con cháu. "Mò cua xúc tép", "gánh chè xanh" là cả một cuộc sống vất vả mưu sinh. Tuy tác giả không nói đến, nhưng hình ảnh người bà hiện lên in đậm dấu thời gian. Một người bà chịu thương chịu khó bền bỉ trong cuộc sống lam lũ, khuya sớm tảo tần. Để rồi từ đó tác giả thể hiện niềm xót xa, ái ngại cho bà. Qua hình ảnh ấy ta nhận ra đâu đó thoáng chút hình ảnh người mẹ thân thương ở thi phẩm Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm: Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong Bước cao thấp bên bờ tre hun hút Có con cò trắng bay vùn vụt Ngang dòng sông Đuống về đâu Mẹ ta lòng đói dạ sầu Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ... Cũng từ trong ướt lạnh sương gió, người mẹ hiền từ với hình ảnh "bước thấp bước cao", nhọc nhằn trên đôi vai mẹ gánh hàng rong mong kiếm được miếng ăn, tất cả cuộc sống và tương lai của các con phụ thuộc vào gánh hàng rong của mẹ. Không biết bao nhiêu người con sông Đuống đã lớn lên sau gánh hàng rong ấy. Để rồi từ đó hình ảnh người bà, người mẹ hiện lên với đức hi sinh và tấm lòng bao dung to lớn... Thế nhưng, nhà thơ nói đến những điều ấy với tâm trạng "Tôi đâu biết..." khắc họa được những nghẹn ngào trong câu nói. Đó là cả một tuổi thơ nghịch ngợm, vô tư và hồn nhiên gắn với những trò chơi, trò đùa nghịch của trẻ con như câu cá, theo bà đi chợ, bắt chim, ăn trộm nhãn, chơi đền, xem lễ... Thế nhưng để cháu được như thế, bà đã phải nhọc nhằn như thế nào. Qua đó thể hiện sự vô tư đến vô tâm, vô tính của người cháu. Phải chăng lúc ấy cháu còn thơ bé để ngẫm đến những cực khổ của bà ! Tôi trong suốt giữa hai bờ hư - thực giữa bà tôi và tiên, Phật, thánh, thần cái năm đói, củ dong riềng luộc sượng cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm... "Trong suốt" khắc họa nên sự vô tư, ngây thơ, hồn nhiên của tác giả lúc bé. "Hai bờ hư - thực", hai thế giới khác nhau. Một thế giới hiện hữu với tất cả tình yêu thương của bà, và thế giới hư ảo, vô thực của những "tiên, Phật, thánh, thần", những câu chuyện cổ tích... Nhà thơ không sống tất cả vì hiện tại, vì tình thương của bà, mà mải bận mơ về những chuyện hư ảo. Điều đó cho thấy tác giả sống với thế giới hư và thế giới thực lẫn lộn với nhau. Để rồi hai câu thơ sau nhấn mạnh mức độ của sự lẫn lộn ấy: những mùi hương cứ trộn lẫn lại với nhau. Hiện thực khó khăn "năm đói" làm người bà càng phải khổ cực hơn nữa. Cậu bé nhỏ khi ấy chỉ biết vui chơi chứ chưa biết nghĩ đến bà mình, lại không nhận ra giá trị "củ dong riềng luộc sượng" vất vả bà kiếm được, không biết thương bà, vô tâm, vô tính trước nỗi cơ cực của bà... Để rồi sau này, khi tác giả đã lớn, đã trưởng thành, đã nhận ra được tình yêu thương của bà dành cho mình, đã biết thương yêu bà thì bà chỉ còn là nấm cỏ: Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại dòng sông xưa vẫn bên lở, bên bồi khi tôi biết thương bà thì đã muộn bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi... Lúc này cháu đã trưởng thành trong nhận thức về cuộc đời, không còn sống trong niềm tin về sự gần gũi, tương đồng giữa hai thế giới thực và ảo, mà đã "đi lính", đã biết cầm súng chống lại cái ác cái xấu. Quê hương vẫn còn đấy, những địa danh vẫn còn lưu giữ những kỉ niệm tuổi thơ, "dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi", nhưng hình bóng của bà thì không còn nữa. Sự thức tỉnh gắn liền với sự ân hận bởi lúc cháu biết thương bà thì cơ hội đền đáp đã không còn. Chính sự tỉnh ngộ ấy khiến cho tình thương bà càng tức tưởi xót xa vì tất cả đã quá muộn màng... Thật vậy, trong cuộc đời mỗi con người, ai cũng có điều đáng để hối tiếc. Nhưng quan trọng nhất phải biết sống sao cho trọn vẹn với tất cả, nhất là những người thân yêu của mình. Đừng để khi có tình thương ấy mà không nhận ra, không biết gìn giữ, không biết trân trọng với những gì mình đang có cũng như để những thương yêu ta phải buồn lòng; mà mải mê mong muốn, theo đuổi những giá trị xa vời để rồi khi nó mất đi ta mới biết thương, biết quý thì tất cả cũng đã quá trễ, quá muộn... Bài làm của học sinh lớp 12A6 Ngoài ra, giáo viên có thể dùng những câu hỏi khơi gợi tưởng tượng của học sinh. Văn học dùng ngôn ngữ làm chất liệu, do tính chất phi vật thể của ngôn ngữ nên hình tượng văn học không thể tác động trực tiếp vào giác quan của người đọc, mà chỉ tác động gián tiếp thông qua liên tưởng, tưởng tượng. Cho nên thưởng thức văn bản văn học đòi hỏi phải huy động tưởng tượng, hình thức tưởng tượng để làm nổi bật lên bức tranh đời sống trong văn bản thường được gọi là tưởng tượng tái tạo. Để huy động hình thức tưởng tượng này của học sinh vào cảm thụ văn bản, giáo viên có thể đặt các câu hỏi với dạng sau: Em hình dung thế nào về bức tranh (Với bài Thu điếu của Nguyễn Khuyến chẳng hạn thì bức tranh ở đây là bức tranh mùa thu) được tác giả thể hiện trong tác phẩm?Ở đây, hoàn toàn không phải là việc phân tích bức tranh mà là yêu cầu học sinh phải có cái nhìn bên trong thầm kín, phải hình dung thấy bức tranh đó trong đầu mình, và trong chừng mực nhất định là sống với nó, đồng cảm với nó. Khả năng tưởng tượng càng cao thì sự thâm nhập vào văn bản càng sâu sắc, và người đọc có xu hướng quên đi thế giới thực tại, sống bằng thế giới tưởng tượng do nhà văn sáng tạo nên. Nhưng tưởng tượng trong cảm thụ văn học còn có hình thức khác đó chính là sự nhập thân vào nhân vật, làm sống lại trên chính bản thân mình những cảm xúc nhân vật trải qua. Với thao tác liên tưởng, học sinh vận dụng những gì mình đã trải nghiệm để hiểu nhân vật, còn hình thức tưởng tượng này lại yêu cầu học sinh thể nghiệm những gì chưa hề trải qua. Nó tạo ra sự xúc động, đắm say mãnh liệt đối với văn bản. Để huy động hình thức tưởng tượng này của học sinh, giáo viên có thể dùng hình thức đặt câu hỏi, các câu hỏi kèm theo những gợi ý nhất định. 2.1.4. Dùng lời bình đúng thời diểm. Dùng những lời bình hấp dẫn và đúng chỗ có tác dụng rất lớn trong việc rèn luyện cảm thụ cho học sinh. Trước hết, nó khiến học sinh có những ấn tượng sâu sắc khó phai mờ về vẻ đẹp của văn chương; sau đến, rèn luyện khả năng thẩm định những điểm sáng thẩm mỹ trong văn bản. Biện pháp này cho phép giáo viên phát huy phẩm chất nghệ sĩ của mình; và cũng vì thế kích thích mầm sáng tạo của học sinh, tạo nên sự giao lưu về tình cảm trong giờ văn. Nhưng tuyệt nhiên giáo viên không được lạm dụng biện pháp này, bởi nhiệm vụ chính của giáo viên là tổ chức để học sinh cảm thụ và lĩnh hội giá trị của văn bản chứ không phải là trổ tài trình diễn để thôi miên học sinh. Do đó, giáo viên chỉ tung ra lời bình khi học sinh cảm nhận chưa tới, đánh giá chưa xác đáng và những lời bình lúc đó có tác dụng hỗ trợ, tiến tới khắc sâu ấn tượng cho học sinh, tạo nên những khoái cảm thẩm mỹ. Lời bình vì thế, trước hết phải giàu cảm xúc, là sản phẩm của sự xúc động sâu sắc trước vẻ đẹp của văn bản. Mặt khác, nó phải độc đáo, giáo viên phải chọn cách nói ấn tượng, ưu tiên tiên những lối diễn đạt giàu hình ảnh nhằm tác động mạnh đến học sinh. Đồng thời lời bình phải phù hợp với đối tượng, tránh sáo rỗng. Hơn nữa, giáo viên chọn bình những chi tiết nào là điểm sáng nghệ thuật của tác phẩm và việc bình giá nó giúp học sinh nắm được thần thái, linh hồn của văn bản. Ở đây, chúng tôi muốn nói đến những lời bình có khả năng đánh thức liên tưởng của học sinh, nó tựa con đường dẫn học sinh thâm nhập tự nhiên vào thế giới nghệ thuật văn bản. Tại sao lời bình lại có chức năng này? Vì bản thân lời bình đó chứa đựng liên tưởng thẩm mỹ hết sức nhạy bén. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng bình văn chẳng qua là thể hiện một liên tưởng thẩm mỹ của người đọc đối với tác phẩm. Chẳng hạn, Xuân Diệu bình chùm thơ thu nổi tiếng của Nguyễn Khuyến, ông kể lại chuyến về thăm quê nhà thơ, vùng đồng bằng chiêm trũng, ngòi bút của ông phác thảo cảnh vật nơi đây, những phong cảnh đã đi vào thơ Nguyễn Khuyến, và từ những phác thảo rất duyên dáng đó, Xuân Diệu dẫn ta vào những câu thơ của Nguyễn Khuyến, những câu thơ đã vẽ nên cái hồn, cái thần của mùa thu, “điển hình cho mùa thu ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ”. Tương tự, giáo viên có thể khơi gợi học sinh nhớ tưởng tượng cảnh cánh rừng xà nu trong bom đạn chiến tranh để hiểu được những đau thương mất mát mà thiên nhiên và con người Tây Nguyên phải gồng mình vượt qua.Từ đó khơi gợi tình yêu thiên nhiên, đất nước và tự hào về truyền thống đấu tranh anh dũng của dân tộc. Khi hướng dẫn học sinh phân tích nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành giáo viên cần dừng lại để bình về hình ảnh đôi bàn tay Tnú: Khi xây dựng nhân vật Tnú, Nguyễn Trung Thành đặc biệt dụng công miêu tả đôi bàn tay của anh . Từ đôi bàn tay này, người đọc có thể thấy hiện lên không những cả cuộc đời mà cả những tính cách của nhân vật . Khi còn lành lặn, bàn tay Tnú là bàn tay nghĩa tình, thẳng thắn . Đấy là bàn tay cầm phấn học chữ do cán bộ dạy, bàn tay cầm đá ghè vào đầu để trừng phạt cái tội không nhớ mặt chữ , bàn tay đặt lên bụng để chỉ cộng sản ở đây … Tuy vậy ấn tượng mạnh nhất về đôi bàn tay của Tnú chính là đoạn cao trào của truyện, cũng là đọan đời bi tráng nhất của nhân vật . Giặc quấn giẻ tẩm dầu xà nu vào mười đầu ngón tay và đốt . “Mười ngón tay anh đã trở thành mười ngọn đuốc”, thiêu cháy cả ruột gan Tnú, anh “nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở trong bụng . Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi” . Chứng kiến cảnh kẻ thù dã man đốt hai bàn tay của Tnú, dân làng Xô Man không thể kiềm chế được nữa đã bột phát vùng lên tiêu diệt lũ giặc, mở ra trang sử đấu tranh mới của dân làng . Từ đây bàn tay của Tnú thành tật nguyền, mỗi ngón chỉ còn hai đốt và như một chứng tích về tội ác của kẻ thù mà Tnú mang theo suốt đời . Đến cuối tác phẩm, bàn tay tật nguyền đấy vẫn tiếp tục cầm súng giết giặc, vẫn có thể giết chết tên chỉ huy đồn địch dù nó cố thủ trong hầm . Như vậy , có thể nói bàn tay Tnú được miêu tả trải dài theo suốt cả câu chuyện . Dường như mọi nét tính cách cũng như số phận và chiến công của Tnú đều gắn liền với hình ảnh hai bàn tay ấy. Đó là hình ảnh đau thương nhất nhưng cũng anh hùng nhất về chân dung của một con người mang vẻ đẹp lí tưởng của cả buôn làng XôMan. Lời bình của giáo viên 2.1.5. Đối chiếu văn bản với các loại hình nghệ thuật khác. Một số nhà nghiên cứu khẳng định việc đối chiếu văn bản với các loại hình nghệ thuật khác có tác dụng làm hiện hình cảm thụ của học sinh, thúc đẩy học sinh hình thành những ấn tượng về văn bản. Thông thường, một số giáo viên đối chiếu văn bản với nghệ thuật hội hoạ hoặc điện ảnh. Tuy nhiên, giáo viên không được lạm dụng, việc sử dụng các hình ảnh này mang tính chất đối chiếu, so sánh về hai cách cảm thụ, hai cách nhìn, và hướng tới khơi gợi cảm thụ chứ hoàn toàn không được dùng hình ảnh làm tài liệu trực quan như một số người vẫn hay làm bởi đó là biện pháp thủ tiêu trí tưởng tượng của học sinh, học sinh dễ có xu hướng đồng nhất văn bản với các tác phẩm nghệ thuật khác. Một số văn bản trong chương trình đã được chuyển thể thành kịch bản điện ảnh thì giáo viên có thể cho các em xem trong giờ ngoại khoá và có thể nêu ra một số vấn đề để các em thảo luận. Khi dạy về vở kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng hoặc vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ, giáo viên tổ chức cho giờ học ngoại khóa để học sinh xem các vở kịch trên và đối chiếu với văn bản sách giáo khoa, từ đó các em thấy hết được cao trào của kịch qua đối thoại giữa các nhân vật trên sân khấu. Tuy nhiên, giáo viên phải lưu ý học sinh về những chi tiết khác biệt giữa văn bản với tác phẩm điện ảnh. Đối với những văn bản thơ đã được phổ nhạc giáo viên hoàn toàn có thể cho học sinh thưởng thức những ca khúc này, chúng sẽ có tác dụng rất lớn trong việc tạo nên những xúc động mạnh mẽ của học sinh về văn bản. Công việc này cùng với đọc diễn cảm có khả năng đánh thức cảm giác về nhịp điệu, giai điệu cho học sinh và cũng từ đó cảm nhận những cung bậc của tâm hồn đang hát lên trong những giai điệu đó. Đồng thời khi hướng dẫn học sinh học về Ca dao - dân ca giáo viên có thể bỏ chút thời gian tìm hiểu một số làn điệu dân ca và hát cho học sinh nghe để các em tạo được hứng thú, làm cho giờ học sôi nổi, tránh được những căng thẳng, mệt mỏi. 2.2. Đổi mới tiến trình một giờ dạy học Văn trên lớp - Tạo một giờ học mang tính chất mở. Ở nước ta, dường như đã thành quy định, người thầy lên lớp là phải thực hiện đầy đủ tất cả các bước, thiếu một bước coi như tiết học không thành công, không thực hiện một khâu coi như bài giảng chưa hoàn thành. Quy trình dạy học này đảm bảo sự kỹ lưỡng, chỉn chu cho tiết dạy nhưng vô hình trung làm giảm khả năng sáng tạo, hạn chế sự thăng hoa của người thầy. Có những thầy khi dạy đến chỗ tâm đắc, muốn nói thêm nhưng lại sợ không kịp giờ, không đảm bảo quy trình nên không dám nói. Lại có những kiến thức HS đã biết cả rồi, lại được ghi rất rõ trong sách giáo khoa, nói lại đâm ra thừa, vậy mà vẫn không dám bỏ qua để nói cái khác. Người thầy giáo cũng như nghệ sĩ. Đặc biệt người thầy giáo dạy Văn càng phải là một nghệ sĩ, bởi ngoài việc giảng dạy tri thức, họ còn mang thiên chức bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm, cảm xúc và những rung động thẩm mỹ cho HS. Tài năng của họ không thể thăng hoa nếu cứ phải chịu bó buộc trong những khuôn khổ, những quy định quá chặt chẽ, giáo điều. Do đó, cần tạo ra những khả năng mở, những cơ chế thông thoáng để thầy và trò tự do sáng tạo, dành thêm thời gian cho những kiến thức nâng cao. Người thầy phải tùy cơ ứng biến trước những đối tượng HS khác nhau, phải linh hoạt sáng tạo, bỏ qua những gì là hình thức không cần thiết thì mới có thể tạo ra được sự hấp dẫn, lôi cuốn trong giờ dạy. Những giờ học không câu nệ tiểu tiết như thế được xem là những “giờ học mở”, HS có quyền trao đổi, thậm chí có những ý kiến phản biện lại những điều thầy giáo trình bày. Chính vì thế, cái quan trọng không phải là dạy cái gì mà là có cung cấp được cho HS phương pháp tự học không. Đã gọi là “Giờ học mở” lẽ dĩ nhiên không thể đưa ra một mô hình, một hướng đi cụ thể nào dùng để áp dụng chung cho tất cả mọi người. Trái lại, mỗi người thầy tùy theo điều kiện và khả năng thực tế mà linh hoạt tổ chức sao cho giờ dạy của mình trở nên sinh động, tích cực và tạo được sự hào hứng cho HS. Tuy nhiên, bằng trải nghiệm thực tế và tâm huyết trong quá trình nghiên cứu và giảng dạy ở trường THPT, chúng tôi mạo muội đưa ra một số phương pháp (đã được áp dụng trong thực tiễn) để cùng mạn đàm với các bạn đồng nghiệp gần xa.Tổ chức thuyết trình theo nhóm. Tổ chức lớp thành những nhóm học tập, giao cho mỗi nhóm một hoặc một số vấn đề (thuộc kiến thức trọng tâm của bài học), yêu cầu mỗi nhóm tổ chức bàn bạc, thảo luận; sau đó viết thành bài thuyết trình chung cho cả nhóm để trình bày trước lớp. Thầy tổ chức cho lớp thảo luận, tranh luận và có kết luận. Người viết từng áp dụng phương pháp này trong việc giảng dạy một chuyên đề chuyên sâu Các nhà thơ mới tiêu biểu trong phong trào Thơ Mới 1932-1945 dành cho học sinh lớp 11 chọn Văn ở Trường THPT Hoàng Hoa Thám. Chuyên đề được chia thành 5 tiết, lớp được chia thành 4 nhóm, mỗi nhóm có một tiết để thuyết trình về một trong 4 nhà thơ mới có tác phẩm được chọn giảng trong chương trình: Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính. Tiết học thứ 5, thầy cô chốt lại những vấn đề cơ bản nhất và định hướng cho HS những kiến thức nâng cao hơn. Thông qua thảo luận, tranh luận, HS đã phát hiện ra những điều rất sâu sắc và thú vị. Có em khai thác những câu thơ của Hàn Mặc Tử như “Chao ôi ghê quá trong tư tưởng/ Một vũng cô liêu cũ vạn đời” hay “Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy/ Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra”, đồng thời có một cái nhìn liên hệ giữa Hàn Mặc Tử trong đau đớn, vật vã của căn bệnh phong mà sáng tạo nghệ thuật, cũng như Dostoievski - bậc thiên tài sáng tác trong sự giày vò của căn bệnh động kinh, để từ đó cho rằng đối với Hàn Mặc Tử đau thương là cảm hứng sáng tạo, nhà thơ tự tạo cho mình một thế giới nghệ thuật điên loạn và đau thương. Có em đi từ những câu thơ của Huy Cận “Tương tư đôi chốn tình ngàn dặm/ Vạn lý sầu lên núi tiếp mây” để đưa ra những nhận xét khá tinh tế về thơ Huy Cận, đó là nỗi buồn trong thơ Huy Cận là một nỗi buồn thấm thía, nỗi buồn không chỉ ở trong tâm hồn người mà lan tỏa, xuyên thấm cả không gian,đó là nỗi sầu vạn kỷ. Thực tế cho thấy rằng, phương pháp “Tổ chức thuyết trình theo nhóm” đem lại cho HS một cách tiếp cận kiến thức mới lạ và đầy hứng thú. Thông qua thảo luận, các em sẽ được tiếp nhận thông tin đa chiều, mở mang nhiều tri thức mới từ trí tuệ tập thể, điều mà các em không thể có được nếu làm việc một mình. Hơn nữa, thông qua trình bày, thảo luận phương pháp này sẽ rèn luyện được cho HS những kỹ năng rất cần thiết cho cuộc sống hiện đại như: kỹ năng trình bày một vấn đề, kỹ năng nói trước đám đông...Tổ chức giờ dạy - học theo mô hình “Phỏng vấn chuyêngia” . Thầy, cô giao vấn đề, yêu cầu HS chuẩn bị kỹ lưỡng ở nhà. Giờ học trên lớp, thầy tổ chức lớp thành một diễn đàn đối thoại, cử ra một HS làm “phóng viên”, một HS khác (hoặc thầy giáo) làm “chuyên gia” để phóng viên phỏng vấn chuyên gia về những vấn đề xoay quanh bài học. Tất cả những HS còn lại tham gia với tư cách là người đối thoại với chuyên gia, giờ học sẽ trở thành một môi trường để thầy và trò tham gia thảo luận về bài học. Trước đây, người viết áp dụng mô hình này để thiết kế bài Khái quát văn học Việt Nam từ thế kỷ thứ X đến hết thế kỷ XIX. Giờ học ở lớp, thầy giáo tổ chức lớp thành một diễn đàn đối thoại theo kiểu “đối thoại với chuyên gia”. Thầy giáo làm chuyên gia và tất cả HS là những người đối thoại. Thông qua trao đổi, kiến thức của bài sẽ dần dần hiển lộ trong đầu óc HS. Sau khi đối thoại, chuyên gia dành ra một trò chơi nhỏ ở dạng trả lời câu hỏi nhanh có thưởng. Câu hỏi tập trung vào những vấn đề trọng tâm của bài với mục đích giúp HS củng cố, nắm vững kiến thức. Trên thực tế có những em đặt ra những câu hỏi hay, làm xuất hiện những vấn đề rất thú vị. Chẳng hạn có em hỏi “Em có thấy một cuốn sách có nhan đề là Con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam, chứng tỏ có tiếng nói bản ngã trong văn học Trung đại. Vậy tại sao lại nói nó là nền văn học phi ngã”. Câu hỏi chạm vào một vấn đề rất lớn: vấn đề con người trong văn học Trung đại để từ đó đi đến một khái quát quan trọng về hai hướng thể hiện con người trong văn học trung đại: hướng tâm gắn với con người cộng đồng, ly tâm gắn với con người bản ngã. Một em khác hỏi “Tại sao lại đưa các tác phẩm lịch sử như Đại Việt sử ký, Đại Việt sử lược... vào dạy trong môn Ngữ văn?”. Câu hỏi này cũng đề cập đến một vấn đề rất cơ bản của văn học trung đại:Tính nguyên hợp văn-sử-triết bất phân. Từ ví dụ trên, có thể thấy việc áp dụng mô hình dạy học này có ý nghĩa rất lớn trong việc mở ra một môi trường học tập thật sự cởi mở để HS có thể tiếp thu kiến thức một cách hết sức thoải mái, chủ động và tích cực. Khoảng cách trong quan hệ thầy-trò thông qua cách học này cũng sẽ được rút ngắn, trở nên vô cùng gần gũi, thân thiết. Sẽ không còn tồn tại quan hệ một chiều theo kiểu thầy độc quyền thuyết giảng - trò răm rắp nghe theo mà sẽ mở ra một quan hệ mới: quan hệ đối thoại. Trong quan hệ ấy, không chỉ trò học thầy mà thầy cũng phải học trò.Tổ chức tranh luận đối với một số tiết, đặc biệt là những tiết dạy kỹ năng làm văn, có thể áp dụng hình thức này. Thầy đưa ra những đề văn mở có thể tạo ra những hướng lựa chọn khác nhau như “Chợ quê hay siêu thị”, “Thành phố hay nông thôn”, “Nữ sinh nên mặc áo dài truyền thống hay trang phục hiện đại đến trường”, “Giả sử bạn tham gia vào cuộc tranh luận giữa nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh, bạn sẽ ủng hộ bên nào? Tại sao?”... Chia lớp thành hai nhóm, mỗi nhóm theo một hướng lựa chọn và tranh luận với nhóm kia để bảo vệ quan điểm của mình. Từ những trải nghiệm trên thực tế giảng dạy trong những năm qua, chúng tôi nhận ra rằng việc áp dụng hình thức dạy học theo kiểu tổ chức tranh luận tạo nên một sự hứng thú rất lớn cho HS. Thông qua tranh luận, HS được thể hiện quan điểm của riêng mình, được trình bày những suy nghĩ thực của mình; đồng thời đưa ra lập luận để bảo vệ quan điểm ấy mà không chịu ràng buộc, phụ thuộc vào bất cứ một khuôn mẫu nào. Những giờ học được tổ chức theo kiểu tranh luận sẽ là những giờ học vô cùng tích cực, sôi nổi; phát huy được tính chủ động, sáng tạo trong tư duy học sinh. Đồng thời nó góp phần định hướng, rèn luyện cho HS những khả năng quan trọng: khả năng lập luận, khả năng tranh biện, khả năng bảo vệ chính kiến... Tổ chức được những giờ học như vậy, người thầy giáo sẽ thực hiện được điều đã trở thành trăn trở bấy lâu nay của các nhà giáo dục “Lấy HS làm trung tâm”. Khi hướng dẫn học sinh phân tích bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người và quá trình thức tỉnh của Chí Phèo, giáo viên cần giúp học sinh hiểu được dụng ý của Nam Cao khi xây dựng nhân vật Thị Nở, giáo viên sẽ nêu vấn đề qua câu hỏi sau : Tại sao nhân vật Thị Nở lại xấu đến vậy? Học sinh tranh luận rất sôi nổi và có nhiều ý kiến khác nhau, một số cho rằng Thị Nở phải xấu để xứng với Chí Phèo, có học sinh lại cho rằng vì Thị Nở ngoài đời vốn xấu như vậy, cũng có học sinh không có câu trả lời. Trước các ý kiến khác nhau, giáo viên cần tổng hợp và định hướng một cách khoa học. Sở dĩ Thị Nở xấu như “ma chê quỷ hờn” là do ý đồ nghệ thuật của Nam Cao, thị không những chỉ xấu mà tính cách còn dở hơi, lại có môt bà cô không chồng….không ai dám đến gần thị chứ nói gì là yêu. Sau một đêm gặp gỡ ở vườn chuối ven sông rồi trở thành vợ chồng đã khiến Chí thức tỉnh niềm khát khao có một mái ấm gia đình, muốn Thị Nở cùng Chí ở chung một nhà, rồi được thị cho ăn một bát cháo hành đầy ý nghĩa khiến cái niềm khát khao ấy càng mãnh liệt. Nhưng phải nghe lời bà cô nên thị đã từ chối tình yêu của Chí.Có thể nói lúc này bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí lên tới đỉnh điểm vì một “con quỷ của làng Vũ Đại”đã không thể xứng đôi với một người “xấu như ma chê quỉ hờn”, một con quỷ thì không thể xứng với một con người vì cho dù như vậy Thị Nở vẫn được coi là một con người còn Chí thì không. Cho nên khi xây dựng nhân vật Thị Nở, Nam Cao không hề rơi vào chủ nghĩa tự nhiên như nhiều người đã lầm tưởng mà mục đích của ông là làm nổi bật bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người và giúp Chí tự thức tỉnh. Điều đó góp phần làm nên giá trị hiện thực và nhân đạo thật sâu sắc cho tác phẩm. Rõ ràng “Giờ học mở” hay nhưng cũng rất khó thực hiện, bởi thay đổi một thói quen, một nếp nghĩ đã ăn sâu trong tâm trí không phải việc đơn giản. Cần phải có thời gian và đặc biệt là phải có sự thay đổi đồng bộ trong tư duy giáo dục của tất cả những đối tượng tham gia (nhà quản lý, người dạy, người học) vào hoạt động giáo dục trong nhà trường. Để có thể tham gia bàn bạc, trao đổi hay tranh luận, phản biện trước những vấn đề đặt ra trong giờ học trên lớp, mỗi HS phải có một quá trình chuẩn bị chu đáo; phải tự học, tự tìm tòi nghiên cứu ở nhà. Không thể tham gia đối thoại, thảo luận tốt về một vấn đề nếu hiểu biết quá sơ sài về vấn đề ấy. Việc tự học, tự nghiên cứu không dừng lại ở HS mà nó còn đặt ra với yêu cầu cao hơn rất nhiều đối với thầy giáo. Những giờ học đối thoại đặt người thầy trước nhiều tình huống sư phạm phức tạp. Khác với giờ học bình thường, trong những diễn đàn đối thoại như thế này, người thầy luôn phải đối diện với nhiều thắc mắc, nhiều câu hỏi từ HS. Thậm chí có những câu hỏi khó và lạ đến mức khiến thầy giáo trở nên bị động. Cho nên để có thể tổ chức thành công giờ học, bản thân mỗi người thầy phải có sự lao động trí óc nghiêm túc và công phu; phải không ngừng tự học, tự nghiên cứu; phải đọc nhiều, tìm hiểu nhiều để mở mang hiểu biết, nâng cao trình độ. Đối với những nhà quản lý cũng không nên máy móc, cứng nhắc theo những khuôn thước định sẵn. Đôi lúc cũng cần phải xé rào, linh hoạt trước những trạng huống cụ thể để tạo nên một cơ chế thông thoáng, một môi trường năng động, cởi mở cho thầy và trò tự do sáng tạo. Một sự thay đổi bao giờ cũng gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại. Nhưng nếu cứ thấy khó mà không chịu thay đổi thì biết bao giờ chúng ta mới tiến bộ được đây? Vượt qua hay không vượt qua được những trở ngại ấy, phụ thuộc vào tâm huyết, nỗ lực và sự chung tay góp sức của tất cả những người làm giáo dục chúng ta. Tuy nhiên, do môi trường giáo dục của nhà trường và phải đảm bảo tính hệ thống của chương trình, chúng tôi cũng chỉ mới dừng lại áp dụng ở những tiết học dạy chuyên đề với các lớp chọn và dạy chủ đề trong các tiết tự chọn. 2.3. Khích lệ học sinh tập làm thơ và làm thơ. Trong chương trình ngữ văn 12, tập một có bài Luật thơ, khi dạy bài này ngoài việc tìm hiểu các yếu tố về tiếng, nhịp, vần, hài thanh...và đặc trưng của từng thể thơ, giáo viên khích lệ học sinh tập làm các thể thơ, tạo nên phong trào tự sáng tác. Sau khi thu thập các bài làm của HS, giáo viên lựa chọn những bài tiêu biểu đọc trước lớp, cho điểm và động viên tinh thần sáng tạo của các em. Dưới đây là một số bài thơ tiêu biểu do HS lớp 12 A7 đã sáng tác với chủ đề Thầy cô và mái trường mà chúng tôi đã thu được: TRƯỜNG YÊU Bao nhiêu năm, bao nhiêu năm xa cách Ta quay về thăm lại trường xưa Hai bên đường hàng phượng vĩ đong đưa Lũ ve sầu cũng ngân nga náo nức Ta bước đi nghe tim mình rạo rực Bước thật nhanh nghe háo hức, bồi hồi. Trường yêu ơi ta đã trở về rồi! Nhanh thật nhỉ, hai mươi năm rồi đấy! Trường lặng lẽ vẫn đứng im nơi ấy Đón và đưa bao thế hệ học sinh Trường lặng lẽ cống hiến quên mình Góp nhân tài để dựng xây đất nước Ôi thân thương làm sao ta quên được Quên đi nơi gốc gác, quê hương Đã theo ta đi khắp mọi nẻo đường Làm cho ta chỗ dựa trong cuộc sống Đưa ta tiến trên đường đời dài rộng Nâng ta bay đạt đến những ước mơ Trong thành công của chúng ta bây giờ Chẳng thể thiếu mái trường xưa lặng lẽ. Nguyễn Hữu Cương Lớp 12A7 trường THPT Hoàng Hoa Thám- Tiên Lữ - Hưng Yên. NHỚ TRƯỜNG XƯA Ngẩng trời xanh thấy chim về chốn cũ. Tôi ước mình trở lại mái trường xưa. Qua bao năm bên xứ người xa lạ. Trong cô đơn ao ước một ngày về ! Khi vẫn biết người xưa không còn nữa. Và bạn bè mỗi đứa một phương trời. Thầy cô cũ dần rời xa bục giảng. Tôi nhớ về những kỉ niệm thân thương. Ôi ghế đá ngày nào! Chắc rêu phong theo dòng chảy thời gian ! Phượng ủ rũ theo mùa vương vấn Ve đầu hè khẽ gọi mùa chia tay. Đôi mắt nai tuổi trăng tròn thủa ấy . Tôi muốn nhìn như những lúc còn thơ Mang yêu thương trong buổi mới vào trường Tuy tất cả đã lùi vào dĩ vãng Nhưng tấm lòng của người con xa xứ Tôi lặng lẽ vào những trang thơ. Niềm yêu thương êm ái chẳng bến bờ Nét mực khô, lệ chảy dài trên má Biết bao giờ mới trở lại trường xưa ! Nguyễn Thị Vân Lớp 12A7 trường THPT Hoàng Hoa Thám – Tiên Lữ - Hưng Yên. VÔ ĐỀ Cầm bút định viết một bài thơ Chợt nhớ ra nay là ngày nhà giáo Chợt xấu hổ cho những ngày cao ngạo Thì ra con cũng giống bấy nhiêu người! Cầm bút lên điều đầu tiên con nghĩ Đâu là cha, là mẹ, là thầy… Chỉ là những cảm xúc vu vơ tầm thường, nhỏ nhặt Biết bao giờ con lớn được Thầy ơi! Con viết về thầy lại phấn trắng, bảng đen. Lại kính mến, lại hi sinh thầm lặng… Những con chữ đều đều xếp thẳng Giọng thầy vẫn đầm ấm thiết tha Có những điều vô cùng giản dị Con mới nhận ra? Vũ Thị Nhớ Lớp 12A7 trường THPT Hoàng Hoa Thám- Tiên Lữ-Hưng Yên Không phải là nhà thơ, nhưng chính sự hồn nhiên và tinh thần yêu thơ ca như vậy, các em đã nói lên những cảm xúc hết sức chân thành về thầy và mái trường yêu dấu. Thơ tuy có chỗ còn vụng về, nhưng nó thực sự là nguồn động viên lớn đối với những người dạy học Văn như chúng tôi trong thời buổi kinh tế thị trường như hiện nay. 3. Kết quả : 3.1.Khảo sát đầu năm : Khối Sĩ số HS thích học môn Ngữ văn HS không thích học môn Ngữ văn Số HS % Số HS % 10 292 100 34,2 100 34,2 11 300 130 43,3 150 50,0 12 289 120 41,5 80 27,7 Tổng 881 350 39,7 330 37,4 Còn lại ý kiến khác. 3.2.Khảo sát cuối học kì I và đầu kì II : Khối Sĩ số HS thích học môn Ngữ văn HS không thích học môn Ngữ văn Số HS % Số HS % 10 292 150 51,3 50 17,1 11 300 200 66,7 70 23,0 12 289 180 62,2 50 17,3 Tổng 881 530 60,1 170 19,3 Còn lại ý kiến khác. 3.3. Nhận xét: Qua những nỗ lực của thầy cô trong quá trình giúp học sinh học tập tốt bộ môn và giúp học sinh yêu thích học bộ môn, chúng tôi phần nào đã thu được những kết quả tương đối khả quan. Nhìn vào bảng số liệu thăm dò có thể thấy, với phương pháp dạy học trên đã góp phần nâng tỉ lệ học sinh yêu thích học tập bộ môn Ngữ văn ở trường THPT Hoàng Hoa Thám với số liệu cụ thể sau: Khối Sĩ số HS thích học môn NgữHS không thích học môn văn Ngữ vvăn Số tăng HS% tăng Số HS giảm % giảm 10 292 50 17,1 50 17,7 11 300 70 23,4 80 27,0 12 289 60 20,7 30 10,4 Tổng 881 180 20,4 160 18,1 Đó là đối với chất lượng đại trà, về chất lượng mũi nhọn, năm học này chúng tôi cũng đạt thành tích đáng kể, chất lượng HS thi HSG cấp tỉnh tương đối tốt. Tổng số có 4 HS dự thi, điểm TBT 5,75; trong đó không có HS nào dưới TB; đạt 01 giải Ba, 01 giải khuyến khích, đứng thứ 16/26 trường trong tỉnh.So với các trường bạn, chất lượng bộ môn trường tôi có phần chưa bằng, song với chất lượng đầu vào hàng năm đều thấp nhất tỉnh, lại là vùng sâu, xa nên đó là một kết quả đáng khích lệ, tạo động lực đối với thầy và trò trường tôi và giúp chúng tôi có niềm say mê với nghề hơn. PHẦN III. TỔNG KẾT 1. Các vấn đề còn tồn tại và hạn chế: Như các đồng chí đã biết, dạy học môn Ngữ văn có một đặc trưng riêng, nó cần gắn với cảm xúc, tâm thế của người thầy khi lên lớp. Vì thế các phương pháp trên không phải lớp nào cũng thực hiện được. Có những học sinh chưa thực sự hoặc không cảm thấy hứng thú khi học bộ môn này vì thế kết quả ứng dụng của đề tài không phải lúc nào cũng như mong muốn. Đối với các lớp ban KHTN, chúng tôi cần phải kết hợp thêm với các biện pháp mạnh hơn để có hiệu quả như tăng cường kiểm tra bài cũ, kiểm tra vở soạn, động viên, khích lệ các em đúng lúc. Đối với phương pháp dạy học văn bản văn học có đối chiếu với các bộ môn nghệ thuật khác thì khó áp dụng, hoặc không áp dụng được thường xuyên. Vì để tổ chức một buổi ngoại khóa xem băng hình đối với tất cả các khối lớp là hết sức khó khăn. Đối với phương pháp dạy học Văn theo hướng mở thì còn quá mới, chúng tôi cũng chỉ mới dừng lại áp dụng ở những tiết học dạy chuyên đề với các lớp chọn và dạy chủ đề trong các tiết tự chọn. 2. Điều kiện áp dụng: Áp dụng với các đối tượng học sinh ở các phương pháp trừ phương pháp Đối chiếu văn bản với các loại hình nghệ thuật khác và Tạo một giờ học mở thì đối tượng phải là những học sinh khá hơn hoặc phụ thuộc vào điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường để áp dụng. 3. Hướng tiếp tục nghiên cứu: Thiết nghĩ để đạt hiệu quả cao trong giảng dạy, để HS yêu thích bộ môn, mỗi người giáo viên phải không ngừng nghiên cứu chuyên môn, có những sáng kiến hay trong giảng dạy. Tự học hỏi để sử dụng thành thạo máy vi tính, máy chiếu, soạn giáo án điện tử, biết truy cập mạng Internet …Phải biết phối kết hợp nhiều phương pháp, vừa đổi mới vừa kế thừa những phương pháp truyền thống. Trên hết là phải có Tâm với nghề. Trong thời gian tới đây, tôi sẽ đi sâu vào áp dụng phương pháp Đặt những câu hỏi gợi cảm xúc, liên tưởng, tưởng tượng trong dạy thơ trữ tình. Do phạm vi nghiên cứu của đề tài, do trình độ có hạn, nên đề tài còn chưa đi sâu vào nội dung khác và cũng không tránh khỏi thiếu sót .Vì vậy, tôi rất mong được sự góp ý và bổ sung của các đồng chí. Cuối cùng tôi xin được lĩnh hội ý kiến đóng góp và chân thành cảm ơn các đồng chí. PHẦN VI: THAY LỜI KẾT l "Nhân cách của người thầy là sức mạnh có ảnh hưởng to lớn đối với học sinh, sức mạnh đó không thể thay thế bằng bất kỳ cuốn sách giáo khoa nào, bất kỳ câu chuyện châm ngôn đạo đức, bất kỳ một hệ thống khen thưởng hay trách phạt nào khác." Usinxki l "Không thể trồng cây ở những nơi thiếu ánh sáng, cũng không thể nuôi dạy trẻ với chút ít nhiệt tình." Can Jung • "Sự gương mẫu của người thầy giáo là tia sáng mặt trời thuận lợi nhất đối với sự phát triển tâm hồn non trẻ mà không có gì thay thế được”. Usinxki • "Nếu người kỹ sư vui mừng nhìn thấy cây cầu mà mình vừa mới xây xong, người nông dân mỉm cười nhìn đồng lúa mình vừa mới trồng,thì người giáo viên vui sướng khi nhìn thấy học sinh đang trưởng thành, lớn lên." Gôlôbôlin • "Nhà giáo không phải là người nhồi nhét kiến thức mà đó là công việc của người khơi dậy ngọn lửa cho tâm hồn" Uyliam Batơ Tiên Lữ, ngày 03/4/2013 Người viết Vũ Thị Thiết
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan