Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Một số giải pháp nhằm góp phần phát triển công ty bảo việt đồng nai đến năm 2020...

Tài liệu Một số giải pháp nhằm góp phần phát triển công ty bảo việt đồng nai đến năm 2020 luận văn thạc sĩ quản trị kinh doanh

.PDF
107
148
51

Mô tả:

Một số giải pháp nhằm góp phần phát triển Công ty Bảo Việt Đồng Nai đến năm 2020_Luận văn thạc sĩ Quản trị kinh doanh
1 1. Lý do thực hiện đề tài: Bảo hiểm là một lĩnh vực rất quan trọng đối với các quốc gia nói chung và với Việt Nam nói riêng. Không chỉ là một biện pháp di chuyển rủi ro, bảo hiểm ngày nay đã trở thành một trong những kênh huy động vốn hiệu quả cho nền kinh tế. Nhưng thực tế hoạt động kinh doanh bảo hiểm thời gian qua đã cho thấy sự lớn mạnh không ngừng của ngành bảo hiểm và nhiều tiềm năng phát triển trong tương lai. Tuy nhiên, thị trường bảo hiểm Việt Nam đang được đa dạng hóa với tốc độ cao, sức ép mở cửa của thị trường và thách thức hội nhập ngày càng lớn. Trong lịch sử hình thành và phát triển ngành Bảo hiểm Việt Nam, có lẽ chưa bao giờ cạnh tranh lại diễn ra gay gắt như hiện nay. Cùng với hoạt động kinh doanh của nhiều Công ty bảo hiểm có mặt trên thị trường tại địa bàn Tỉnh Đồng Nai, sự xuất hiện của các văn phòng đại diện của các Công ty bảo hiểm phi nhân thọ như Pjico, Bảo Minh, PVI, Bảo Bưu… lại đang báo hiệu một giai đoạn "đua sức đua tài" mới của các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ tại Đồng Nai. Nằm trên địa bàn Tỉnh Đồng Nai, Công ty Bảo Việt Đồng Nai đơn vị trực thuộc Tổng Công ty Bảo hiểm Bảo Việt – Công ty con của Tập đoàn Bảo Việt là Tập đoàn tài chính hàng đầu tại Việt Nam. Trong những năm gần đây, Công ty phải đương đầu với sức ép cạnh tranh rất lớn từ các đối thủ cạnh tranh như AAA, Pjico, Bảo Minh, PVI, Bảo Bưu, Viễn Đông,…. Đồng Nai chắc chắn sẽ bị chia sẻ thành nhiều phần hơn trong khi khai thác hợp đồng mới gặp rất nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, để tồn tại và phát triển, một vấn đề có tính chất "sống còn" đối với Công ty là nâng cao hiệu quả khai thác. Với mong muốn góp phần 2 nâng cao hiệu quả cạnh tranh cho Công ty Bảo Việt Đồng Nai trong thời gian tới, vì vậy em xin chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm góp phần phát triển Công ty Bảo Việt Đồng Nai đến năm 2020” để nghiên cứu. 2. Mục tiêu nghiên cứu: - Tìm hiểu thị trường bảo hiểm phi nhân thọ hiện nay tại Tỉnh Đồng Nai - So sánh các yếu tố tạo nên năng lực cạnh tranh (cơ hội, thách thức, mặt mạnh và mặt yếu) của Bảo Việt so với các đối thủ trên thị trường. - Phân tích, đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần phát triển Công ty Bảo Việt Đồng Nai đến năm 2020. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: - Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là Công ty Bảo Việt Đồng Nai, đơn vị trực thuộc Tổng Công ty Bảo hiểm Bảo Việt là Công ty con của Tập đoàn Tài chính Bảo Việt. - Phạm vi nghiên cứu: Đề tài này chỉ được nghiên cứu trong một phạm vi của một doanh nghiệp, nghiên cứu về những vấn đề về cơ sở lý luận và thực trạng hoạt động của Công ty trong thời gian qua để đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần phát triển Công ty trong thời gian tới. 4. Phương pháp nghiên cứu: Bƣớc 1: Thu thập số liệu thông qua - Tài liệu của Công ty - Tham khảo các tài liệu có liên quan - Quan sát thực tế tại Công ty và các yếu tố liên quan tại Tỉnh Đồng Nai - Điều tra thông qua phiếu khảo sát khách hàng tham gia bảo hiểm phi nhân thọ. 3 Bƣớc 2: Phân tích số liệu bằng một số phương pháp như: - Phương pháp so sánh, tổng hợp: so sánh giữa các kỳ trong năm rồi đưa ra kết luận. - Phương pháp quy nạp: phương pháp đi từ những vấn đề nhỏ rồi mới đi đến kết luận chung. - Phương pháp phân tích SWOT 5. Kết cấu của đề tài: Đề tài này được chi thành 3 chương: Chương 1 trình bày tổng quan về bảo hiểm; Chương 2 tiến hành phân tích và đánh giá toàn diện môi trường kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ bên trong lẫn bên ngoài của Công ty để tìm ra những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và nguy cơ; từ đó Chương 3 sẽ đề xuất các giải pháp nhằm phát triển Công ty Bảo Việt Đồng Nai đến năm 2020. 4 1.1. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ BẢO HIỂM 1.1.1. Nguồn gốc của bảo hiểm Bảo hiểm có nguồn gốc từ rất xa xưa trong lịch sử văn minh nhân loại. Từ vài ngàn năm trước công nguyên người ta đã làm công tác bảo hiểm dù chưa có ý niệm bảo hiểm là chia sẻ sự rủi ro. Dấu hiệu đầu tiên là những dấu tích về các kho lúa để dự trữ dùng cho những trường hợp khẩn cấp. Đến khoảng cuối thế kỷ XV ở Châu Âu bắt đầu xuất hiện những quỹ tiền hỗ trợ lẫn nhau khi có tai nạn hoặc rủi ro xảy ra trong lúc vận chuyển buôn bán hàng hoá của các đội tàu. Bản hợp đồng bảo hiểm đầu tiên chính thức phát hành vào đầu năm 1347 tại Geneve (Thụy Sĩ) hoàn toàn do cá nhân thực hiện như một công việc làm ăn phụ bên cạnh các hoạt động kinh doanh khác. Năm 1720 tại Anh nghiệp đoàn bảo hiểm đầu tiên được thành lập với tên gọi nổi tiếng Lloyd's. Ngành bảo hiểm bắt đầu có ở Việt Nam từ năm 1880 khởi đầu là Công ty của Anh rồi đến Pháp Mỹ... Trước năm 1975 ở miền Nam có hơn 52 Công ty bảo hiểm hoạt động, miền Bắc có Công ty Bảo hiểm Việt Nam. Đến khi thống nhất đất nước vẫn chỉ có duy nhất một Công ty bảo hiểm đó là Công ty Bảo hiểm Việt Nam (có nhiều chi nhánh trên toàn quốc). 1.1.2. Khái niệm: Mặc dù đã có nguồn gốc và lịch sử phát triển khá lâu đời nhưng do tính đặc thù của loại hình dịch vụ này, mà cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất nào về bảo hiểm. 5 Có rất nhiều khái niệm khác nhau về bảo hiểm được xây dựng dựa trên từng góc độ nghiên cứu xã hội, pháp lý, kinh tế, kĩ thuật, nghiệp vụ… + Theo Tập đoàn bảo hiểm AIG (Mỹ) khái niệm rằng: “Bảo hiểm là một cơ chế, theo cơ chế này, một người, một doanh nghiệp hay một tổ chức chuyển nhượng rủi ro cho Công ty bảo hiểm, Công ty đó sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm các tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm và phân chia giá trị thiệt hại giữa tất cả những người được bảo hiểm”. + Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Khái niệm 1: Bảo hiểm là sự đóng góp của số đông vào sự bất hạnh của số ít. Khái niệm 2: Bảo hiểm là một nghiệp vụ qua đó, một bên là người được bảo hiểm cam đoan trả một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm thực hiện mong muốn để cho mình hoặc để cho một người thứ 3 trong trường hợp xẩy ra rủi ro sẽ nhận được một khoản đền bù các tổn thất được trả bởi một bên khác: đó là người bảo hiểm. Người bảo hiểm nhận trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro và đền bù các thiệt hại theo các phương pháp của thống kê. Khái niệm 3: Bảo hiểm có thể là một phương sách hạ giảm rủi ro bằng cách kết hợp một số lượng đầy đủ các đơn vị đối tượng để biến tổn thất cá thể thành tổn thất cộng đồng và có thể dự tính được. Các khái niệm trên thường thiên về một góc độ nghiên cứu nào đó (hoặc thiên về xã hội – khái niệm 1, hoặc thiên về kinh tế, luật pháp – khái niệm 2, hoặc thiên về kỹ thuật tính – khái niệm 3). Theo các chuyên gia Pháp, một khái niệm vừa đáp ứng được khía cạnh xã hội (dùng cho bảo hiểm xã hội) vừa đáp ứng được khía cạnh kinh tế (dùng cho bảo hiểm thương mại) và vừa đầy đủ về khía cạnh kỹ thuật và pháp lý có thể trình bày như sau: Bảo hiểm là một hoạt động qua đó một cá nhân có quyền được hưởng trợ cấp nhờ vào một khoản đóng góp cho mình hoặc cho người thứ ba trong trường hợp xảy ra rủi ro. Khoản trợ cấp này do một tổ chức trả, tổ chức này có trách 6 nhiệm đối với toàn bộ các rủi ro và đền bù các thiệt hại theo các phương pháp của thống kê. Sau đây là một khái niệm được sử dụng rộng rãi trong ngành bảo hiểm tại Việt Nam hiện nay: “Bảo hiểm là một sự thỏa thuận hợp pháp thông qua đó một cá nhân hay một tổ chức (Người tham gia bảo hiểm) chấp nhận đóng góp một khoản tiền nhất định (phí bảo hiểm) cho một tổ chức khác (Người bảo hiểm) để đổi lấy những cam kết về những khoản bồi thƣờng hoặc chi trả khi có sự kiện quy định trong hợp đồng xảy ra”. 1.1.3. Bản chất của bảo hiểm Bản chất của bảo hiểm là việc phân chia tổn thất của một hoặc một số người cho tất cả những người tham gia bảo hiểm cùng chịu. Bảo hiểm hoạt động dựa trên Quy luật số đông (the law of large numbers) tức là bằng sự đóng góp của số đông người vào một quỹ chung, khi có rủi ro quỹ sẽ có đủ khả năng trang trải và bù đắp cho những tổn thất của số ít. Bảo hiểm là những quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình hình thành, phân phối và sử dụng các quỹ tập trung - quỹ bảo hiểm - nhằm xử lý các rủi ro, các biến cố. Bảo hiểm bảo đảm cho quá trình tái sản xuất và đời sống của xã hội được diễn ra bình thường. Bảo hiểm là biện pháp chia sẻ rủi ro của một người hay của số một ít người cho cả cộng đồng những người có khả năng gặp rủi ro cùng loại; bằng cách mỗi người trong cộng đồng góp một số tiền nhất định vào một quỹ chung và từ quỹ chung đó bù đắp thiệt hại cho thành viên trong cộng đồng không may bị thiệt hại do rủi ro đó gây ra. Bảo hiểm là một cách thức trong quản trị rủi ro, thuộc nhóm biện pháp tài trợ rủi ro, được sử dụng để đối phó với những rủi ro có tổn thất, thường là tổn thất về tài chính, nhân mạng,... 7 Bảo hiểm được xem như là một cách thức chuyển giao rủi ro tiềm năng một cách công bằng từ một cá thể sang cộng đồng thông qua phí bảo hiểm. 1.1.4. Đặc trƣng của ngành bảo hiểm Bảo hiểm là ngành dịch vụ mà sản phẩm của nó có những đặc điểm sau: - Sản phẩm vô hình: Đây là đặc điểm chung của sản phẩm các ngành dịch vụ. Tính vô hình của sản phẩm khiến khách hàng không dễ gì cảm nhận được những đặc tính tốt của sản phẩm. Ngành dịch vụ là ngành phục vụ công chúng, Công ty bảo hiểm bán sự cam kết hay lời hứa là mang lại sự bảo đảm cho khách hàng. Người mua bảo hiểm tin tưởng Công ty bảo hiểm có khả năng và luôn sẵn sàng thực hiện đầy đủ các cam kết trong hợp đồng. Như vậy uy tín của một Công ty bảo hiểm vô cùng quan trọng để quyết định ý tưởng chọn lựa của khách hàng. Khách hàng sẽ nhìn vào đâu để nhận định về Công ty? Một Công ty có uy tín chắc chắn sẽ là lựa chọn hàng đầu của Người tham gia bảo hiểm. Uy tín đó thể hiện qua: danh tiếng và kinh nghiệm hoạt động của Công ty, tình hình tài chính lành mạnh, chiến lược đầu tư vốn hợp lý, nghiệp vụ vững chắc, chất lượng phục vụ cao,…Trong đó có đóng góp rất lớn của lực lượng cán bộ nghiệp vụ và cán bộ khai thác bảo hiểm- những người trực tiếp giao dịch với khách hàng. - Bảo hiểm có chu trình sản xuất ngƣợc: Khác với chu trình sản xuất hàng hóa thông thường, khi giá cả được quyết định sau khi đã tính toán được chi phí sản xuất ra hàng hóa đó. Mỗi hợp đồng bảo hiểm được coi như là một món hàng. Hàng hóa bảo hiểm được bán khi nào? Có phải giá bán hàng hóa đó phản ánh chi phí sản xuất ra nó hay không? Thông thường, hợp đồng bảo hiểm được coi là có hiệu lực ngay sau khi có sự chấp nhận của Người bảo hiểm và Người tham gia bảo hiểm đã đóng phí bảo hiểm đầy đủ theo hợp đồng. Phí bảo hiểm mà khách hàng đóng khi ký hợp đồng chính là giá bán một sản phẩm bảo hiểm. 8 Ví dụ: Công ty Bảo hiểm A bán bảo hiểm tai nạn con người. Người tham gia bảo hiểm đóng phí để mua dịch vụ bảo hiểm vào ngày đầu năm. Công ty Bảo hiểm A có ngay doanh thu từ đầu năm. Các hợp đồng bảo hiểm này sẽ kết thúc vào ngày cuối năm, khi đó trách nhiệm của Công ty bảo hiểm A trước các tổn thất – theo như thỏa thuận trong hợp đồng – sẽ chấm dứt. Nghĩa là đến ngày cuối năm, Công ty Bảo hiểm A mới tính được chi phí triển khai dịch vụ bảo hiểm này. Tương tự như vậy là chi phí hoạt động của Công ty. Chu trình sản xuất ngược của bảo hiểm có đặc điểm là Công ty bảo hiểm định giá bán dịch vụ của mình trước khi tính toán được tất cả các chi phí phải bỏ ra. Đặc điểm này ảnh hưởng rất lớn đến quyết định đưa loại sản phẩm nào ra thị trường. Nếu một sản phẩm đưa ra được đông đảo người mua chấp nhận, Công ty bảo hiểm sẽ thu về một khoản tổng phí bảo hiểm rất lớn. Khi rủi ro xảy ra cho một số khách hàng nào đó, Công ty bảo hiểm có đủ khả năng chi trả mà không bị bội chi. Ngược lại, nếu chỉ có một số ít khách hàng chấp nhận, tổng phí thu được nhỏ bé. Công ty bảo hiểm sẽ rất dễ rơi vào tình trạng thu không đủ chi nếu như nhóm khách hàng đó có tỷ lệ rủi ro quá cao trong khoảng thời gian các hợp đồng bảo hiểm còn có hiệu lực. Mặc khác, nếu tổn thất xảy ra ít, giá bán của các hợp đồng bảo hiểm năm sau đó sẽ được giảm đi (hay nói cách khác, khách hàng sẽ được giảm phí), ngược lại, nếu tỷ lệ tổn thất lớn, khách hàng sẽ phải trả phí cao hơn vào những năm sau (đây chính là cơ sở của các quy định thưởng phạt và nguyên tắc No Claim Bonus). - Tâm lý ngƣời mua hàng không muốn tiêu dùng dịch vụ này: Người mua bảo hiểm không mong muốn có sự kiện rủi ro xảy ra để được nhận quyền lợi bảo hiểm dù rằng quyền lợi đó thường nhiều hơn gấp bội so với số phí phải đóng. Bởi lẽ, tất cả rủi ro đều không mong muốn nhưng tai nạn, tổn thất vẫn xảy ra. Mặc khác, bảo hiểm là tấm lá chắn cho chính những điều không mong muốn này. Thông qua thực tế tình hình thiên tai, tai nạn, cũng như giải quyết bồi thường tổn thất tại địa phương, để minh chứng về lợi ích của bảo hiểm và sự cần thiết tham gia bảo hiểm. 9 1.1.5. Một số nguyên tắc cơ bản trong hoạt động bảo hiểm 1.1.5.1. Nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm Đây là quyền bảo hiểm hợp pháp và có nghĩa là người thương lượng việc cấp đơn bảo hiểm có một số quan hệ với đối tượng bảo hiểm được pháp luật công nhận. Mối liên hệ đầu tiên được pháp luật công nhận là mối quan hệ chủ sở hữu. Nếu bạn có một ngôi nhà, một xe ôtô hay một chiếc đồng hồ, bạn sẽ có một quyền lợi được bảo hiểm đối với tài sản đó bởi vì, nếu chúng bị hư hại hay mất bạn sẽ phải chịu sự thiệt hại đó. Tương tự như vậy, bạn có một quyền lợi được bảo hiểm đối với một đồ vật bạn đã mượn bởi vì nếu đồ vật đó bị mất hoặc bị phá hủy, bạn sẽ phải thay thế đồ vật đó. Bên cạnh đó, mọi cá nhân đều có quyền lợi được bảo hiểm không giới hạn đối với cuộc sống của mình và có thể bảo hiểm cho sinh mạng của mình với bất cứ số tiền nào mong muốn, miễn là có đủ tiền để đóng phí bảo hiểm. Anh ta cũng có một quyền lợi được bảo hiểm đối với sinh mạng của người bạn đời và ngược lại và kể cả con cái và những người họ hàng khác. Nói tóm lại: Quyền lợi có thể được bảo hiểm là quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản; quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm. Quan hệ giữa người tham gia bảo hiểm và người được bảo hiểm trong hợp đồng phải tuân thủ nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm. Điều đó có nghĩa là để tham gia bảo hiểm cho một đối tượng bảo hiểm thì người tham gia phải có quyền lợi có thể được bảo hiểm đối với đối tượng được bảo hiểm đó. Ví dụ: + Trong bảo hiểm tài sản: Người mua bảo hiểm có một số liên hệ với đối tượng bảo hiểm được pháp luật công nhận. Mối liên hệ đầu tiên được pháp luật công nhận là: chủ sở hữu. Mối liên hệ thứ hai là quyền lợi và trách nhiệm trước tài sản đó. Ví dụ: một người có quyền lợi bảo hiểm đối với đồ vật người đó mượn bởi 10 vì nếu chúng bị mất hoặc hư hại, người đó sẽ phải thực hiện thay thế, sửa chữa, đền tiền, hay khôi phục lại. + Trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự: quyền lợi bảo hiểm phải căn cứ theo quy định của pháp luật về ràng buộc trách nhiệm dân sự. 1.1.5.2. Nguyên tắc trung thực tuyệt đối Tất cả các giao dịch kinh doanh cần thực hiện trên cơ sở tin cậy lẫn nhau. Trong thực tế, điều đó có nghĩa là không được phép có bất kỳ hành vi gian lận hay mưu toan lừa đảo nào. Điều này không có nghĩa là người bán có bổn phận phải chỉ ra các khiếm khuyết trong hàng hóa mà họ bán ra. Tuy nhiên, khi giới thiệu, thông báo hoặc trả lời câu hỏi, người bán hàng buộc phải đưa ra các câu trả lời trung thực. Hoạt động bảo hiểm thực chất là việc bán lời cam kết, lời hứa của Nhà bảo hiểm đối với người tham gia bảo hiểm. Người tham gia là người đưa ra lời yêu cầu bảo hiểm cho mình, còn Công ty bảo hiểm là người đưa ra lời cam kết chấp nhận bảo hiểm thông qua đơn bảo hiểm. Như vậy, có những trường hợp những thông tin hai bên đưa ra không chính xác làm phương hại đến quyền lợi của bên kia và ngược lại. Do đó, để đảm bảo quyền lợi của hai bên, tránh việc trục lợi bảo hiểm cũng như việc Công ty bảo hiểm không thực hiện nghĩa vụ của mình khi người tham gia gặp rủi ro, nguyên tắc trung thực tuyệt đối được áp dụng rộng rãi trong hoạt động bảo hiểm đối với cả người tham gia bảo hiểm và người bảo hiểm, cụ thể: + Đối với Người tham gia bảo hiểm: đây là bổn phận khai báo đầy đủ và chính xác tất cả các yếu tố quan trọng có liên quan, dù được yêu cầu hay không yêu cầu khai báo. Mục đích của Nguyên tắc trung thực tuyệt đối là: Giảm chi phí điều tra và tăng trách nhiệm của Người được bảo hiểm. Theo nguyên tắc này, bên biết thông tin quan trọng liên quan đến hợp đồng bảo hiểm mà mình tham gia sẽ phải thông báo cho bên đối tác biết thông tin đó. 11 + Đối với Người bảo hiểm: Công ty bảo hiểm thông qua cán bộ khai thác hoặc đại lý của mình phải có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, chính xác các thông tin liên quan đến hợp đồng bảo hiểm như quyền lợi được bảo hiểm, các khoản loại trừ, phí bảo hiểm, số tiền bảo hiểm, giải thích rõ ràng các điều khoản trong hợp đồng và giải đáp các thắc mắc cho Người tham gia bảo hiểm. 1.1.5.3. Nguyên tắc bồi thường Mục đích của Nguyên tắc bồi thường là khôi phục lại tình trạng tài chính ban đầu, hoặc một phần (theo mức độ tham gia bảo hiểm cho Người được bảo hiểm) như trước khi xảy ra tổn thất. Như vậy, Người được bảo hiểm không thể nhận được số tiền chi trả nhiều hơn giá trị tổn thất mà mình gánh chịu. Trách nhiệm bồi thường của Công ty bảo hiểm cũng chỉ phát sinh khi có thiệt hại do rủi ro được bảo hiểm gây ra. Nguyên tắc bồi thường áp dụng phổ biến cho hai loại hình bảo hiểm thiệt hại và bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Nguyên tắc này thường không áp dụng cho bảo hiểm nhân thọ và các nghiệp vụ bảo hiểm con người. 1.1.5.4. Nguyên tắc khoán Hầu hết các nghiệp vụ trong bảo hiểm con người không áp dụng nguyên tắc bồi thường bởi hai lý do: + Con người là vô giá: Nếu người được bảo hiểm chết và Công ty bảo hiểm phải có trách nhiệm chi trả, thì khoản tiền chi trả đó không thể được coi là giá trị sinh mạng của người được bảo hiểm, cũng như không phải là giá trị mà người thân của anh ta mất đi. + Người được bảo hiểm có thể ấn định khoản tiền được hưởng ngay từ khi ký kết hợp đồng bảo hiểm. Khi đó, người ta áp dụng nguyên tắc khoán mà số tiền được ấn định trước trong các hợp đồng và tách biệt với khái niệm bồi thường. 12 Ví dụ: hợp đồng bảo hiểm thương tật thân thể có quy định mức độ chi trả cho một số thương tật như sau: Mất một tay: chi trả 60%/số tiền bảo hiểm, mất khả năng nghe một tai: 40%/ số tiền bảo hiểm. (theo bảng tỷ lệ trả tiền bảo hiểm thương tật, ban hành theo công văn số 5701/BTC-BH, ngày 04/05/2006 của Bộ tài chính) Giả sử, Ông A được bảo hiểm bởi hợp đồng trên và bị tai nạn dẫn đến mất một tay, hạn mức bảo hiểm (số tiền bảo hiểm) là 50 triệu đồng. Công ty bảo hiểm sẽ chi trả số tiền (60% x 50 triệu) = 30 triệu đồng Số tiền chi trả này không phụ thuộc vào chi phí thực tế Ông A và người thân phải gánh chịu để chạy chữa vết thương. 1.1.6. Các loại hình bảo hiểm Phi nhân thọ - Căn cứ vào phương thức triển khai: Theo tiêu thức này người ta phân các nghiệp vụ bảo hiểm thành 2 nhóm: + Hình thức bảo hiểm tự nguyện: Bao gồm những nghiệp vụ bảo hiểm mà hợp đồng bảo hiểm được ký kết theo ý nguyện của bên được bảo hiểm và hoàn toàn dựa trên nguyên tắc thỏa thuận. Phần lớn các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ là bảo hiểm tự nguyện. Ví dụ: Bảo hiểm vật chất thân xe, Bảo hiểm toàn diện học sinh, Bảo hiểm cháy nổ, Bảo hiểm sức khỏe,…. + Hình thức bảo hiểm bắt buộc: Bao gồm những nghiệp vụ triển khai theo quy định của pháp luật và các bên buộc phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định liên quan đến hợp đồng bảo hiểm. Ví dụ như: Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với hành khách trên xe, Bảo hiểm trách nhiệm người vận chuyển hàng không, Bảo hiểm cháy nổ bắt buộc,…Luật kinh doanh bảo hiểm có quy định về các nghiệp vụ bảo hiểm bắt buộc này. - Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm: được chia làm 3 loại: 13 + Bảo hiểm tài sản: là loại hình bảo hiểm bao gồm những nghiệp vụ có đối tượng là tài sản có thể tính được giá trị bằng tiền. Bảo hiểm thiệt hại do hậu quả tài sản được bảo hiểm bị tổn thất. Thực tế, khi tài sản được bảo hiểm bị tổn thất thì hậu quả để lại không chỉ thiệt hại đối với chính tài sản đó mà còn làm ngưng trệ dẫn tới thiệt hại kinh doanh sản xuất và thiệt hại tài chính do phải giải quyết hậu quả tổn thất. + Bảo hiểm trách nhiệm dân sự: Trong Bộ luật dân sự của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không có định nghĩa về cụm từ “Trách nhiệm dân sự”. Tuy nhiên, người ta hiểu rằng: Theo nghĩa rộng; trách nhiệm dân sự là trách nhiệm phát sinh do vi phạm nghĩa vụ dân sự. Nghĩa vụ dân sự được hiểu là việc mà theo quy định của pháp luật thì một hoặc nhiều chủ thể phải làm hoặc không được làm một công việc nào đó vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác. Nghĩa vụ trách nhiệm dân sự thường có hai loại: - Trách nhiệm dân sự trong hợp đồng: được xác định dựa trên cơ sở thỏa thuận dân sự giữa chủ thể này với chủ thể khác trong một hợp đồng. Ví dụ: Hợp đồng vận chuyển hàng hóa từ cảng A đến cảng B, hợp đồng vận chuyển hành khách (căn cứ vào vé là hợp đồng), hay hợp đồng thuê thuyền viên làm việc trên tàu,… - Trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng: việc xác định dựa trên cơ sở quy định chung của pháp luật. Pháp luật thừa nhận và bảo hộ quyền bất khả xâm phạm về tài sản, sức khỏe, tính mạng, thân thể, danh dự, nhân phẩm và uy tín của mọi công dân. Vì vậy, pháp luật quy định mọi người phải có trách nhiệm chung là không làm phương hại về tinh thần và vật chất của người khác. Trong trường hợp có những hành vi trái với những quy định này thì người bị thiệt hại được pháp luật bảo vệ, có thể khiếu nại đòi bồi thường từ phía người gây thiệt hại. Ví dụ: Lái ô tô đâm phải người đang đi trên hè phố, hay đâm đổ nhà dân, hoặc do đóng cọc móng nhà làm rung nứt đổ nhà bên cạnh,… 14 Tùy theo từng loại trách nhiệm mà người tham gia bảo hiểm muốn được bảo hiểm, Công ty bảo hiểm sẽ ký với khách hàng những hợp đồng bảo hiểm phù hợp. + Bảo hiểm con người: là loại hình bảo hiểm có mục đính thanh toán những khoản trợ cấp, hoặc số tiền ấn định cho Người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng trong trường hợp xảy ra rủi ro hoặc sự kiện xảy ra tác động tới chính bản thân Người được bảo hiểm, gồm các nghiệp vụ sau: - Bảo hiểm sinh mạng - Bảo hiểm sức khỏe - Bảo hiểm tai nạn - Bảo hiểm du lịch - …. 1.1.7. Sự cần thiết của bảo hiểm đối với sự phát triển của kinh tế - xã hội 1.1.7.1. Sự cần thiết của bảo hiểm: Bảo hiểm đóng vai trò quan trọng trong tất cả các nền kinh tế đặc biệt là các nền kinh tế có trình độ phát triển. Trước hết, bảo hiểm bảo đảm cho các thành phần trong nền kinh tế khả năng đối phó với những biến cố, những rủi ro, thiệt hại có thể xảy ra, bảo hiểm là biện pháp phòng ngừa cần thiết để đảm bảo sự vận hành của nền kinh tế một cách ổn định và ít thiệt hại nhất khi có biến cố xảy ra. Trong sản xuất, tiêu dùng, giao thương, quan hệ xã hội, bảo hiểm đều giúp cho tất cả các quy trình và các mối quan hệ này trở nên bảo đảm, đáng tin cậy hơn, an toàn hơn. Đối với một nền kinh tế, bảo hiểm như một đòn bẩy tâm lý , giúp ổn định quá trình hoạt động đầu tư của các thành phần kinh tế, giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh ít bị ảnh hưởng nhất từ các rủi ro tự nhiên và nhân tạo. - Nền kinh tế phát triển và bảo hiểm có mối quan hệ mật thiết với nhau. Một nền kinh tế phát triển sẽ phát sinh ra nhu cần bảo hiểm cho tất cả các thành phần xã hội, quan hệ kinh tế. Ngược lại, ngành bảo hiểm một quốc gia nếu lớn mạnh sẽ thúc 15 đẩy các thành phần xã hội, thành phần kinh tế thay đổi được các cách thức quản lý, ý thức đối phó với nguy cơ, quản trị rủi ro nhờ vào hệ thống quy định và ràng buộc bảo hiểm chặt chẽ. Từ đó giúp cho họ đối phó tốt hơn với các biến cố có thể xảy ra. - Bảo hiểm cũng giống như những cam kết của các thành phần trong xã hội về triển vọng tương lai, họ bỏ tiền ra để có được sự chắc chắn trong tương lai. Có nghĩa là, một nền bảo hiểm tăng trưởng cao đồng nghĩa với xã hội đó đang có triển vọng tốt, hứa hẹn một khả năng tăng trưởng bền vững của nền kinh tế trong tương lai. Hiện nay ở nước ta việc chuyển hướng sang nền kinh tế thị trường đã tạo ra động lực thúc đẩy việc khai thác và phát triển mọi tiềm năng sáng tạo, tạo ra được một nguồn hàng hóa dịch vụ phong phú trong đó một khối lượng lớn giá trị mới. Đây chính là tiền đề làm nẩy sinh và phát triển mạnh mẽ nhu cầu đảm bảo bảo hiểm và là cơ sở vững chắc cho sự hình thành và tồn tại của quỹ bảo hiểm. Ngày nay, bảo hiểm đã trở thành một ngành kinh doanh hết sức phát triển và dần trở nên một khái niệm quen thuộc với hầu hết mọi người. Ở nhiều quốc gia phát triển trên thế giới, việc mua bảo hiểm từ lâu đã là một việc làm không thể thiếu đối với người dân, bởi nhiều lý do khác nhau. 1.1.7.2. Tác dụng và vai trò của bảo hiểm: Có thể nói, tác dụng của bảo hiểm thể hiện trên nhiều mặt khác nhau: - Chuyển giao rủi ro: Bảo hiểm vận hành giống như một cơ chế chuyển giao rủi ro. Cùng với việc đóng phí bảo hiểm, người được bảo hiểm đã chuyển giao những hậu quả rủi ro về tài chính sang Công ty bảo hiểm. Ví dụ: Một người mua một chiếc xe máy trị giá 40 triệu đồng. Đây là sự đầu tư lớn nhất từ trước đến nay của anh ta. Một người lạc quan nhất cũng nhận ra rằng việc đầu tư trên có thể gặp rủi ro, chiếc xe có thể bị mất cắp hoặc bị hư hỏng do tai nạn hoặc hỏa hoạn gây ra. Tai nạn có thể gây thương tích nặng cho người khác. Trong trường hợp đó chủ xe sẽ đối phó với những rủi ro tiềm tàng này cũng như 16 những hậu quả tài chính của chúng bằng cách nào? Anh ta không biết được chắc rủi ro đó có thể xẩy ra hay không và nếu có xẩy ra thi hậu quả như thế nào và tổn thất vật chất là bao nhiêu? Bằng cách tham gia bảo hiểm, chủ xe đã chuyên giao rủi ro sang cho Công ty bảo hiểm. Khi đó nếu có những tổn thất thiệt hại nào Công ty bảo hiểm sẽ thực hiện bồi thường. Chủ xe có thể an tâm vì những tổn thất đó đã được chi sẽ. - Dàn trải tổn thất: Bảo hiểm có tác dụng dàn trải tổn thất tài chính của một số ít người cho số đông nhiều người. Đây là tác dụng hết sức quan trọng của bảo hiểm. Khi số đông tham gia bảo hiểm, không phải tất cả mọi người tham gia đều phải chịu rủi ro tổn thất mà chỉ một số ít người trong đó không may gặp phải rủi ro. Do đó thông qua việc đóng góp một khoản tiền nhỏ, người tham gia bảo hiểm không những được bảo vệ về những thiệt hại tài chính nếu có mà còn góp phần hỗ trợ, giúp đỡ cho những người không may khác. Tác dụng này đã thể hiện trong nguyên tắc lấy số đông bù số ít và nguyên tắc tương hỗ. - Giảm thiểu tổn thất thiệt hại:Trong quá trình thực hiện các nghiệp vụ, Các Công ty bảo hiểm luôn chú ý đến việc tăng cường áp dụng các biện pháp phòng tránh cần thiết để bảo vệ đối tượng bảo hiểm, góp phần đảm bảo an toàn cho tính mạng, sức khỏe con người, của cải và vật chất của xã hội. Ví dụ như: - Thực hiện hỗ trợ các công cụ phòng ngừa rủi ro và hạn chế tổn thất ở mức thấp nhất có thể (gương phản chiếu giao thông, bình cứu hỏa, đường lánh nạn, tủ thuốc học đường,…) - Giải quyết hậu quả kịp thời giúp khách hàng ổn định kinh doanh và cuộc sống. Chỉ có thông qua bảo hiểm, hiệu quả của các biện pháp đề phòng hạn chế thiệt hại mới đạt kết quả cao nhất bởi lẽ các Công ty bảo hiểm có khả năng về tài chính, có nhiều kinh nghiệm và chuyên môn nên nắm bắt được nguyên nhân của thiệt hại. Bên cạnh đó, khi tham gia bảo hiểm, người được bảo hiểm đã nhận thức được rủi ro có thể sẽ xảy ra đối với mình nên không chỉ một phía từ nhà bảo hiểm 17 có nhiệm vụ đề phòng và hạn chế tổn thất mà ngay cả người được bảo hiểm cũng phải có trách nhiệm. - Ổn định chi phí: Chi phí nhằm đảm bảo an toàn tài chính của các doanh nghiệp và cá nhân được xác định ngay từ đầu năm, cho dù có thiệt hại xảy ra hay không. Nếu không có bảo hiểm, doanh nghiệp sẽ giữ lại được khoản phí bảo hiểm (giảm chi) nhưng khi có thiệt hại xảy ra, doanh nghiệp sẽ mất khả năng thanh toán do tổn thất thiệt hại quá lớn. Như vậy, nhà bảo hiểm giúp các doanh nghiệp bảo toàn được vốn; các cá nhân, gia đình khắc phục được những khó khăn về tài chính, không rơi vào tình trạng kiệt quệ về vật chất cũng như tinh thần. Ví dụ: Một Công ty kinh doanh sản xuất đồ chơi. Trong trường hợp lạc quan nhất, vị Giám đốc đó cũng nhận thấy rằng rủi ro có thể đến bất kỳ lúc nào đối với doanh nghiệp của anh ta như mất cắp, hỏa hoạn,… Nếu điều đó xảy ra, tổn thất của Công ty sẽ gây ảnh hưởng lớn đến quá trình kinh doanh, làm gia tăng chi phí một cách đột biến. Bằng cách tham gia bảo hiểm, tuy có làm gia tăng một phần chi phí đầu vào nhưng doanh nghiệp đã chuyển phần rủi ro cho Công ty bảo hiểm góp phần ổn định, thúc đẩy và phát triển sản xuất kinh doanh. - An tâm về mặt tinh thần: Tham gia bảo hiểm, người được bảo hiểm đã chuyển phần rủi ro của mình sang Công ty bảo hiểm nên đã giải tỏa được nỗi sợ hãi và lo lắng về những tổn thất xảy ra đối với chính mình. Ví dụ: Một người là trụ cột gia đình với hai đứa con, thu nhập của anh ta khoảng 10 triệu đồng/tháng. Với rất nhiều công việc phải lo toan trong cuộc sống, anh ta nghĩ rằng nếu không may rủi ro xảy ra với bản thân anh ta thì liệu vợ con anh ta sẽ ra sao? Họ sẽ phải trang trãi tất cả chi phí như thế nào khi khoản thu nhập của gia đình bị giảm? Bằng cách tham gia bảo hiểm con người với số tiền 100 triệu đồng. Anh ta đã được an tâm về tinh thần, giải tỏa những lo lắng của mình đối với gia đình nếu không may những rủi ro thường trực có thể xảy ra. 18 Và với một cơ sở sản xuất nếu người Giám đốc quan tâm tham gia bảo hiểm hỏa hoạn, bảo hiểm con người cho cán bộ nhân viên thì không chỉ Lãnh đạo đơn vị mà mọi thành viên trong đơn vị đều rất yên tâm không phải lo lắng nếu không may xảy ra hỏa hoạn cơ sở sản xuất sẽ được bồi thường để bù đắp phục hồi kinh doanh cho đơn vị. - Kích thích tiết kiệm: Bảo hiểm ra đời đã tạo ra một hình thức tiết kiệm linh hoạt, tác động đến tư duy của các cá nhân, hộ gia đình, chủ doanh nghiệp, góp phần hình thành nên một ý thức, thói quen về việc dành một phần thu nhập để có một tương lai an toàn hơn. - Đầu tư phát triển kinh tế trong nước: Với đặc điểm trong kinh doanh bảo hiểm là nộp phí trước, việc bồi thường chi trả tiền bảo hiểm chỉ được thực hiện khi có sự kiện quy định trong hợp đồng xảy ra. Do vậy, các Công ty bảo hiểm có một quỹ tiền tệ tập trung khá lớn. Lượng vốn này sẽ được các Công ty bảo hiểm tính toán đầu tư sao cho có hiệu quả bởi lẽ khả năng cạnh tranh của mỗi Công ty bảo hiểm phụ thuộc rất lớn vào hiệu quả hoạt động đầu tư. Trên cơ sở của kết quả đầu tư, các Công ty bảo hiểm sẽ có điều kiện giảm phí để từ đó thu hút khách hàng, đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Các tổ chức bảo hiểm thường hoạt động rất mạnh ở các thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán và đặc biệt là thị trường vốn. Điển hình là Bảo Việt hàng năm đã thực hiện đầu tư dưới nhiều hình thức trên thị trường tài chính Việt Nam: Bảo Việt tham gia đầu tư trên thị trường chứng khoán qua Công ty Cổ phần Chứng khoán Bảo Việt, tham gia góp vốn vào Công ty vui chơi giải trí Hồ Tây, Ngân hàng thương mại cổ phần Hàng hải, Ngân hàng TMCP Á Châu, mua trái phiếu kho bạc Nhà nước,… - Tạo cơ hội có công ăn việc làm cho người lao động: Xét trên khía cạnh vĩ mô, ngành bảo hiểm đã góp phần giải quyết công ăn việc làm cho rất nhiều người lao động. 19 Ví dụ: Ở Pháp, hoạt động bảo hiểm thu hút khoảng 1% dân số quốc gia. Còn ở Việt Nam, tính đến năm 2010, số lao động làm việc trong các Công ty bảo hiểm đã lên tới trên 15.000 cán bộ bảo hiểm và trên 150.000 đại lý bảo hiểm chuyên nghiệp (theo số liệu của Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam). Điều đó chứng tỏ hoạt động bảo hiểm là lĩnh vực thu hút lao động xã hội không nhỏ. Không những vậy, thông qua đầu tư dưới nhiều hình thức, bảo hiểm còn gián tiếp tạo thêm nhiều việc làm cho các ngành khác của đất nước. Như vậy, trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế xã hội, bảo hiểm đóng vai trò như một công cụ an toàn và dự phòng đảm bảo khả năng hoạt động lâu dài của mọi chủ thể dân cư và kinh tế. Với vai trò đó, bảo hiểm khi thâm nhập sâu vào đời sống đã phát huy tác dụng vốn có của mình: thúc đẩy ý thức đề phòng - hạn chế tổn thất cho mọi thành viên trong xã hội. Bảo hiểm là môi trường nghề nghiệp của một số lượng lớn lao động, lao động trong ngành bảo hiểm cùng các ngành khác tạo ra nhiều giá trị gia tăng cho cả nền kinh tế góp phần đáng kể vào GDP của quốc gia. Hoạt động bảo hiểm là một trong những hoạt động có mối quan hệ với nhiều ngành nghề khác nhất. Không những thế, ngày nay hoạt động bảo hiểm không chỉ hướng đến việc phân phối lại về mặt giá trị mà còn hướng đến vai trò xã hội tích cực hơn trong việc chống lại những hậu quả bất hạnh của cuộc sống. Các chương trình hỗ trợ của bảo hiểm ngày càng đa dạng và phong phú. Hiệu quả của các hoạt động hỗ trợ của bảo hiểm không chỉ thúc đẩy ý thức phòng ngừa rủi ro của các thành viên trong xã hội mà còn làm giảm thiệt hại về mặt kinh tế tổn thất giảm đi, đồng nghĩa với giá trị của nền kinh tế tăng lên mức đóng góp của các thành viên trong quỹ bảo hiểm cũng giảm đi. Xem xét mối quan hệ giữa sự phát triển của ngành bảo hiểm trong tương quang chung với sự phát triển của toàn nền kinh tế ở nhiều nuớc, nhiều nhà kinh tế học đã khẳng định tác dụng to lớn, cũng như vai trò không thể thiếu của bảo hiểm đối với nền kinh tế. Thực tế cho thấy, sự tồn tại của một thị trường bảo hiểm mạnh là một trong những yếu tố cơ bản của bất cứ nền kinh tế thành công nào. Trong cuốn “ Các nguyên tắc bảo hiểm”, hai tác giả người Mỹ là Mehr và Commack đã 20 viết: “Việc Anh Quốc nổi lên như một cường quốc thương mại là đồng thời loại hình bảo hiểm hảo hoạn cũng phát triển trong cùng một thời kỳ không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên”. Tác dụng của bảo hiểm thể hiện rõ trên nhiều phương diện. Ngoài việc giúp bù đắp thiệt hại, khắc phục tổn thất, bảo hiểm còn sử dụng hiệu quả những khoản tiền nhàn rỗi, tạo được nguồn vốn lớn để đầu tư vào các lĩnh vực khác. Cũng nhờ bảo hiểm mà ngân sách nhà nước hàng năm có nguồn đóng góp không nhỏ, mọi người có được tâm lý an tâm trong kinh doanh, trong cuộc sống, công tác đề phòng và hạn chế tổn thất được tăng cường,… 1.2. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH BẢO HIỂM: 1.2.1. Các yếu tố nội tại: - Nguồn nhân lực: là nguồn lực không thể thiếu của bất kỳ doanh nghiệp nào. Thế mạnh về nguồn nhân lực của một doanh nghiệp nói chung thể hiện ở những yếu tố như: trình độ đào tạo, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kinh nghiệm. So với các ngành khác, ngành bảo hiểm đòi hỏi người lao động phải có kinh nghiệm, trình độ cao và kỹ năng giao tiếp tốt do tính chất đặc biệt của loại hàng hóa bảo hiểm là vô hình nên công việc bán hàng đòi hỏi tính chuyên nghiệp cao hơn các công việc bán hàng khác rất nhiều đồng thời phải có phẩm chất đạo đức tốt gây được lòng tin với khách hàng,…vì người mua không dễ gì cảm nhận được sản phẩm cần mua (độ bền, mẫu mã, hình dáng, kích thước,…) - Năng lực quản lý và cơ cấu tổ chức: Năng lực quản lý phản ánh năng lực lãnh đạo của Ban Giám đốc Công ty, thể hiện ở mức độ chi phối và khả năng giám sát của Lãnh đạo Công ty với các Phòng ban trong Công ty; thể hiện ở việc đề ra mục tiêu, chiến lược, quy trình hoạt động kinh doanh của Công ty; chính sách lương thưởng, đãi ngộ đối với người lao động,..Năng lực quản lý sẽ quyết định hiệu quả đến việc sử dụng nguồn lực của Công ty.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan