TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH THẾ GIỚI TỚI HOẠT ĐỘNG
XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM
Họ và tên sinh viên
: Th©n ThÞ Xu©n
Lớp
: NhËt 6
Khoá
: 44 H
Giáo viên hướng dẫn
: ThS. Vò ThÞ HiÒn
Hà Nội, tháng 5 năm 2009
Khoá luận tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu/ tính cấp thiết của đề tài:
Khủng hoảng tài chính đang diễn ra ngày càng liên tục và diễn biến phức tạp,
gây ra những hậu quả rất nặng nề đối với cả các quốc gia công nghiệp phát triển lẫn
các nƣớc đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Hệ thống tài chính quốc tế ngày
càng mang tính toàn cầu nên sự “lây nhiễm” khủng hoảng tài chính – tiền tệ lan rất
nhanh không chừa bất kỳ quốc gia nào.Trong thời gian gần đây, kinh tế thế giới
đang hứng chịu một cuộc khủng hoảng tài chính lớn đang lan rộng ra toàn cầu.
Ngƣời ta chƣa biết cuộc khủng hoảng này sẽ gây ra những hậu quả lớn tới mức nào
và khi nào sẽ dừng lại. Thậm chí Tổng giám đốc Quỹ tiền tệ quốc tế ( IMF) trong
một phát biểu thời điểm đầu tháng 10-2008 đã bày tỏ lo ngại sẽ diễn ra đại suy thoái
kinh tế toàn cầu. Một chấn động nhƣ vậy, một quả bom kinh tế nổ ra ở một loạt
nƣớc mà giới quản lý và khoa học về kinh tế khó có thể nhận biết một cách rõ ràng
và dự báo đƣợc. Sự tàn phá dữ dội của cuộc khủng hoảng này đã khiến rất nhiều
nền kinh tế lớn trên thế giới gặp nhiều khó khăn. Và đƣơng nhiên đó chính là các
đối tác quan trọng của Việt Nam.Hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam cũng
đang đứng trƣớc khó khăn và những thách thức lớn lao gây ra bởi cuộc khủng
hoảng. Một quốc gia mà đóng góp vào GDP chủ yếu là nhờ vào hoạt động xuất
khẩu thì rõ ràng chúng ta phải nghiên cứu cũng nhƣ xem xét lại nghiêm túc khách
quan chính sách kinh tế đối ngoại của mình, đặc biệt là cơ chế điều hành xuất nhập
khẩu để từ đó tìm ra hƣớng đi đúng nhằm hạn chế tối đa ảnh hƣởng tiêu cực của
cuộc khủng hoảng đồng thời đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam
trong điều kiện mới có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
2.1 Trên cơ sở tham khảo mô hình “ các nguy cơ khủng hoảng và cơ chế phát
sinh khủng hoảng kinh tế - tài chính”, của GS.TS Nguyễn Thiện Nhân để hiểu rõ
các yếu tố tiền đề của nguy cơ khủng hoảng. Và từ đó có thể phân tích nguyên nhân,
tìm hiểu nguồn gốc của cuộc khủng hoảng tài chính lần này ở những nƣớc bị khủng
hoảng nặng nề và qua đó rút ra bài học quí giá cho Việt Nam.
2.2 Phân tích tác động và mức độ ảnh hƣởng của cuộc khủng hoảng tới hoạt
động xuất nhập khẩu của Việt Nam nhằm đề ra một số giải pháp đề phòng ảnh
hƣởng tiêu cực và thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong giai đoạn
mới.
Thân Thị Xuân - Nhật 6 K44H
1
Khoá luận tốt nghiệp
3. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nƣớc:
Đã có khá nhiều công trình nghiên cứu tìm hiểu về khủng hoảng kinh tế tài
chính trên thế giới nói chung và các khu vực nói riêng. Tuy nhiên có thể nói với
cuộc khủng hoảng lần này với lí do xảy ra quá bất ngờ và chƣa một tổ chức nào có
thể dự đoán chính xác về thời điểm mà khủng hoảng có thể dừng lại, nên lƣợng
công trình nghiên cứu trong nƣớc không nhiều.Một số công trình đã đang đƣợc
nghiên cứu về các cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính:
1. - Giải pháp phòng ngừa khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Việt Nam của
GS.TS Hồ Xuân Phƣơng
2. - Khủng hoảng kinh tế tài chính ở Châu Á 1997-1999 của PGS.TS
Nguyễn Thiện Nhân
3. - Khủng hoảng tài chính thế giới- Nhận định kinh tế Việt Nam năm 2008
và xu thế đầu tƣ 2008-2009 của Th.s Đinh Thế Hiển
4. - Thông tin chuyên đề khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu và
việc chủ động ứng phó của Việt Nam của viện nghiên cứu kinh tế trung ƣơng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tƣợng: Các tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính tới hoạt động
xuất nhập khẩu của Việt Nam.
- Pham vi nghiên cứu:
+ Nội dung: Tập trung nghiên cứu chủ yếu vào ảnh hƣởng của cuộc khủng
hoảng tới hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian gần đây và đề ra
một số giải pháp hạn chế sự ảnh hƣởng đó
+ Không gian: Bức tranh tổng thể về khủng hoảng trên phạm vi quốc tế bao
gồm một số nền kinh tế lớn bao gồm Mỹ, Nhật Bản và châu Âu vì đây là những thị
trƣờng xuất khẩu quan trọng của Việt Nam.
+ Thời gian:Khủng hoảng tài chính tiền tệ trên phạm vi thế giới ( nghiên cứu
sâu và bắt nguồn từ Hoa Kỳ ) đến đầu năm 2009. Hoạt động xuất nhập khẩu của
Việt Nam đƣợc nghiên cứu trong phạm vi thời gian từ 2001 – 2009.Dự báo về tình
hình của khủng hoảng và sự phát triển của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng
trong thời gian tới ( năm 2009 và 2010)
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Là phƣơng pháp phân tích và tổng hợp tài liệu. Phân tích các quan hệ kinh tế
vi mô và vĩ mô, đồng thời vận dụng phƣơng pháp sơ đồ khối, mô phỏng của điều
khiển học.Sự kết hợp này nhằm mục đích đơn giản và rõ ràng cho việc lý giải quá
Thân Thị Xuân - Nhật 6 K44H
2
Khoá luận tốt nghiệp
trình khủng hoảng bằng chữ công thức và bảng số liệu, đồ thị. Phƣơng pháp lập giả
định đƣợc sử dụng để xác định giới hạn và phạm vi nghiên cứu hỗ trợ cho việc hệ
thống hóa những tác động cụ thế của cuộc khủng hoảng tới hoạt động xuất nhập
khẩu của Việt Nam.
6. Bố cục của nghiên cứu:
Nội dung nghiên cứu chi tiết:
Đề tài nghiên cứu: “ Một số giải pháp hạn chế ảnh hƣởng tiêu cực của khủng
hoảng tài chính thế giới tới hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam” gồm có ba
chƣơng:
Chương I: Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trên thế giới
Chương II. Ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ thế
giới tới hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam
Chương III: Một số giải pháp hạn chế sự ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng
hoảng tới hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam
Thân Thị Xuân - Nhật 6 K44H
3
Khoá luận tốt nghiệp
CHƢƠNG I: CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
TRÊN THẾ GIỚI
1.1. Mô hình kinh tế cơ bản phân tích quá trình khủng hoảng kinh tế - tài
chính
Khủng hoảng tài chính đã xuất hiện từ rất lâu, gắn liền với sự ra đời và phát
triển của hệ thống tài chính tƣ bản chủ nghĩa. Theo sự phát triển không ngừng của
thế giới thì các cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ ngày càng xảy ra nhiều hơn với
xu hƣớng: Qui mô khủng hoảng ngày càng lớn, tốc độ lan truyền nhanh hơn và khó
dự đoán trƣớc.
Tài chính đƣợc hiểu theo nghĩa rộng là tập hợp các quỹ tiền tệ cùng với các
mối quan hệ giữa chúng. Trong nền kinh tế thị trƣờng luôn có sự luân chuyển các
luồng vốn tiền tệ và trong quá trình đó hình thành các quỹ tiền của tất cả các chủ thể
trong xã hội mà giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ, ảnh hƣởng lẫn nhau tạo nên
một hệ thống tài chính.
Có thể định nghĩa về khủng hoảng tài chính tiền tệ là tình trạng tài chính
(quĩ) mất cân đối nghiêm trọng có thể dẫn tới sụp đổ quĩ. Nói cách khác, khủng
hoảng tài chính- tiền tệ là sự thất bại của một số nhân tố của nền kinh tế trong việc
đáp ứng đầy đủ nghĩa vụ, bổn phận tài chính của mình. Nhƣ vậy, khủng hoảng tài
chính – tiền tệ là khái niệm bao trùm đƣợc sử dụng chung cho mọi loại khủng
hoảng gắn với mất cân đối về tài chính và thƣờng là khi nghĩa vụ phải thanh toán
lớn hơn nhiều phƣơng tiện dùng để thanh toán tại một thời điểm nào đó.
Tham khảo mô hình mà GS.TS Nguyễn Thiện Nhân đã xây dựng về khủng
hoảng kinh tế - tài chính chúng ta có thể tiếp cận một cách hợp lí và có đƣợc tầm
nhìn bao quát, với phƣơng pháp luận khoa học hiện đại.
Mô hình kinh tế mà cho phép mô phỏng quá trình khủng hoảng kinh tế - tài
chính nói chung, trƣớc tiên có đƣợc sự xây dựng mô hình cho quá trình tích lũy ba
nguy cơ là:
- Nguy cơ đồng tiền bị phá giá
- Nguy cơ phá sản ngân hàng và công ty tài chính
- Nguy cơ phá sản doanh nghiệp
Ngoài ra còn có một vấn đề chi phối mạnh đến thời điểm nổ ra các cuộc khủng
hoảng là: nguy cơ quốc gia mất khả năng thanh toán, cũng cần phải đƣợc đề cập trƣớc
khi xem xét mô hình kinh tế để nghiên cứu khủng hoảng kinh tế - tài chính.
Thân Thị Xuân - Nhật 6 K44H
4
Khoá luận tốt nghiệp
1.1.1. Mô hình “nguy cơ đồng tiền bị phá giá”
Nếu một quốc gia thực hiện chế độ tỉ giá cố định (theo một ngoại tệ hoặc một
số ngoại tệ), thì sẽ xuất hiện nguy cơ đồng tiền bị phá giá, tức là không còn khả
năng duy trì tỉ giá cố định nữa. Hai yếu tố trực tiếp liên quan đến quá trình này là:
- Cán cân thƣơng mại (xuất khẩu – nhập khẩu)
- Dòng vốn vào và ra khỏi quốc gia
Hai vấn đề này lại do tỉ giá hối đoái và lãi suất tín dụng quyết định. Vì vậy,
trƣớc khi xem mô hình ”Nguy cơ đồng tiền bị phá giá” chúng ta sẽ xem xét vấn đề
tỉ giá hối đoái và lãi suất tín dụng gắn với chu chuyển vốn.
a. Tỉ giá hối đoái với xuất nhập khẩu hàng hóa và thị trường vốn
Trong thị trƣờng ngoại tệ đƣợc hình thành qua việc cung cầu ngoại tệ do xuất
nhập khẩu hàng hóa thì:
- Xuất khẩu tăng thì cung ngoại tệ tăng (và ngƣợc lại)
- Nhập khẩu tăng thì cầu ngoại tệ tăng (và ngƣợc lại)
Nhƣng còn nhân tố khác cũng làm tăng hay giảm cung cầu ngoại tệ. Đó là
dòng chu chuyển vốn quốc tế. Một quốc gia thu hút vốn từ bên ngoài sẽ làm tăng
cung ngoại tệ và nhu cầu mang vốn ra ngoài sẽ làm tăng cầu ngoại tệ. Ngày nay
việc chu chuyển vốn đóng góp một vai trò hết sức quan trọng, chi phối thị trƣờng
ngoại tệ của một quốc gia.
Điều kiện duy trì đƣợc tỉ giá hối đoái cố định:
Xét về mặt cơ bản và lâu dài muốn duy trì đƣợc tỉ giá hối đoái cố định, chỉ
có hai con đƣờng:
1- Phải cân bằng đƣợc xuất nhập khẩu
2- Trong ngắn hạn, mặc dù có thâm hụt thƣơng mại, song sử dụng vốn vay nƣớc
ngoài và vốn trong nƣớc có hiệu quả cao, tăng nhanh đƣợc xuất khẩu, tạo điều kiện trả
đƣợc vốn vay nƣớc ngoài khi đến kì hạn, do đó mặc dù có thể tiếp tục vay nƣớc ngoài
trong tƣơng lai song tổng nợ nƣớc ngoài không vƣợt qua mức an toàn cho phép.
b. Mô hình “Nguy cơ đồng tiền bị phá giá”
Trên cơ sở mối quan hệ nhân quả tác động của tỉ giá hối đoái cố định và các
quá trình tiếp diễn sau đó, ta có thể quan sát mô hình “Nguy cơ đồng tiền bị phá
giá” theo sơ đồ dƣới đây:
Khi lạm phát trong nƣớc cao hơn ở các nƣớc có đồng tiền mạnh và tỉ giá hối
đoái đƣợc giữ cố định thì hàng trong nƣớc xuất khẩu sẽ bị khó khăn hơn, do trở nên
đắt hơn ở nƣớc nhập khẩu, và hàng nhập khẩu vào nƣớc sở tại sẽ dễ hơn, vì trở nên
rẻ hơn. Kết quả là cán cân thƣơng mại sẽ có xu hƣớng xấu hơn, lâu dài có thể
chuyển thành thâm hụt thƣơng mại.
Thân Thị Xuân - Nhật 6 K44H
5
Khoá luận tốt nghiệp
Rút vốn vì
sợ mất tài
sản bằng
tiền nội địa
(pt 3.8)
Ngân hàng, Công
ty nƣớc ngoài
Vốn nƣớc ngoài
vào nhiều (ngắn
hạn, dài hạn)
(phát triển 3.7)
Nợ nƣớc
ngoài
tăng
Ngân hàng Trung
ƣơng không có khả
năng can thiệp
(bán ngoại tệ) để
duy trì tỷ giá cố
định, thả nổi tỷ giá
Tăng lãi suất
để thu hút vốn
nƣớc ngoài
Tỷ giá hối
đoái cố
định
(D/USD)
Hạn chế xuất
khẩu, khuyến
khích nhập
khẩ u
Lạm phát trong
nƣớc cao hơn
lạm phát các
nƣớc có đồng
tiền mạnh
(USD, FRF,
DM
Nhập khẩu lậu
gia tăng
Thâm hụt cán
cân thƣơng
mạ i
Dự trữ
ngoại tệ giảm
1
Tỷ giá hối đoái
tăng đột ngột
2
Rút tiền gửi
mua ngoại tệ
Thị trƣờng ngoại
hối không chính
thức: Nhu cầu
ngoại tệ tăng
Ngƣời dân sợ
mất tài sản bằng
tiền nội địa
Quản lý kém
Sơ đồ 1. Mô hình “Nguy cơ đồng tiền bị phá giá”
(Nguồn: GS.TS Nguyễn Thiện Nhân-Khủng hoảng kinh tế tài chính ở Châu Á 1997-1999)
1.1.2. Mô hình “nguy cơ phá sản doanh nghiệp”
Trong nền kinh tế thị trƣờng, sự tồn tại, phát triển hay phá sản doanh nghiệp
là một điều hết sức bình thƣờng. Lý thuyết kinh tế vi mô đã chỉ rõ: Cạnh tranh sẽ
trừng phạt các doanh nghiệp có chi phí sản xuất cao và khuyến khích những doanh
nghiệp có chi phí sản xuất thấp.
Chính từ nguyên tắc này mà xuất hiện áp lực buộc các doanh nghiệp phải
giảm chi phí sản xuất, vì đó là cơ sở cho sự tồn tại hay phá sản doanh nghiệp. Ngoài
những doanh nghiệp có chi phí sản xuất cao hơn giá bán trên thị trƣờng tất yếu phải
phá sản còn có những doanh nghiệp có chi phí sản xuất cận biên gần bằng giá bán,
cũng dễ bị loại khỏi thị trƣờng do một số doanh nghiệp mới tham gia vào thị trƣờng
với chí phí thấp hơn hay các doanh nghiệp đã có trên thị trƣờng có mức chi phí thấp
hơn sẽ tăng năng lực sản xuất đẩy doanh nghiệp có chi phí cao ra khỏi thị trƣờng.
Thân Thị Xuân - Nhật 6 K44H
6
Khoá luận tốt nghiệp
Nhƣ vậy quá trình cạnh tranh tất yếu sẽ làm cho các doanh nghiệp kém hiệu quả
nhất bị phá sản và trong trƣờng hợp này nguồn lực trong xã hội ngày càng đƣợc sử
dụng hiệu quả hơn. Tuy nhiên, nếu nền kinh tế không có khả năng loại bỏ các doanh
nghiệp kém hiệu quả (chi phí cao) thì có nghĩa là khuyến khích việc sử dụng tài
nguyên một cách kém hiệu quả. Việc sử dụng tài nguyên kém hiệu quả có thể trở
thành một căn bệnh chung trong xã hội và số doanh nghiệp kém hiệu quả (chi phí
cao) gia tăng hay lợi nhuận của mỗi doanh nghiệp giảm sút.
Quá trình này dẫn tới sự tích lũy, sự kém hiệu quả của các doanh nghiệp
trong nền kinh tế. Nếu vì một lí do nào đó mà chi phí đầu vào tăng lên hay giá cả
đầu ra giảm xuống đột ngột sẽ dẫn đến hàng loạt doanh nghiệp hoạt động kém hiệu
quả phải phá sản. Nhiều doanh nghiệp phá sản sẽ dẫn tới tình trạng thất nghiệp gia
tăng và nhƣ thế thì tổng cầu lại giảm, các đơn đặt hàng sẽ giảm và doanh nghiệp
khác lại phá sản. Các doanh nghiệp phá sản sẽ không trả đƣợc nợ ngân hàng và có
thể dẫn đến các ngân hàng phá sản.
Nguy cơ phá sản doanh nghiệp do sự kém hiệu quả của doanh nghiệp và các
điều kiện bên ngoài doanh nghiệp có thể đƣợc phân tích dƣới sơ đồ sau:
Thân Thị Xuân - Nhật 6 K44H
7
Khoá luận tốt nghiệp
Môi trƣờng cạnh tranh trong
nƣớc không lành mạnh
Quản lý của
Chính phủ
Cạnh tranh quốc
tế
Kiểm soát hệ thống
ngân hàng kém
Cho DN kém
hiệu quả vay
ƣu đãi
Lãi suất nội
địa cao
DN thiếu quan tâm
hiệu quả kinh doanh,
nợ gia tăng
DN không dám vay
để đầu tƣ đổi mới
công nghệ
Chiến lƣợc kinh doanh và cơ cấu sản phẩm
của DN không phù hợp
Duy trì tỷ
giá cố định
Khuyến khích nhập
khẩu, hạn chế xuất
khẩu
Luật pháp
“không cho DN
phá sản
Doanh nghiệp
tích luỹ sự
không hiệu quả:
Chi phí sản
xuất tăng
Công nghệ
lạc hậu
Sản
không
hợp
Áp lực cạnh
tranh tăng liên
tục
Nợ tăng, lợi
nhuận thấp
Doanh
nghiệp
phá
sản
phẩm
phù
Tỷ giá
hối
đoái
tăng
đột
ngột
Sơ đồ 2. Mô hình “Nguy cơ phá sản doanh nghiệp”
(Nguồn: GS.TS Nguyễn Thiện Nhân-Khủng hoảng kinh tế tài chính ở Châu Á 1997-1999)
1.1.3. Mô hình “Nguy cơ phá sản ngân hàng và các công ty tài chính”
Các ngân hàng kinh doanh và các Công ty Tài chính là những mắt xích quan
trọng trong nền kinh tế của quốc gia, và chức năng huy động các nguồn vốn nhàn rỗi
của các cá nhân và doanh nghiệp để sử dụng một cách có hiệu quả. Vì mục tiêu lợi
nhuận, các Ngân hàng và các công ty Tài chính chỉ cho các tổ chức, cá nhân vay tiền
khi họ có thể hoàn trả vốn vay với lãi suất nhất định.
Nếu một doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, các ngân hàng và các công
Thân Thị Xuân - Nhật 6 K44H
8
Khoá luận tốt nghiệp
ty tài chính sẽ không cho nó vay, điều này thúc đẩy nó sớm đóng cửa. Ngƣợc lại,
các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả sẽ đƣợc cho vay tiếp, giúp nó càng phát triển
mạnh hơn.
Bằng cách này, hệ thống ngân hàng tài chính góp phần rất quan trọng đảm
bảo tính hiệu quả của lĩnh vực sản xuất và kinh doanh của cả xã hội. Khi Ngân hàng
và các tổ chức tài chính hoạt động kém hiệu quả do cho các doanh nghiệp kém hiệu
vay thị nguồn lực tài chính trong xã hội bị sử dụng lãng phí. Giống nhƣ đối với
doanh nghiệp, nếu nền kinh tế không có khả năng loại bỏ những Ngân hàng kém
hiệu quả trong nền kinh tế thì sẽ dẫn đến quá trình tích lũy sự kém hiệu quả trong
nền kinh tế và là một nguy cơ dẫn đến khủng hoảng kinh tế - tài chính.
Theo Wibert Obascom “hệ thống Ngân hàng đƣợc xem là đang ở trong tình
trạng khủng hoảng tài chính khi ít nhất là 50% Ngân hàng và các tổ chức tài chính
vỡ nợ”
Tuy nhiên trong thực tế thì có thể chỉ cần một vài ngân hàng vỡ nợ nhƣng đã
có tác động mang tính chất dây chuyền (do mất niềm tin) dẫn đến tình trạng sụp đổ
hàng loạt các Ngân hàng, tổ chức tài chính. Các yếu tố dẫn đến nguy cơ phá sản của
các Ngân hàng và tổ chức tài chính:
Các doanh nghiệp – con nợ chính của Ngân hàng và các tổ chức tài chính
– kinh doanh thua lỗ và phá sản ngày càng gia tăng.
Nhu cầu rút vốn tăng lên đột ngột
Các ngân hàng tham gia đầu tƣ vào các dự án quá lạc quan.
Cơ chế giám sát của Ngân hàng Trung ƣơng kém.
Sự can thiệp của chính phủ.
Luật pháp không cho phá sản
Áp lực của hiện đại hóa và cạnh tranh toàn cầu trên lĩnh vực dịch vụ
Ngân hàng – Tài chính
Sự quản lý yếu kém của bản thân các Ngân hàng, công ty tài chính
Thân Thị Xuân - Nhật 6 K44H
9
Khoá luận tốt nghiệp
Mô hình “ Nguy cơ phá sản Ngân hàng”
Quản lý
của Chính phủ
Môi trƣờng cạnh tranh của các
Ngân hàng. Công ty Tài chính
không lành mạnh
Ngân hàng
Trung ƣơng
Không có bảo hiểm
tiền gửi
- Ngân hàng
Công ty Tài
chính nƣớc ngoài
- Dân chúng
- Cổ đông
- Ngân hàng KD
và Cty Tài chính
trong nƣớc
Cho vay
tái
chiết
khấu
Cho vay
Rút vốn
Rút vốn khi mất niềm tin
vào khả năng chi trả của
Ngân hàng KD, Công ty Tài
chính
Tỷ giá hối đoái
tăng nhanh
Sự hiện đại hoá và
toàn cầu hoá dịch vụ
Ngân hàng - Tài
chính toàn cầu
Giám sát các
Ngân hàng kinh
doanh và Công ty
tài chính
Ngân hàng KD, Công ty
Tài chính:
- Cho các DN kém hiệu
quả vay.
- Đánh giá bất động sản
thế chấp giá cao.
- Nguồn vốn hoạt động
chi phí cao rủi ro cao
Mất khả năng
thanh toán
Phá sản
Cho vay
Không trả
đƣợc nợ
Doanh
nghiệp kinh
doanh kém
hiệu quả,
sơ đồ 3.2
Luật pháp “không
cho” phá sản
Quản lý của
các Ngân
hàng, Công ty
Tài chính kém
hiệu quả
Chính phủ can thiệp để cho
các DN vay, bảo lãnh doanh
nghiệp kém hiệu quả
Sơ đồ 3. Mô hình “Nguy cơ phá sản Ngân hàng, Công ty Tài chính”
(Nguồn: GS.TS Nguyễn Thiện Nhân-Khủng hoảng kinh tế tài chính ở Châu Á 1997-1999)
Thân Thị Xuân - Nhật 6 K44H
10
Khoá luận tốt nghiệp
1.1.4. Mô hình “ Nguy cơ quốc gia mất khả năng thanh toán”
Đầu tƣ nƣớc ngoài và đầu tƣ từ ngân sách quốc gia là các công cụ, tiền đề để
phát triển. Song trong những điều kiện nhất định, các loại đầu tƣ này có thể tạo ra
nguy cơ mất khả năng thanh toán của một quốc gia.Nếu tỉ giá hối đoái gần nhƣ cố
định, lãi suất tín dụng trong nƣớc cao hơn đáng kể ở nƣớc ngoài thì đầu tƣ tài chính
vào nƣớc chủ nhà sẽ có hiệu quả cao với các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài. Nhƣ vậy, đầu
tƣ tài chính của nƣớc ngoài càng tăng thì số lãi suất phải trả và đƣợc chuyển qua
ngoại tệ ra nƣớc ngoài sẽ càng cao, có tác dụng làm giảm dự trữ ngoại tệ một quốc
gia, đồng thời nợ quốc gia sẽ gia tăng. Điều này tạo ra nguy cơ mất khả năng thanh
toán của quốc gia.
Nếu các doanh nghiệp vay ngoại tệ ngắn hạn, lại đầu tƣ vào các công trình
xây dựng nhà ở, văn phòng, đƣờng xá, viễn thông là các ngành chỉ đem lại doanh
thu ngoại tệ rất ít, thì khi nợ tới hạn phải trả, sẽ không có nguồn ngoại tệ. Đây chính
là nguy cơ mất khả năng thanh toán do cơ cấu đầu tƣ bằng vốn vay không hợp lý.
Nếu vay nƣớc ngoài qua con đƣờng chính thức (ODA) mà nƣớc chủ nhà lựa
chọn các dự án kém hiệu quả thì khả năng hoàn vốn sẽ kém. Đến hạn phải trả,
Chính phủ phải xuất ngoại tệ để trả hoặc vay tiếp để trả nợ cũ. Kết quả là dự trữ
ngoại tệ giảm hoặc nợ nƣớc ngoài của Chính phủ sẽ tăng.
Thân Thị Xuân - Nhật 6 K44H
11
Thân Thị Xuân - Nhật 6 K44H
12
Phát hành tiền để chi
ngân sách
Ngân sách thâm hụt
Chi ngân sách lớn
Xuất dự trữ ngoại tệ
để trả nợ đáo hạn
Cơ cấu đầu tƣ nƣớc
ngoài không lợp lý
Trả lãi và chuyển ngoại
tệ ra nƣớc ngoài
Sơ đồ 4. Nguy cơ quốc gia mất khả năng thanh toán
GDP tăng chậm
Đầu tƣ trong nƣớc
tăng chậm
Vay nƣớc ngoài tiền
để trả nợ đáo hạn
Khả năng hoàn vốn
kém
Đầu tƣ tài chính của
nƣớc ngoài tăng
Lạm phát, lãi suất
tín dụng tăng
Phát hành trái phiếu
chính phủ
Nợ nƣớc ngoài tăng
(đầu tƣ tài chính,
ODA)
Thâm hụt cán cân tài
khoản vãng lai CA
Dự trữ ngoại tệ
Quốc gia giảm
(Nguồn: GS.TS Nguyễn Thiện Nhân-Khủng hoảng kinh tế tài chính ở Châu Á 1997-1999)
Cho vay theo chỉ
định của chính phủ
Đầu tƣ từ ngân
sách kém hiệu quả
Thẩm định dự án
đầu tƣ kém
Lựa chọn dự án
ODA kém hiệu quả
Lãu suất tín dụng
trong nƣớc cao
Tỷ giá hối đoái
cố định
Nợ trong
nƣớc của
chính
phủ
Nguy cơ
quốc gia
mất khả
năng
thanh
toán
Khoá luận tốt nghiệp
Khoá luận tốt nghiệp
1.1.5. Mô hình “các nguy cơ khủng hoảng và cơ chế phát sinh khủng hoảng
kinh tế – tài chính”
Khủng hoảng chỉ có thể nổ ra khi bên trong nền kinh tế quốc gia đã tích lũy
bốn nguy cơ khủng hoảng là:
- Sự kém hiệu quả của các doanh nghiệp
- Sự kém hiệu quả của các Ngân hàng, Công ty Tài chính
- Sự duy trì tỉ giá hối đoái gần nhƣ cố định
- Nguy cơ quốc gia mất khả năng thanh toán và khi bên ngoài có một số tác
động quyết định là sự rút vốn tài chính của các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài.
Thân Thị Xuân - Nhật 6 K44H
13
Thân Thị Xuân - Nhật 6 K44H
14
dây
chuyền
Tác
3
Tác động nhanh
Ngƣời dân rút tiền
tiết kiệm, mua ngoại
tệ, vàng
Các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài rút vốn (Ngân
hàng, công ty tài chính, doanh nghiệp)
1
2
Các nƣớc bị khủng hoảng
Phá giá nội tệ
Tác động
động rất
nhanh
Nội tệ mất,
giá nhanh,
(tỷ giá hối
đoái tăng)
Ngân hàng phá sản
hàng loạt
Doanh nghiệp
phá sản
Khủng hoảng
hoảng kinh tế tài chính ở Châu Á 1997-1999)
(Nguồn: GS.TS Nguyễn Thiện Nhân-Khủng
tài chính”
Sơ đồ 5. Mô hình “các nguy cơ khủng hoảng và cơ chế phát sinh khủng hoảng kinh tê –
Nguy cơ quốc gia mất khả năng
thanh toán (Sơ đồ 3.4)
Tỷ giá hối đoái gần nhƣ cố định
(Sơ đồ 3.3)
Sự kém hiệu quả của các ngân
hàng (Sơ đồ 3.2)
Sự kém hiệu quả của các doanh
nghiệp (Sơ đồ 3.1)
Tích lũy nguy cơ khủng hoảng
Ảnh hƣởng do
các nhà đầu tƣ
nƣớc ngoài và
các nƣớc khủng
hoảng gây ra
Tác
động
nhanh
4
Tác
động
chậm
Khoá luận tốt nghiệp
Khoá luận tốt nghiệp
1.2. Diễn biến, tính chất, nguyên nhân của cuộc khủng hoảng hiện nay
Khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ Mỹ đã đạt đến cao trào trong thời gian
gần đây và đang có xu hƣớng ngày càng trầm trọng và lan rộng, hình thành cuộc
khủng hoảng mang tính toàn cầu. Dự đoán kinh tế toàn cầu sẽ đi vào suy thoái kéo
dài dƣới tác động của khủng hoảng tài chính hiện tại. Tăng trƣởng kinh tế toàn cầu
có thể chỉ còn 2,5% trong năm 2009 so với 3,8% trong năm 2008.
Có thể nói cuộc khủng hoảng lần này là sự kết hợp của tất cả các mô hình ở
trên, trƣớc tiên chúng ta sẽ xem xét diễn biến của cuộc khủng hoảng.
1.2.1. Diễn biến của cuộc khủng hoảng
Cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ ”hàng trăm năm mới có một lần”, theo lời
ông Alan Sreenspan, cựu chủ tịch Cục Dự Trữ Liên Bang (FED), đã đƣợc dự báo từ
năm 2006. Tuy nhiên, dự đoán cũng nhƣ phân tích của nhiều nhà kinh tế đã không
đủ sức thuyết phục để các cơ quan tài chính quyền lực nhất tại Mỹ và Châu Âu có
biện pháp đề phòng. Nguyên nhân trực tiếp của cơn địa chấn tài chính bắt nguồn từ
khủng hoảng tín dụng và nhà đất tại Mỹ. Bong bóng bất động sản càng lúc càng
phình to đã đặt thị trƣờng nhà đất và tiếp đó là tín dụng tại Mỹ cũng nhƣ nhiều quốc
gia châu Âu vào thế nguy hiểm. Cho vay dƣới chuẩn tăng mạnh là khởi điểm cho
quả bong bóng tại thị trƣờng nhà đất. Các ngân hàng cho vay cầm cố bất động sản
mà không quan tâm tới khả năng chi trả của khách hàng. Dƣ nợ trong lĩnh vực này
tăng mạnh từ 160 tỷ USD năm 2001 lên 540 tỷ USD vào năm 2004 và bùng nổ
thành 1.300 tỷ USD vào năm 2007. Theo ƣớc tính vào cuối quí III năm 2008 hơn
một nửa giá trị thị trƣờng nhà đất Mỹ là tiền đi vay với một phần ba các khoản nợ là
khó đòi. Trƣớc đó, để đối phó với lạm phát, FED đã liên tiếp tăng lãi suất từ 1% vào
giữa năm 2004 lên 5,25% vào giữa năm 2006 khiến lãi vay phải trả trở thành áp lực
quá lớn đối với ngƣời mua nhà. Họ không thể trả đƣợc nợ vay và nhà thì bị tịch biên.
Thị trƣờng bất động sản bắt đầu đóng băng và giá nhà đất bị sụt giảm mạnh. Cuộc
khủng hoảng từ đó lan từ thị trƣờng bất động sản sang thị trƣờng tín dụng và cuối
cùng dẫn tới khủng hoảng tài chính tại Mỹ và tràn sang nhiều nƣớc châu Âu, khiến
nhiều công ty lớn phá sản.
Nạn nhân đầu tiên của cơn bão tài chính là Country Financial, tập đoàn tài
chính từng nắm giữ 20% thị trƣờng cho vay bất động sản Mỹ, chỉ trong vài tháng,
đã bị đẩy đến sát bờ vực phá sản do nợ khó đòi vào tháng 8/2007. Đến tháng 1/2008,
ngân hàng lớn nhất nƣớc Mỹ về giá trị vốn hóa và tiền gửi, Bank of America, đã
mua lại Country Financial với giá 4 tỷ USD. Sau đó một tháng đến lƣợt Northern
Thân Thị Xuân - Nhật 6 K44H
15
Khoá luận tốt nghiệp
Rock, ngân hàng lớn thứ năm tại Anh, sau khi mất thanh khoản nghiêm trọng do
thua lỗ từ cho vay thế chấp bất động sản, đã phải cầu cứu ngân hàng trung ƣơng
Anh. Nhà đầu tƣ ùn ùn kéo đến rút tiền khiến Chính phủ buộc phải tiếp quản tập
đoàn ngân hàng này; và đến ngày 17/02/2008, Northern Rock chính thức bị quốc
hữu hóa. Sự kiện Country Financial và Northern Rock là dấu hiệu báo trƣớc cơn
bão sắp đổ xuống thị trƣờng tài chính toàn cầu cũng nhƣ làn sóng sát nhập, phá sản,
và bị chính phủ tiếp quản của các định chế tài chính.
Đến ngày 28/02/2008 Ngân hàng DZ Bank của Đức đƣợc đƣa vào danh sách
các nạn nhân của cuộc khủng hoảng cho vay dƣới chuẩn với tổng giá trị tài sản mất
giá là 1,36 tỷ Euro. Chƣa đầy một tháng sau, chính xác là ngày 17/3/2008, sự sụt giá
không kiểm soát nổi của các khoản đầu tƣ tài chính- bất động sản đã buộc Tập đoàn
môi giới chứng khoán Bear Stearns của Mỹ tê liệt và chấm dứt hoạt động sau 85
năm tồn tại. Bear Stearns phải chấp nhận bán lại cho đối thủ JP Morgan Chase với
giá 240 triệu USD, bao gồm cả trụ sở của hãng này.
Chƣa dừng lại ở đó, đến ngày 29/4/2008, Deutsche Bank lần đầu tiên trong 5
năm công bố một khoản thua lỗ trƣớc thuế sau khi buộc phải trích lập dự phòng 4,2
tỷ USD cho các khoản nợ xấu và các chứng khoán đƣợc đảm bảo bởi các khoản thế
chấp bất động sản. Đến ngày 31/7/008, ngân hàng này công bố khoản trích lập dự
phòng tiếp theo là 3,6 tỷ USD, nâng tổng số tiền ngân hàng này mất lên 11 tỷ USD,
và Deutsche Bank trở thành một trong 10 nạn nhân lớn nhất của cuộc khủng hoảng
tín dụng toàn cầu. Trƣớc đó, ngày 11/7/2008, chính quyền liên bang Mỹ đoạt quyền
kiểm soát Ngân hàng IndyMac Bancorp. Đây là một trong những vụ đóng cửa ngân
hàng lớn nhất từ trƣớc tới nay sau khi những ngƣời gửi tiền đã rút ra hơn 1,3 tỷ
USD trong vòng 11 ngày.
Cơn địa chấn tài chính thực sự nổ ra ngày 7/9/2008 khi hai tập đoàn chuyên
cho vay cầm cố khổng lồ Mỹ là Freddie Mac và Fannie Mae buộc phải đƣợc chính
phủ tiếp quản để trán khỏi nguy cơ phá sản. Sự kiện này tiếp tục châm ngòi cho vụ
đổ vỡ với những tên tuổi lớn khác. Ngày 15/9/2008, ngân hàng đầu tƣ lớn thứ 4 Mỹ
Lehman Brothers sau 158 năm tồn tại đã tuyên bố phá sản. Đúng 10 ngày sau,
Washington Mutual Inc, một trong những ngân hàng lớn nhất Mỹ, đã tạo nên vụ phá
sản ngân hàng lớn nhất trong lịch sử với tổng giá trị tài sản thiệt hại lên tới 307 tỷ
USD. Ngoài ra, do khủng hoảng tài chính, Ngân hàng đầu tƣ số một nƣớc Mỹ,
Merill Lynch bị thâu tóm bởi Bank of America. Chính phủ đã buộc phải bơm 85 tỷ
USD vào AIG, Tập đoàn bảo hiểm lớn nhất thế giới, để tránh cho thị trƣờng tài
Thân Thị Xuân - Nhật 6 K44H
16
Khoá luận tốt nghiệp
chính nƣớc này một kết cục tồi tệ hơn.
Tháng 9 và 10/2008 trở thành giai đoạn đen tối với phố Wall khi chỉ số Dow
Jones sụt tới 25% giá trị chỉ sau một tháng kể từ ngày 15/9/2008. Biến động tại phố
Wall trở nên khó lƣờng hơn với nhiều kỷ lục cả tăng và giảm tồn tại trong hàng chục
năm đã bị phá. Không chỉ ở phố Wall, tuần lễ từ 15 đến 21/9/2008 thị trƣờng chứng
khoán của cả thế giới chao đảo, từ Tokyo đến Thƣợng Hải, Seoul và Hồng Kông, các
chỉ số chứng khoán đều tuột dốc mạnh.Tại Châu Âu, các thị trƣờng chứng khoán Paris,
Luandon, Franfurt, Amsterdam cùng chung số phận. Thị trƣờng chứng khoán
Matxcova cũng lâm vào tình trạng hoảng loạn đến nỗi phải tạm đóng cửa để chờ cho
cơn bão đi qua.
Xen giữa nhứng sự kiện trên, 9 tháng đầu năm 2008 chứng kiến các cơn sốt
giá dầu, lƣơng thực, và lạm phát làm khuynh đảo nền kinh tế toàn cầu. Đặc biệt là
giá dầu, từ mức 90 USD một thùng vào đầu năm 2008 đã leo lên trên 100 USD vào
20/2/2008 và lập kỷ lục trên 147 USD một thùng vào 11/7/2008. Giá dầu leo thang
kéo giá hàng hóa cơ bản và lƣơng thực lên theo. Trong đó, vàng lập kỷ lục trên
1000 USD một ounce vào ngày 17/3/2008. Còn giá lƣơng thực đắt đỏ lại tạo ra căng
thẳng thực sự tại nhiều nơi, thậm chí cả ở các quốc gia xuất khẩu lƣơng thực. Nạn
lạm phát từ đó cũng xảy ra tràn lan tại nhiều quốc gia. Tuy nhiên sau khi đạt đỉnh
vào tháng 7/2008, giá dầu bất ngờ lao dốc không phanh. Nguyên nhân của hiện
tƣợng trên là nhu cầu sử dụng dầu tại nhiều quốc gia, đặc biệt là Trung Quốc và Ấn
Độ, sụt giảm mạnh do khó khăn về kinh tế. Hiện giá nhiên liệu này chỉ còn khoảng
40 USD một thùng, mất hơn 100 USD, tƣơng ứng gần 70% so với mức giá kỷ lục
trƣớc đó vài tháng, bất chấp những nỗ lực cắt giảm sản lƣợng của OPEC.
Quay trở lại với diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính, tình trạng thị
trƣờng tài chính đóng băng ngày càng tồi tệ đã khiến Ngân hàng Trung ƣơng Mỹ,
Anh, Nhật, EU và nhiều quốc gia khác phải cắt giảm lãi suất, từ đó lãi suất cơ bản từ
5% đã xuống chỉ còn 0,25%. Không dừng lại ở điều chỉnh tài khóa, các quốc gia trên
cũng tích cực bơm tiền nhằm hỗ trợ thanh khoản cho các tập đoàn tài chính, cũng nhƣ
kích thích hoạt động tiêu dùng và cho vay. Trong đó, FED quyết định dùng 700 tỷ
USD để mua lại nợ xấu của các ngân hàng. TRƣớc khi đƣợc thông qua ngày
1/110/2008, kế hoạch hỗ trợ lớn chƣa từng có trong lịch sử đã vấp phải không ít phản
đối tại Quốc hội Mỹ. Đặc biệt tại vòng bỏ phiếu vào ngày 29/9/2008, Hạ viện bất ngờ
không thông qua kế hoạch trên tạo ra một cú sốc thực sự với phố Wall khiến chỉ số
Dow Jones trải qua ngày giảm điểm tồi tệ nhất trong lịch sử. Không lâu sau khi kế
Thân Thị Xuân - Nhật 6 K44H
17
Khoá luận tốt nghiệp
hoạch trên đƣợc thông qua, vào các ngày 13-14/10/2008, các quốc gia châu Âu đã
công bố gói giải pháp hỗ trợ kinh tế khổng lồ có trị giá lên tới 2.300 tỷ USD.
Bƣớc vào quý IV/2008, suy thoái kinh tế toàn cầu biểu hiện rõ sau khi các
trung tâm kinh tế lớn nhƣ Mỹ, Nhật Bản, EU cùng lần lƣợt rơi vào suy thoái. Kinh
tế Mỹ lâm vào suy thoái với tốc độ nhanh, khoảng âm 0,3% trong quý III/2008.
Mức chi tiêu của ngƣời tiêu dùng, vốn đóng góp tới hai phần ba vào sự tăng trƣởng
kinh tế Mỹ, suy giảm mạnh nhất kể từ năm 1980. Thâm hụt ngân sách liên bang
trong năm tài khóa 2008 tăng mạnh với mức kỷ lục 454,8 tỷ USD, cao gấp ba lần
mức thâm hụt 161,5 tỷ USD trong tài khóa năm 2007, chủ yếu do chi phí quốc
phòng tăng mạnh, nhất là phục vụ cho hai cuộc chiến tranh Iraq, Afghanistan. Dự
báo thâm hụt ngân sách liên bang trong tại khóa năm 2009 có thể lên tới 1000 tỷ
USD. Theo Bộ Lao động Mỹ, tỷ lệ thất nghiệp hiện nay của nƣớc này lên đến 6,5%
cao nhất trong 14 năm qua. Theo dự báo, kinh tế Mỹ tiếp tục suy thoái trong năm
2009, tỷ lệ thất nghiệp có thể lên 8%, trong khi cac khoản tiền dự trữ và giá trị bất
động sản giảm mạnh, chỉ số lòng tin của ngƣời dân Mỹ giảm xuống tới mức kỷ lục.
Điều này càng làm cho nền kinh tế số một thế giới lâm vào suy thoái trầm trọng hơn.
Tiếp theo Mỹ, nền kinh tế thứ hai thế giới là Nhật Bản đã chính thức công bố
suy thoái kinh tế vào ngày 18-11-2008 sau khi tăng trƣởng âm liên tiếp trong hai quý
II và III/2008. Nhƣ vậy, đây là lần đầu tiên kể từ năm 2001, kinh tế Nhật Bản rơi vào
suy thoái. Trƣớc đó, khu vực đồng tiền chung Euro cũng lần đầu tiên rơI vào suy
thoáI kể từ khi hình thành năm 1999. Số liệu thống kê cho thấy GDP của 15 nƣớc sử
dụng đồng tiền chung Euro đã tăng trƣởng âm liên tiếp trong hai quý II và III/2008.
Đức là nền kinh tế lớn nhất châu Âu và đứng thứ ba thế giới chính thức rơi vào cuộc
suy thoái lớn nhất trong vòng 12 năm qua, kinh tế Anh cũng lâm vào suy thoái, theo
dự báo năm 2009 sẽ chịu mức giảm mạnh nhất kể từ gần hai thập niên qua, số ngƣời
thất nghiệp có thể lên tới 3 triệu ngƣời vào năm 2010. Số liệu thống kê của Italia cho
biết nền kinh tế nƣớc này rơi vào cuộc suy thoái nặng nề nhất kể từ năm 1992.
Khủng hoảng tài chính cũng tràn qua Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Braxin,… là
những nơi đƣợc dự đoán là ít chịu tác động nhất. Kinh tế Trung Quốc vốn đƣợc coi
là một động lực tăng trƣởng của kinh tế thế giới, sau nhiều năm tăng trƣởng ở mức
hai con số, đã giảm chỉ còn 9% trong quý III/2008 Ngân hàng thế giới cho biết tăng
trƣởng GDP của Trung Quốc chỉ đạt 7,5% trong năm 2008, mức thấp nhất trong
vòng 19 năm qua. Tốc độ tăng trƣởng công nghiệp đã giảm sút nghiêm trọng từ
16% trong tháng 6 xuống còn 8,2% trong tháng 10/2008, thấp nhất trong 7 năm qua.
Thân Thị Xuân - Nhật 6 K44H
18
Khoá luận tốt nghiệp
Xuất khẩu suy giảm do khủng hoảng tài chính, theo dự báo sẽ còn có khó khăn hơn
trong năm 2009, kéo theo sự sụt giảm nhiều ngành sản xuất khác và làm tăng tỷ lệ
thất nghiệp.
Khủng hoảng tài chính tại Nga đang ngày càng trầm trọng khi đồng Rup mất
giá mạnh, Chính phủ đã phải chi 58 tỷ USD để giữ giá đồng tiền này. Trong khi đó,
nguy cơ thâm hụt ngân sách của Nga rất lớn và kinh tế khó khăn, bởi thời kỳ thịnh
vƣợng nhờ giá dầu lửa cao đã chấm dứt. Nền kinh tế Nga vốn ổn định và mạnh lên
trong thời gian khá dài nhờ xuất khẩu dầu lửa đƣợc giá, nhƣng hiện đứng trƣớc
nhiều khó khăn do khủng hoảng tài chính và giá dầu thế giới giảm mạnh, xuống
dƣới 50USD/ thùng- đây là mức thấp nhất trong 4 năm qua. Nga đang thực hiện các
giải pháp nhằm thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng hiện nay.
Chính phủ dự định chi khoảng 190 tỷ USD nhằm hỗ trợ hệ thống tài chính và ngân
hàng, các ngành kinh tế then chốt cũng nhƣ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Hầu hết các nền kinh tế lớn nhƣ Đông- Nam á đều định hƣớng xuất khẩu và
phụ thuộc nhiều vào thƣơng mại quốc tế và đầu tƣ nƣớc ngoài. Do vậy, dù ở mức độ
khác nhau các nƣớc trong khu vực Đông- Nam á dễ bị tác động của xu hƣớng giảm
sút thƣơng mại và đầu tƣ trên thế giới hiện nay. Trƣớc mắt, lĩnh vực xuất khẩu, thị
trƣờng chứng khoán và thị trƣờng tiền tệ khu vực đang chịu ảnh hƣởng mạnh của
cuốc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Singapore là quốc gia đầu tiên ở Đông- Nam á
rơi vào suy thoái năm 2008, ba lĩnh vực trụ cột của kinh tế nƣớc này là xuất khẩu
hàng công nghiệp chế tạo, dịch vụ tài chính – ngân hàng và du lịch đều bị ảnh
hƣởng nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, dự báo tốc độ tăng trƣởng
kinh tế cả năm khoảng 3%. Chính phủ đã phải tạm thời đình chỉ kế hoạch từng bƣớc
tăng giá đồng nội tệ SGD. Các biện pháp kích thích cả gói có thể làm cho thâm hụt
ngân sách năm 2008 tăng lên gấp ba lần. Kinh tế Hàn Quốc cũng báo động đỏ khi
đồng Won mất giá hơn 40% kể từ đầu năm và hiện ở mức thấp nhất kể từ cuộc
khủng hoảng tài chính năm 2007. Chính phủ Hàn Quốc đã phải thực hiện một số
biện pháp khẩn cấp nhƣ cắt giảm lãi suất và bơm tiền vào hệ thống tài chính. Thái
Lan cũng có những biểu hiện của suy thoái kinh tế. Trong bối cảnh đó Pakistan là
nƣớc châu Á đầu tiên kêu gọi IMF trợ giúp 6,5 tỷ USD.
Tình trạng đóng băng của hệ thống tài chính tiếp tục dẫn đến sự giảm sút
trong các hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, cũng nhƣ chi tiêu của ngƣời dân .
Hệ quả của tình trạng trên là nhiều doanh nghiệp phá sản và đẩy tỷ lệ thất nghiệp tại
nhiều quốc gia tăng cao, chỉ số lòng tin của ngƣời tiêu dùng rơi xuống mức thấp
Thân Thị Xuân - Nhật 6 K44H
19
- Xem thêm -