-1-
LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời đại ngày nay, xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế ngày càng gia tăng
khiến cho nền kinh tế của mỗi quốc gia ngày càng có quan hệ chặt chẽ với nền kinh tế
thế giới. Đặc biệt là khi Việt Nam đã là thành viên chính thức của tổ chức Thương Mại
Thế Giới (WTO) sẽ mang đến cho các doanh nghiệp Việt Nam một môi trường kinh
doanh với nhiều cơ hội và thử thách mới.
Chủ trương của Đảng và Nhà nước là làm bạn với tất cả các nước, từng bước làm
cho nền kinh tế xã hội có nhiều biến chuyển tốt đẹp. Những thay đổi đó đã đưa nền
kinh tế Việt Nam hòa mình vào xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới. Trước
thực trạng của nền kinh tế như hiện nay sẽ là đòi hỏi tất yếu đối với các doanh nghiệp
Việt Nam phải không ngừng khẳng định vị thế của mình trên thương trường quốc tế
thông qua hoạt động xuất khẩu.
Xuất khẩu đã được thừa nhận là một hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế
đối ngoại, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Việc mở rộng xuất khẩu để
tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước là một mục tiêu quan trọng của chính sách
thương mại. Nhà nước đã và đang thực hiện các biện pháp thúc đẩy các ngành kinh tế
theo hướng xuất khẩu, khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng xuất khẩu để giải
quyết công ăn việc làm và thu được nhiều lợi nhuận từ xuất khẩu.
Hưởng ứng theo đường lối chính sách của Nhà Nước, Công ty LD TNHH Cát
phú đã ra đời và hoạt động với chức năng trồng và chế biến nguyên liệu giấy xuất
khẩu. Hiệu quả của công tác xuất khẩu chính là lợi nhuận chủ yếu của Công ty trong
suốt thời gian qua.
Mặt khác, trước tình hình nền kinh tế ngày càng phát triển thì việc làm sao để
đứng vững và phát triển trong môi trường cạnh tranh gay gắt là điều mà bất kỳ doanh
nghiệp nào cũng mong muốn. Đối với Công ty LD TNHH Cát Phú, doanh thu chủ yếu
là xuất khẩu thì việc nâng cao hiệu quả xuất khẩu là chiến lược luôn đặt lên hàng đầu.
Thực tế cho thấy lợi nhuận xuất khẩu phụ thuộc rất nhiều vào việc Công ty chuẩn bị và
tiến hành công tác xuất khẩu như thế nào. Hơn nữa khi xuất khẩu một lô hàng, Công ty
-2có thể sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn cũng như thuận lợi trong công tác chuẩn bị hàng
hóa, các thủ tục xuất khẩu, vấn đề giao hàng, thanh toán… và phụ thuộc rất nhiều vào
biến động thị trường. Chính điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận xuất khẩu
dăm gỗ của Công ty LD TNHH Cát Phú. Nên vấn đề đặt ra là phải nhận định được các
nhân tố ảnh hưởng và nắm bắt được mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đối với lợi
nhuận xuất khẩu, từ đó sẽ có những biện pháp để gia tăng lợi nhuận xuất khẩu dăm gỗ
và có thể nâng cao hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
Xuất phát từ lý do trên và được sự đồng ý của giáo viên hướng dẫn, em chọn đề
tài: “Một số biện pháp nhằm tăng lợi nhuận xuất khẩu dăm gỗ tại Công ty LD
TNHH Cát Phú”
Mục tiêu nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu thực tế hoạt động xuất khẩu tại Công ty LD TNHH Cát Phú, để
nhận thấy được những nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận. Qua đó sẽ phân tích tác động
một số nhân tố để thấy được mức độ ảnh hưởng của chúng đến lợi nhuận xuất khẩu
dăm gỗ. Từ đó sẽ có một số biện pháp nhằm gia tăng lợi nhuận xuất khẩu dăm gỗ nói
riêng và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty nói chung.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu và phân tích một số nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận
xuất khẩu dăm gỗ tại Công ty LD TNHH Cát Phú trong mối liên hệ chặt chẽ với môi
trường hoạt động của nó. Thông tin tư liệu dùng để nghiên cứu phân tích chủ yếu là số
liệu trong giai đoạn 2004 – 2006.
Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng một số phương pháp sau:
− Phương pháp khảo sát tiếp cận thực tế.
− Phương pháp phân tích.
− Phương pháp thống kê số liệu.
− Phương pháp tổng hợp.
-3 Kết cấu đề tài:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm 3 chương với những nội dung sau:
Chương I: Cơ sở lý luận.
Chương II: Phân tích một số nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận xuất khẩu dăm gỗ
của Công ty LD TNHH Cát Phú.
Chương III: Một số biện pháp nhằm tăng lợi nhuận xuất khẩu dăm gỗ tại Công
ty LD TNHH Cát Phú.
Do điều kiện thời gian thực tập và kiến thức còn hạn chế nên đề tài không tránh
khỏi những sai sót. Kính mong nhận được các ý kiến đóng góp của quý thầy cô và ban
lãnh đạo cùng toàn thể các anh, chị trong Công ty. Qua đây, em xin chân thành cám ơn
cô giáo Nguyễn Thị Trâm Anh, cùng ban lãnh đạo và toàn thể anh chị cán bộ Công ty
đã tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi để em có thể hoàn thành đề tài này.
Nha Trang, ngày 25 tháng11 năm 2007
Sinh viên thực hiện
Hồ Thị Như Lan
-4-
CHƯƠNG I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN
-51.1. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG NGOẠI THƯƠNG
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm ngoại thương
1.1.1.1
Khái niệm:
Bất cứ quốc gia nào muốn phát triển kinh tế không chỉ dựa vào sản xuất trong
nước mà còn giao dịch quan hệ với các nước khác. Do khác nhau về điều kiện tự
nhiên, như tài nguyên, khí hậu… Nếu chỉ dựa vào nền sản xuất trong nước không thể
cung cấp đủ hàng hoá, dịch vụ đáp ứng nhu cầu sản xuất tiêu dùng của nền kinh tế mà
phải nhập những mặt hàng cần thiết như nguyên liệu, vật tư, máy móc, thiết bị, hàng
tiêu dùng thiết yếu mà trong nước không sản xuất được, hoặc sản xuất được nhưng giá
cao hơn. Ngược lại, trên cơ sở khai thác tiềm năng và những lợi thế vốn có, nền kinh tế
ngoài việc phục vụ nhu cầu trong nước, còn có thể tạo nên những thặng dư có thể xuất
khẩu ra các nước khác, góp phần tăng ngoại tệ cho đất nước để nhập khẩu các thứ còn
thiếu và để trả nợ. Như vậy, do yêu cầu phát triển kinh tế mà phát sinh nhu cầu trao
đổi, giao dịch hàng hoá giữa các nước với nhau, hay nói cách khác, hoạt động ngoại
thương là yêu cầu khách quan trong nền kinh tế.
Ngoại thương là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các nước thông qua mua bán,
sự trao đổi đó là hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau
về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của các quốc gia.
1.1.1.2 Đặc điểm:
Hoạt động ngoại thương có một số đặc điểm sau:
+ Thị trường là nước ngoài và chủ thể mua bán là khách hàng, bạn hàng và các tổ
chức kinh tế nước ngoài. Khi đóng vai trò là người bán, doanh nghiệp có vai trò giao
dịch bán hàng cho cá nhân, hãng thương mại hoặc hãng nhập khẩu, hãng môi giới.
+ Các doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu phải cạnh tranh gây gắt với các
đối thủ về chất lượng, giá cả, phương thức mua bán. Khi xuất khẩu hàng hoá ra một
nước nào đó. Doanh nghiệp sẽ gặp đối thủ cạnh tranh từ nhiều nước khác nhau cùng
hoạt động trên thị trường, để đảm bảo hiệu quả đòi hỏi doanh nghiệp phải nâng cao
cạnh tranh.
-6+ Việc thanh toán giữa các tổ chức kinh tế giữa các nước phải dùng bằng ngoại tệ
có trị giá chuyển đổi. Chính vì vậy, sự thay đổi giữa giá trị hối đoái, sự biến động của
thị trường tiền tệ quốc tế có ảnh hưởng rất mạnh đến hoạt động xuất nhập khẩu.
Hoạt động thương mại quốc tế không chỉ ảnh hưởng của các quan hệ kinh tế mà
còn chịu ảnh hưởng rất mạnh của các quan hệ chính trị, xã hội quốc tế, chính sách
khuyến khích xuất khẩu và chính sách bảo hộ sản xuất trong nước, các chính sách tác
động đến hoạt động thương mại quốc tế của doanh nghiệp.
1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của hoạt động thương mại.
1.1.2.1 Chức năng:
Hoạt động thương mại nói chung có hai chức năng cơ bản:
- Là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội có chức năng tạo vốn cho quá
trình mở rộng vốn đầu tư trong nước, chuyển hoá giá trị sử dụng làm thay đổi cơ cấu
vật chất của tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc nội, thích ứng với nhu cầu tiêu
dùng, tích luỹ góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế bằng việc tạo ra môi trường
kinh doanh thuận lợi cho việc sản xuất kinh doanh.
- Là hoạt kinh tế đảm bảo nhận khâu lưu thông, chính là hoạt động xuất nhập
khẩu của doanh nghiệp. Doanh nghiệp tiến hành hoạt động ngoại thương thông qua
các hình thức sau:
+ Mua thiết bị, máy móc, nguyên liệu, bán thành phẩm, phụ tùng giấy phép sản
xuất từ nước ngoài.
+ Bán thành phẩm của các doanh nghiệp ra thị trường nước ngoài bằng cách:
*
Sản xuất trong nước bán ra thị trường nước ngoài.
*
Sản xuất trong nước bán ra thị trường trong nước và xây dựng nhà máy ở
nước ngoài để sản xuất và bán thị trường nước ngoài thông qua hình thức xí
nghiệp liên doanh với nước ngoài, 100% vốn nước ngoài.
+ Bán giấy phép sản xuất, nhãn hiệu hàng hoá cho các hãng nước ngoài.
-71.1.2.2 Nhiệm vụ:
- Tạo ra nguồn vốn nước ngoài cần thiết để nhập vật tư, kỹ thuật, xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuật, thực hiện công nghiệp hoá, phục vụ nhu cầu tái sản xuất.
- Thông qua công tác ngoại thương phát huy, sử dụng tốt hơn nguồn lao động và
tài nguyên của đất nước, tăng giá trị ngày công lao động, tăng thu nhập quốc dân.
- Tạo nguồn vốn để nhập khẩu vật tư phục vụ cho việc sản xuất hàng tiêu dùng
và hàng tiêu dùng thiết yếu mà trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất chưa đủ
nhằm phục vụ đời sống nhân dân.
- Ngoại thương phải phục vụ công cuộc xây dựng kinh tế kết hợp với quốc
phòng, phục vụ tăng cường củng cố quốc phòng anh ninh tổ quốc.
- Ngoại thương phải phục vụ đường lối chính trị đối ngoại giữa các Đảng và Nhà
nước, làm cơ sở để tăng cường, mở rộng quan hệ hợp tác, tương trợ với các nước.
- Đảm bảo và nâng cao hiệu quả kinh tế của hoạt động thương mại trong doanh
nghiệp, góp phần giải quyết những vấn đề quan trọng như công ăn, việc làm, công
nghiệp.
- Thực hiện theo đúng pháp luật và chính sách của Nhà nước về hoạt động xuất
nhập khẩu.
1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ XUẤT KHẨU
1.2.1. Khái niệm và ý nghĩa của xuất khẩu:
1.2.1.1 Khái niệm:
Xuất khẩu hàng hoá là một hoạt động mà các tổ chức kinh doanh nước ta bán
hàng hoá cho nước ngoài theo các hợp đồng đã ký kết.
Nội dung của xuất khẩu phải bao gồm ba đối tượng:
- Người mua: Khách hàng nước ngoài.
- Người bán: Tổ chức kinh doanh trực tiếp hoặc là những cá nhân đơn, vị ủy thác
xuất khẩu.
- Hàng hoá xuất khẩu.
-81.2.1.2 Ý nghĩa:
Hoạt động kinh doanh xuất khẩu có vai trò quan trọng trong nền kinh tế đất nước
nói riêng và cả thế giới nói chung. Hoạt động xuất khẩu mang lại hiệu quả kinh tế cũng
như khả năng gây thiệt hại vì phải đối đầu với nhiều quốc gia trên thế giới. Xuất khẩu
phát triển làm tăng sự tăng trưởng cho nền kinh tế, điều này được chứng minh rõ nhất
ở các nước NIC, Đông Nam Á. Các nước như Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore, có thu
nhập trên đầu người chỉ bằng 1/4 đến 1/3 thu nhập đầu người của các quốc gia giàu có,
bằng cách tiết kiệm một phần lớn thu nhập quốc dân của mình và hướng chúng vào
ngành công nghiệp, công nghiệp xuất khẩu đem lại lợi nhuận cao, các nước này đã
vượt lên thành những nước có thu nhập cao vào cuối năm 1980.
Hoạt động xuất khẩu có định hướng cho phép các nước tận dụng được hiệu quả
kinh tế theo qui mô và những lợi ích của việc chuyên môn hoá quốc tế. Bởi vậy, nó
làm tăng công ăn việc làm, sử dụng các nguồn lực trong nước có hiệu quả, năng suất
được tăng lên nhanh chóng, tăng mức sống của người lao động.
Hoạt động xuất khẩu có vai trò mở rộng thị trường, nối liền các quan hệ giữa thị
trường trong nước và thế giới. Đây không chỉ đơn thuần là lưu thông hàng hoá trong
nước và nước ngoài mà còn có ý nghĩa phân công lao động quốc tế, hiểu phong tục,
tập quán, văn hoá cũng như con người các nước.
Ngoài ra hoạt động xuất khẩu về kinh tế phát triển sẽ kéo theo các hoạt động và
quan hệ chính trị có khả năng phát sinh tốt hơn. Trong quá trình quan hệ trao đổi, mua
bán các đối tác tìm hiểu phong tục, tập quán, nếp sống văn hoá của mỗi bên để hổ trợ
vào quá trình kinh doanh. Do vậy các mối quan hệ chính trị có cơ hội phát triển tốt đẹp
hơn nhằm phục vụ trở lại kinh tế phát triển.
Trên đây ta thấy rằng những mặt tích cực mà xuất khẩu mang lại, nếu như sự
quan tâm chỉ đạo kể cả công tác thực hiện của các cán bộ, các ngành được thực hiện
nghiêm túc, công tác quản lý lỏng lẻo, thì hoạt động xuất khẩu sẽ kìm hãm nền kinh tế
đất nước cũng như chính trị của một quốc gia.
Do vậy, hoạt động xuất khẩu sẽ là nhân tố tích cực trong quá trình phát triển nền
kinh tế đất nước như tất cả doanh nghiệp, các bộ, các ngành quản lý thực hiện nghiêm
túc chức năng của mình phải có sự kết hợp tích cực giữa các đơn vị sản xuất kinh
doanh và nhà nước.
-91.2.2.
Những mặt thuận lợi và hạn chế của xuất khẩu:
1.2.2.1 Những mặt thuận lợi:
- Phát huy tính năng động sáng tạo của mọi người, mọi đơn vị ,mọi tổ chức, mọi
địa phương trong xã hội. Nó cho phép tận dụng mọi nguồn lực của đất nước vào sản
xuất. Vì vậy, phát hiện chính xác mặt hàng xuất khẩu có hiệu quả có ý nghĩa to lớn.
- Xuất khẩu cho phép mở rộng thị trường, tạo ra một đầu ra lớn như vậy sẽ khích
thích sản xuất phát triển.
- Nhờ xuất khẩu chúng ta mới có nguồn ngoại tệ để nhập máy móc thiết bị công
nghệ tiên tiến của nước ngoài. Nâng cao hiệu quả kinh tế trong hoạt động xuất khẩu là
tiền đề tiên tiến công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Xuất khẩu tăng cường sự liên hệ chặt chẽ giữa khoa học và sản xuất thúc đẩy
các doanh nghiệp cạnh tranh thường xuyên thay đổi máy móc thiết bị, áp dụng công
nghệ mới vào sản xuất.
1.2.2.2
Những hạn chế trong xuất khẩu :
- Vì tồn tại sự cạnh tranh , tất yếu dẫn đến rối ren trong mua bán. Nếu không có
sự kiểm soát chặt chẽ, kịp thời sẽ gây ra hậu quả về kinh tế trong quan hệ với nước
ngoài… cũng dễ có điều phát sinh.
- Vì lợi ích trước mắt một số doanh nghiệp đã nhập vào Việt Nam một số máy
móc thiết bị cũ, công nghệ lạc hậu không thích hợp với thực tế đất nước dẫn đến làm
ăn thua lỗ gây thiệt hại về kinh tế.
Tất cả những mặt thuận lợi và hạn chế nói trên buộc chúng ta phải xác định , tính
toán các chỉ tiêu về hiệu quả kinh tế hoạt động xuất khẩu một cách liên tục, chính xác
và toàn diện , bảo đảm kết hợp hài hoà giữa lợi ích xã hội, lợi ích tập thể, lợi cá nhân.
1.2.3.
Vai trò của xuất khẩu đối với sự phát triển kinh tế
Xuất khẩu đã được thừa nhận là hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối
ngoại, là phương tiện thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá, hiện
-10đại hoá đất nước. Do đó xuất khẩu có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế,
thể hiện ở các mặt sau:
- Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hoá đất nước.
- Xuất khẩu thúc đẩy phát triển sản xuất.
Cơ cấu sản xuất, tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ.
Đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại. Sự dịch chuyển cơ
cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển của kinh
tế thế giới là tất yếu đối với một quốc gia.
Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và dịch chuyển
cơ cấu kinh tế:
Một là: Xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất và phát
triển, sản xuất về cơ bản chưa đủ tiêu dùng nếu chỉ thụ động chờ ở sự “thừa ra” của
sản xuất thì xuất khẩu vẫn cứ nhỏ bé, tăng trưởng chậm chạp.
Hai là: Coi thị trường đặc biệt là thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ
chức sản xuất. Quan điểm thứ hai chính là xuất phát từ nhu cầu thị trường thế giới để
tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
thúc đẩy sản xuất, phát triển. Sự tác động này đến sản xuất thể hiện ở:
- Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất
phát triển ổn định.
- Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất,
nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
- Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế – kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao
năng lực sản xuất trong nước.
- Thông qua xuất khẩu, hàng hoá của một quốc gia sẽ tham gia cạnh tranh trên
thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi phải tổ chức lại
sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi được với thị trường.
- Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới và hoàn thiện
công việc quản trị sản xuất kinh doanh.
- Xuất khẩu giải quyết việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Tác động của
xuất khẩu đến đời sống bao gồm rất nhiều mặt. Trước hết sản xuất hàng xuất khẩu là
nơi thu hút hàng triệu lao động và có thu nhập không thấp. Xuất khẩu còn tạo ra nguồn
-11vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống, đáp ứng ngày càng
phong phú hơn nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
1.3. KHÁI NIỆM LỢI NHUẬN VÀ CÁC CHỈ TIÊU VỀ LỢI NHUẬN
1.3.1. Khái niệm lợi nhuận:
Trong mỗi thời kỳ khác nhau người ta có những khái niệm khác nhau và từ đó có
những cách tính khác nhau về lợi nhuận. Ngày nay, lợi nhuận được hiểu một cách đơn giản
là một khoản tiền dôi ra giữa tổng thu và tổng chi trong hoạt động của doanh nghiệp hoặc
có thể hiểu là phần dôi ra của một hoạt động sau khi đã trừ đi mọi chi phí của hoạt động đó.
Lợi nhuận của doanh nghiệp có nhiều loại khác nhau và ứng với mỗi loại sẽ có
mỗi cách tính khác nhau.
Theo chế độ kế toán thì lợi nhuận của doanh nghiệp là kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp (còn gọi là lợi tức của doanh nghiệp) bao gồm lợi tức hoạt động kinh
doanh và lợi tức hoạt động khác.
•
Lợi tức hoạt động kinh doanh là khoản chênh lệch giữa tổng doanh thu bán sản
phẩm, hàng hoá, dịch vụ trừ đi giá thành toàn bộ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ đã tiêu
thụ và thuế theo quy định của pháp luật (trừ thuế lợi tức)
•
Lợi tức hoạt động khác bao gồm:
- Lợi tức hoạt động tài chính là số thu lớn hơn chi của các hoạt động tài chính,
bao gồm các hoạt động cho thuê tài sản, mua bán trái phiếu, chứng khoán, mua bán
ngoại tệ, lãi tiền gửi ngân hàng thuộc vốn kinh doanh, lãi cho vay thuộc các nguồn vốn
và quỹ, lãi cổ phần và lãi do góp vốn liên doanh, hoàn nhập số dư khoản dự phòng
giảm giá đầu tư chứng khoán ngắn hạn, dài hạn.
- Lợi tức của hoạt động bất thường là các khoản thu nhập bất thường lớn hơn các
chi phí bất thường, bao gồm các khoản phải trả không có chủ nợ, thu hồi lại các khoản
nợ khó đòi đã được duyệt bỏ (đang được theo dõi ngoài bảng cân đối kế toán), các
khoản vật tư tài sản thừa sau khi đã bù trừ hao hụt, mất mát các vật tư cùng loại, chênh
lệch thanh lý, nhượng bán tài sản (là số thu về nhượng bán trừ giá trị còn lại trên sổ
sách kế toán của tài sản và các chi phí nhượng bán, thanh lý), các khoản lợi tức năm
-12trước phát hiện năm nay; số dư các khoản hoàn nhập dự phòng, giảm giá hàng tồn kho,
phải thu khó đòi, khoản tiền trích bảo hành sản phẩm còn thừa khi hết hạn bảo hành.
1.3.2. Các chỉ tiêu về lợi nhuận:
1.3.2.1 Tổng mức lợi nhuận:
Đây là chỉ tiêu tuyệt đối phản ảnh lên kết quả kinh doanh cuối cùng của doanh
nghiệp, nói lên quy mô của kết quả và phản ảnh một phần hiệu quả hoạt động doanh
nghiệp.
Tổng mức lợi nhuận của doanh nghiệp bao gồm lợi nhuận từ hoạt động kinh
doanh và lợi nhuận từ hoạt động khác.
Tổng LNtrước thuế = LNthuần + LNT/C + LNBT
LNthuần: Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh.
LNT/C: Lợi nhuận từ hoạt động tài chính.
LNBT: Lợi nhuận bất thường.
LNthuần = DTthuần – Giá vốn hàng bán – Chi phí BH – Chi phí quản lý DN
Lãi gộp (Lg) = DTthuần – Giá vốn hàng bán
LNthuần = Lg – Chi phí BH – Chi phí quản lý DN
LNT/C = DTT/C – TcpT/C
DTT/C: Thu nhập từ hoạt động tài chính.
TcpT/C: Chi phí từ hoạt động tài chính.
LNBT = DTBT - TcpBT
DTBT: Thu nhập bất thường.
TcpBT: Chi phí bất thường.
LNsau thuế = LNtrước thuế – Thuế thu nhập
Trong các doanh nghiệp, lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh là bộ phận chủ yếu
quyết định toàn bộ lợi nhuận của doanh nghiệp.
1.3.2.2 Tỷ suất lợi nhuận:
Là chỉ tiêu tương đối phản ánh mối quan hệ giữa lợi nhuận và doanh thu, phản
ảnh một phần hiệu quả trong hoạt động của doanh nghiệp.
-13PLN: Tỷ suất lợi nhuận
PLg: Tỷ suất lãi gộp
PLN
=
TLN
TD
T
x 100
PLN thuần =
LNthuần
LN
thuần
100
xx100
DTthuần
DT
thuần
PLNj =
LNthuần
100
xx100
DTthuần
DT
thuần
j: loại sản phẩm hàng hoá
PLg =
Lg
x 100
DT
PLNthuần = PLg – PcpBH + Quản lý DN
PcpBH + Quản lý DN: Tỷ suất chi phí bán hàng và chi phí quản lý DN.
PLN th = 100% - PCP GV - PCP BH,QLDN
1.3.3. Phân tích chung lợi nhuận của doanh nghiệp:
Phân tích chung lợi nhuận của doanh nghiệp có thể tiến hành phân tích trên số
tuyệt đối (tổng mức lợi nhuận) cũng như trên các chỉ tiêu tương đối (tỷ suất lợi nhuận).
1.3.3.1 Phân tích dựa vào kết quả hoạt động kinh doanh:
Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh ở mỗi thời kỳ được biểu hiện qua các loại
báo cáo khác nhau. Theo chế độ kế toán trước đây kết quả hoạt động của doanh nghiệp
được biểu hiện qua các hoạt động kinh doanh chính, hoạt động kinh doanh phụ, hoạt
động liên doanh, hoạt động tài chính và hoạt động khác. Theo chế độ kế toán áp dụng
từ ngày 01/01/1996 (có bổ sung và sửa đổi so với ban hành lần đầu) thì kết quả hoạt
động của doanh nghiệp biểu hiện qua hoạt động kinh doanh và hoạt động khác bao
gồm hoạt động tài chính và hoạt động bất thường. Khi phân tích lợi nhuận của doanh
nghiệp, trước tiên phải dựa vào báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Báo cáo này
được biểu hiện qua mẫu số B02 – DN, ban hành theo quyết định 167/2000/QĐ – BTC
ngày 25 tháng 10 năm 2000 của Bộ Tài chính, áp dụng từ ngày 01/01/2001.
-14Khi phân tích chung lợi nhuận doanh nghiệp thường sử dụng phương pháp so
sánh và được tiến hành theo các nội dung sau:
- So sánh tổng mức lợi nhuận
TLN = TLN1 – TLN0
% Thực hiện TLN =
TLN1
TLN0
x 100%
LNth = LNth1 - LNth0
% Thực hiện LN thuần =
LNth1
LNth0
x 100%
- Xác định cơ cấu lợi nhuận của doanh nghiệp, đặc biệt lưu ý đến tỷ trọng lợi
nhuận hoạt động kinh doanh trong tổng mức lợi nhuận của doanh nghiệp và đánh giá
sự biến động tỷ trọng này qua các thời kỳ. Trong khi phân tích cơ cấu có thể lưu ý đến
cơ cấu lợi nhuận của từng mặt hàng trong tổng lợi nhuận hoạt động kinh doanh.
- Xác định tỷ suất lợi nhuận chung của doanh nghiệp, đặc biệt là từ hoạt động
kinh doanh và đánh giá sự biến động của nó qua các kỳ.
1.3.3.2 Phân tích các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh qua các thời kỳ
Phân tích chung có thể so sánh các chỉ tiêu tương đối về lợi nhuận và hiệu quả
kinh doanh qua nhiều thời kỳ khác nhau, ví dụ qua nhiều năm khác nhau để thấy
hướng phát triển của lợi nhuận và hiệu quả kinh doanh chúng ta có thể dùng bảng để
phân tích.
Thông qua bảng phân tích, chúng ta có thể đánh giá sự biến động của lợi nhuận
và hiệu quả kinh doanh qua các thời kỳ theo các nội dung sau:
- Xem xét tốc độ tăng của lợi nhuận và doanh thu qua các thời kỳ để xác định
hướng phát triển của kinh doanh và từ đó xác định sự thay đổi của tỷ suất lợi nhuận
trong doanh thu. Tuy nhiên tỷ suất này tăng hay giảm chưa đánh giá hiệu quả kinh
doanh. Cần xem xét các chỉ tiêu sức sản xuất của đồng vốn, chi phí, năng suất lao
động để xác định khả năng sử dụng các yếu tố trên vào hoạt động kinh doanh, từ đó
dẫn đến khả năng sinh lời của các yếu tố này.
-15- Trong các chỉ tiêu trên thì chỉ tiêu LN/VKD và đặc biệt là chỉ tiêu LN/VCSH nói
lên hiệu quả kinh doanh tổng hợp. Nếu các chỉ tiêu này có biến động qua các thời kỳ
cho chúng ta biết hiệu quả kinh doanh có thay đổi. Xác định hiệu quả kinh doanh bình
quân qua các thời kỳ và những thời kỳ có tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu đặc
biệt thay đổi như đạt mức thấp nhất hay cao nhất. Hãy tìm ra những nguyên nhân cụ
thể trong năm để rút ra những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn thành công hay thất bại
để không ngừng nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp.
- Để đánh giá một cách chính xác hiệu quả trong hoạt động kinh doanh, cần xác
định lợi nhuận thực và tỷ suất lợi nhuận thực của doanh nghiệp. Tổng lợi nhuận mà
doanh nghiệp thu được qua các thời kỳ phải trừ yếu tố lạm phát. Tỷ suất lợi nhuận trên
vốn sở hữu cũng phải xác định thực chất doanh nghiệp có lãi thực như vậy hay không,
có thế xác định bằng cách:
PLN/Vcshthực = PLN/Vcsh - PLãi NH
PLãi NH: lãi suất ngân hàng
Lãi suất ngân hàng có thể coi như giá vốn bình quân trên thị trường, có thể đại
diện cho hiệu quả sử dụng vốn bình quân trên thị trường. Nếu doanh nghiệp đạt tỷ suất
lợi nhuận cao hơn lãi suất ngân hàng coi như hoạt động có hiệu quả, nếu ngược lại coi
như thuộc loại doanh nghiệp đạt hiệu quả thấp.
Trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát, để đánh giá tỷ suất lợi nhuận thực có thể
lấy mức lạm phát làm tiêu thức so sánh. Ta có:
PLN/Vcsh thực = PLN/Vcsh – Tốc độ lạm phát
Việc so sánh này giúp ta thấy được thực chất hiệu quả của đồng vốn trong kinh
doanh, đặc biệt khi so sánh qua các thời kỳ.
1.4.
KHÁI NIỆM LỢI NHUẬN XUẤT KHẨU VÀ PHÂN TÍCH NHÂN TỐ
ẢNH HƯỞNG ĐẾN LỢI NHUẬN KINH DOANH XUẤT KHẨU.
1.4.1. Khái niệm về lợi nhuận kinh doanh xuất nhập khẩu:
Trong doanh nghiệp xuất nhập khẩu thực hiện quá trình mua bán hàng hoá với
nước ngoài bao gồm mua và bán hàng hóa xuất khẩu, mua và bán hàng nhập khẩu.
Quá trình này nằm trong khâu lưu thông phân phối và chịu sự chi phối của các quy
luật thị trường.
-16Lợi nhuận trong kinh doanh xuất nhập khẩu thực chất là phần dôi ra trong hoạt
động kinh doanh sau khi đã trừ đi toàn bộ chi phí. Tuy nhiên về lí luận, phần dôi ra đó
bắt nguồn từ đâu? Tại sao các doanh nghiệp xuất nhập khẩu chỉ chuyên mua và bán mà
vẫn có thể tạo ra phần lợi nhuận đó, được nhận và sử dụng nó một cách chính đáng?
Theo C.Mark thì quá trình lưu thông hàng hoá gồm 2 bộ phận: lưu thông thuần
tuý và lưu thông bổ sung và cùng với nó có chi phí lưu thông thuần tuý và chi phí lưu
thông bổ sung.
Trong khâu lưu thông thuần tuý, các chi phí bỏ ra chỉ đơn thuần chuyển hoá hình
thái giá trị của hàng hoá, không tạo ra giá trị và lao động, không mang tích chất sản
xuất. Để bù đắp các chi phí này, khâu sản xuất phải chuyển một phần giá trị thặng dư
của mình cho khâu lưu thông vì đã thực hiện việc chuyển hoá hàng hoá thành tiền tệ mà
đáng lẽ ra người sản xuất phải thực hiện. Phần giá trị thặng dư này không chỉ bù đắp
được chi phí đã bỏ ra trong lưu thông thuần tuý mà còn mang lại một phần lợi nhuận.
Trong khâu lưu thông bổ sung, các chi phí bỏ ra để nhằm tiếp tục và hoàn thiện
quá trình sản xuất trong khâu lưu thông, làm cho sản phẩm thích ứng với người tiêu
dùng và đưa đến tay người sử dụng. Chi phí lưu thông bổ sung làm tăng thêm giá trị và
một phần sử dụng hàng hoá. Lao động trong khâu lưu thông bổ sung là lao động mang
tính chất sản xuất và lao động đó tạo ra giá trị (một phần giá trị sử dụng) của sản phẩm.
Theo C.Mark thì lao động nào tạo ra giá trị, giá trị sử dụng của sản phẩm, lao động đó
tạo ra giá trị thặng dư, tức tạo ra giá trị lợi nhuận trong khâu lưu thông hàng hoá.
Như vậy, lợi nhuận thương mại (kinh doanh xuất nhập khẩu) là phần dôi ra của
giá trị thặng dư do sản xuất nhường lại cho lưu thông và toàn bộ giá trị thặng dư do lao
động có tính chất sản xuất trong khâu lưu thông tạo ra.
Từ những phân tích trên, chúng ta thấy rõ nguồn gốc của lợi nhuận trong kinh
doanh thương mại (kinh doanh xuất nhập khẩu) và việc các đơn vị kinh doanh này
hưởng lợi nhuận là hoàn toàn chính đáng.
Ngày nay trong kinh tế thị trường, tuy nhà kinh doanh chỉ quan tâm đến lợi
nhuận thu được là bao nhiêu, nhưng những lí luận trên đây vẫn còn giá trị của nó. Nhà
kinh doanh trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá phải thực hiện một nghĩa vụ của nền
kinh tế là biến hàng hoá thành tiền tệ, đưa sản phẩm hàng hoá đúng yêu cầu, phù hợp
với thị hiếu đến tay người tiêu dùng. Họ được hưởng lợi nhuận do thực hiện nghĩa vụ
đó và càng làm tốt lợi nhuận thu được càng nhiều.
-171.4.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận kinh doanh xuất nhập khẩu
Nghiên cứu những nhân tố ảnh hưởng tới mức lợi nhuận ngoại thương cho phép
ta tìm hiểu những nguyên nhân khách quan và chủ quan để tìm kiếm các biện pháp để
tăng lợi nhuận kinh doanh xuất nhập khẩu. Những nhân tố sau đây thường ảnh hưởng
trực tiếp tới lợi nhuận ngoại thương:
Mức lưu chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu:
Mức lưu chuyển hàng hoá (LCHH) trong nền kinh tế quốc dân là sự chuyển giao
hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng thông qua mua bán gồm:
+ Vận động hàng hoá từ sản xuất đến tiêu dùng.
+ Giao nhận hàng hoá giữa các đơn vị kinh tế.
+ Mua bán hàng hoá.
Nó là một phạm trù gắn liền với lưu thông hàng hoá có 3 khâu: mua, dự trữ, bán.
LCHH xuất nhập khẩu trong nền kinh tế quốc dân là sự chuyển giao hàng hoá xuất
nhập khẩu từ nơi sản xuất (XK) đến nơi tiêu dùng (NK) thông qua mua bán. Đây là 1 phạm
trù gắn liền với hoạt động ngoại thương, nó cũng bao gồm các khâu: mua, bán, dự trữ.
Nếu mức lợi nhuận quy định cho mỗi hàng hoá bán ra là một con số cụ thể, thì
nếu tăng doanh số hàng bán ra thì đơn vị xuất nhập khẩu thu được nhiều lợi nhuận
tuyệt đối hơn và ngược lại. Trong thực tiễn nhiều đơn vị xuất nhập khẩu không thực
hiện kế hoạch lợi nhuận đề ra là do không thực hiện được kế hoạch lưu chuyển hàng
hoá xuất khẩu và nhập khẩu. Bởi vậy mở rộng và tăng tốc độ lưu chuyển hàng hoá sẽ
làm tăng mức thu lợi nhuận của đơn vị kinh doanh.
Những nhân tố ảnh hưởng đến tốc độ lưu chuyển hàng hoá:
- Những nhân tố khách quan: gồm những nhân tố mang yếu tố quốc tế và những
nhân tố khách quan trong nước.
+ Những yếu tố mang yếu tố quốc tế:
Tình hình thuận lợi hay khó khăn về kinh tế tài chính của khu vực và thế giới đều
ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh Việt Nam. Chẳng hạn
cuộc khủng bố của lính cảm tử người Hồi giáo ở ngay trong lòng nước Mỹ 11/09/2001
làm đồng đôla Mỹ giảm giá, thị trường tài chính chao đảo ảnh hưởng đến doanh thu
xuất khẩu của nhiều doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt làm giảm mức lưu chuyển hàng
hoá của các doanh nghiệp sang thị trường Mỹ.
-18Tình hình quan hệ kinh tế thương mại của Việt Nam với các nước và với các
định chế tài chính – thương mại của thế giới. Thật vậy, việc đẩy mạnh quan hệ kinh tế
đối ngoại của Chính phủ với thế giới tạo điều kiện thuận lợi về thị trường cho các
doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập. Chẳng hạn, hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã
được đại diện Chính phủ Việt Nam và Hoa Kỳ ký kết 07/2000 và đã được thông qua
vào tháng 12/2001: Sự kiện này tạo ra thị trường xuất khẩu thuận lợi cho các doanh
nghiệp Việt Nam vì khi hiệp định có hiệu lực hàng hoá được hưởng thuế nhập khẩu
vào Mỹ theo quy chế tối huệ quốc, mức thuế thấp hơn 30%-40% so với trước đây. Đặc
biệt, khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới
(WTO) sẽ tạo ra nhiều cơ hội để tăng mức lưu chuyển hàng hoá sang các thị trường.
Tóm lại, cơ hội và thách thức quốc tế đan xen nhau, để gia tăng khả năng xuất
khẩu, tăng kim ngạch ngoại tệ doanh nghiệp cần có những nghiên cứu tình hình kinh tế
– chính trị khu vực để kịp thời đề xuất giải pháp chiến lược tăng mức lưu chuyển hàng
sang các thị trường.
+ Những yếu tố khách quan trong nước:
Nhân tố thuộc về cơ chế chính sách có ảnh hưởng mạnh mẽ đến khả năng bán
hàng. Những cơ chế chính sách tài trợ xuất khẩu: vay vốn với lãi suất ưa đãi, trợ giá
xuất khẩu, giảm thuế … cũng tác động thuận lợi đến khả năng xuất khẩu của các
doanh nghiệp. Tuy nhiên, môi trường kinh doanh ở Việt Nam còn chưa hấp dẫn: chi
phí kinh doanh: giá điện, giá nước, giá sử dụng các tiện ích công cộng … còn cao, sự
thực thi pháp luật còn chưa nghiêm… ảnh hưởng đến tính cạnh tranh khi hàng hoá
Việt Nam xuất bán ra nước ngoài.
Nghiên cứu các nhân tố khách quan giúp cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu
tận dụng những cơ hội thuận lợi, tìm kiếm những giải pháp hạn chế những rủi ro khó
khăn để tăng tốc độ lưu chuyển hàng hoá, gia tăng doanh thu xuất khẩu, chiếm lĩnh thị
trường.
- Nhóm nhân tố chủ quan:
Đây là nhóm nhân tố bên trong ảnh hưởng đến doanh số bán hàng của doanh
nghiệp và đây là nhóm nhân tố mà với sự nỗ lực của doanh nghiệp có thể tìm kiếm
những giải pháp khắc phục nhằm tăng tốc độ lưu chuyển hàng hoá xuất khẩu.
+ Nhóm nhân tố thuộc con người:
-19Trình độ cán bộ quản lý sản xuất và kinh doanh tác động đến xây dựng các chiến
lược sản phẩm: chiến lược chiếm lĩnh thị trường, chiến lược tiếp thị, chiến lược thu
mua hàng hoá… Các chiến lược này tác động mạnh đến tốc độ lưu chuyển hàng hoá.
Trình độ tay nghề và năng suất lao động công nhân ảnh hưởng đến chất lượng và
giá thành sản phẩm: trình độ công nhân kém dẫn đến chất lượng sản phẩm kém, sản
phẩm hư hỏng nhiều làm giá thành sản phẩm cao hạn chế khả năng tiêu thụ hàng hoá.
Tuyển chọn hoặc thuê nhà quản lý giỏi; có kế hoạch bồi dưỡng nâng cao tay
nghề công nhân được xem là yếu tố hàng đầu duy trì tốc độ lưu chuyển hàng hoá, gia
tăng doanh số xuất khẩu.
+ Nhóm nhân tố thuộc về cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp:
Vốn đặc biệt là vốn lưu động đầy đủ hay thiếu, tác động đến mức lưu chuyển
hàng hoá xuất nhập khẩu. Hiện nay nhiều doanh nghiệp muốn mở rộng quy mô kinh
doanh nhưng thiếu vốn nên hạn chế khả năng dự trữ hàng hoá, phải từ chối những đơn
đặt hàng lớn. Tìm kiếm các giải pháp để khai thác các nguồn vốn đáp ứng yêu cầu của
hoạt động kinh doanh có ý nghĩa quan trọng trong việc gia tăng tốc độ lưu chuyển
hàng hoá xuất nhập khẩu.
Hệ thống kho tàng, mặt bằng kinh doanh, máy móc trang thiết bị, phương tiện
vận chuyển… cũng tác động trực tiếp đến quá trình tiêu thụ hàng hoá, có thể là tăng
hoặc giảm mức lưu chuyển hàng hoá.
Cơ cấu hàng hoá kinh doanh xuất nhập khẩu:
Mỗi loại hàng hoá kinh doanh xuất nhập khẩu có một mức lợi nhuận riêng phụ
thuộc vào nhiều yếu tố kinh doanh: mức độ cạnh tranh trên thị trường, chi phí kinh
doanh, thuế xuất nhập khẩu… rất khác nhau. Cho nên khi cơ cấu hàng hoá kinh doanh
thay đổi sẽ làm thay đổi hẳn mức lợi nhuận của công ty, mà nếu cách tính tỷ suất lợi
nhuận theo các cách tính khác nhau cũng thay đổi: nếu kinh doanh mặt hàng có mức
lãi suất lớn chiếm tỷ trọng cao trong toàn bộ cơ cấu hàng xuất nhập khẩu thì tương ứng
sẽ làm tăng mức lợi nhuận ngoại thương. Ngược lại, nếu kinh doanh mặt hàng có mức
lãi suất nhỏ chiếm tỷ trọng thấp trong cơ cấu hàng xuất nhập khẩu thì tương ứng sẽ
làm giảm mức lợi nhuận ngoại thương.
-20
Nhân tố giá cả:
- Giá cả hàng hoá:
Đây là nhân tố khách quan có ảnh hưởng lớn đến tất cả các chỉ tiêu hoạt động của
doanh nghiệp. Giá các yếu tố đầu vào (giá nguyên vật liệu, giá nhân công…) và giá
bán hàng hoá xuất nhập khẩu đều ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của đơn vị kinh
doanh ngoại thương. Nếu giá mua hàng hoá quá cao, bán theo giá thị trường thì lãi gộp
(phần chênh lệch giữa giá bán và giá mua) giảm xuống và lợi nhuận cũng giảm. Và
ngược lại giá mua hạ thì lãi gộp sẽ lớn và lợi nhuận sẽ lớn. Muốn giảm giá cả mua
hàng thì thực hiện mua tận gốc, thực hiện so sánh giá cả bán hàng của các nhà cung
cấp hàng nhập khẩu để lựa chọn nhà cung cấp rẻ (tất nhiên phải xem xét chất lượng
hàng mua).
Định giá bán trên thị trường cũng ảnh hưởng trực tiếp đối với lợi nhuận ngoại
thương. Bình thường giá cả định cao trong điều kiện trên thị trường không có sự cạnh
tranh thì lợi nhuận thu được dưới dạng lợi nhuận độc quyền cao, nhưng định giá bán
cao trong điều kiện thị trường có sự cạnh tranh gay gắt, sức mua có khả năng thanh
toán thấp hàng hoá tiêu thụ chậm thì lợi nhuận sẽ giảm.
Cho nên trong điều kiện cơ chế thị trường nhà kinh doanh phải nắm vững thị trường
để đề ra chính sách giá cả hàng hoá thích hợp mà mục đích cuối cùng là đẩy mạnh doanh
số bán, chiếm lĩnh thị trường và tăng mức lợi nhuận tuyệt đối cho doanh nghiệp.
- Giá cả chi phí lưu thông:
Chi phí lưu thông hàng hoá xuất nhập khẩu được biểu hiện dưới dạng tiền tệ của
lượng hao phí lao động phát sinh trong quá trình lưu chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu.
Chẳng hạn như chi phí thu mua hàng hoá, vận chuyển, bảo quản, phân loại, đóng gói,
bảo quản, chi phí làm thủ tục xuất nhập khẩu, chi phí mua bảo hiểm hàng hoá.
Giá cả chi phí lưu thông thay đổi sẽ làm cho chi phí lưu thông tuyệt đối lẫn tỷ
suất phí thay đổi. Giá cả chi phí bao gồm: giá cước chi phí vận chuyển, giá thuê bốc
dỡ hàng hoá, giá thuê nhà kho và công cụ bốc dỡ hàng, giá thuê nhân công… Nếu tất
cả những chi phí này tăng thì làm cho mức phí tuyệt đối lẫn tỷ suất phí tăng lên và kéo
theo lợi nhuận kinh doanh ngoại thương giảm. Đây là nhân tố khách quan, tuy nhiên
nếu đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu tính toán lựa chọn phương tiện vận tải, tối ưu
hoá quá trình vận chuyển về sử dụng trọng tải lẫn quảng đường vận chuyển hoặc sử
- Xem thêm -