BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN THỊ KIM CHI
GIÁO DỤC Ý THỨC CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT CHO HỌC
SINH THÔNG QUA DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG
DÂN LỚP 12 (QUA KHẢO SÁT TẠI TRƯỜNG THPT PHAN
NGỌC HIỂN, QUẬN NINH KIỀU, THÀNH PHỐ CẦN THƠ)
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Thành phố Hồ Chí Minh, 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
NGUYỄN THỊ KIM CHI
GIÁO DỤC Ý THỨC CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT CHO HỌC
SINH THÔNG QUA DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG
DÂN LỚP 12
(QUA KHẢO SÁT TẠI TRƯỜNG THPT PHAN NGỌC HIỂN,
QUẬN NINH KIỀU, THÀNH PHỐ CẦN THƠ)
Chuyên ngành: Lý luận và Phương pháp dạy học Bộ môn Giáo dục Chính trị
Mã số: 60.14.01.11
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: TS. BÙI VĂN DŨNG
Thành phố Hồ Chí Minh, 2012
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành đề tài này, ngoài sự nỗ lực
của bản thân, tôi còn nhận được sự hỗ trợ rất lớn từ các cơ quan, đơn vị và cá
nhân. Sau đây tôi xin gửi lời biết ơn chân thành đến:
Quý thầy cô khoa Giáo dục Chính trị - Trường Đại học Vinh đã tích
cực hướng dẫn, giảng dạy; khoa Sau đại học của Trường Đại học Vinh cũng
như Trường Đại học Sài Gòn đã tạo điều kiện thuận lợi trong suốt thời gian
học tập.
Giáo viên và học sinh Trường THPT Phan Ngọc Hiển, Quận Ninh
Kiều, Thành phố Cần Thơ đã nhiệt tình hợp tác và giúp đỡ trong khi tôi tiến
hành khảo sát và thực nghiệm sư phạm.
TS. Bùi Văn Dũng - Thầy đã tận tình định hướng đề tài, quan tâm, góp
ý cho tôi rất nhiều để tôi thực hiện đề tài luận văn tốt nghiệp.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 19 tháng 07 năm 2012
Tác giả
Nguyễn Thị Kim Chi
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
GDPL
Giáo dục pháp luật
GV
Giáo viên
HS
Học sinh
Nxb
Nhà xuất bản
PP
Phương pháp
QPAN
Quốc phòng an ninh
SGK
Sách giáo khoa
SL
Số lượng
THPT
Trung học phổ thông
TL
Tỷ lệ
TNTN
Tài nguyên thiên nhiên
Tp
Thành phố
TS
Tiến sỹ
TT
Thứ tự
MỤC LỤC
Trang
A. MỞ ĐẦU......................................................................................................1
B. NỘI DUNG..................................................................................................10
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ GIÁO DỤC Ý
THỨC CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH THÔNG QUA
DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 12 (QUA KHẢO SÁT
TẠI TRƯỜNG THPT PHAN NGỌC HIỂN, QUẬN NINH KIỀU, THÀNH
PHỐ CẦN THƠ)...............................................................................................10
1.1. Cơ sở lý luận của giáo dục ý thức chấp hành pháp luật....................10
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản..............................................................10
1.1.2. Tính tất yếu của giáo dục ý thức chấp hành pháp luật..............15
1.1.3. Nội dung giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh....27
1.2. Cơ sở thực tiễn của giáo dục ý thức chấp hành pháp luật...............32
1.2.1. Vài nét về Trường THPT Phan Ngọc Hiển................................32
1.2.2. Thực trạng giáo dục ý thức chấp hành pháp luật .....................39
1.2.3. Nguyên nhân chủ quan và khách quan ....................................45
Kết luận chương 1...........................................................................................47
Chương 2: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM VỀ GIÁO DỤC Ý THỨC
CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH THÔNG QUA DẠY HỌC
MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 12 (QUA KHẢO SÁT TẠI
TRƯỜNG THPT PHAN NGỌC HIỂN, QUẬN NINH KIỀU, THÀNH
PHỐ CẦN THƠ).............................................................................................49
2.1. Chuẩn bị thực nghiệm......................................................................49
2.1.1. Mục đích thực nghiệm.................................................................49
2.1.2. Đối tượng thực nghiệm và địa điểm thực nghiệm.....................49
2.1.3. Giả thuyết thực nghiệm...............................................................50
2.1.4. Kế hoạch thực nghiệm.................................................................50
2.2. Nội dung thực nghiệm.......................................................................52
2.2.1. Thiết kế giáo án thực nghiệm.....................................................52
2.2.2. Tiến hành thực nghiệm...............................................................64
2.3. Kết quả thực nghiệm.........................................................................67
2.3.1. Kết quả sau khi thực nghiệm lần thứ nhất.................................67
2.3.2. Kết quả sau khi thực nghiệm lần thứ hai...................................69
2.3.3. Phân tích, so sánh kết quả của hai lần thực nghiệm.................71
Kết luận chương 2...........................................................................................72
Chương 3: QUY TRÌNH VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ GIÁO DỤC Ý THỨC CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT CHO HỌC
SINH THÔNG QUA DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 12
...........................................................................................................................73
3.1. Quy trình giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh
thông qua dạy học môn giáo dục công dân lớp 12........................................73
3.1.1. Quy trình tổng quát về giáo dục ý thức chấp hành pháp luật . .73
3.1.2. Quy trình chi tiết về giáo dục ý thức chấp hành pháp luật .......79
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chấp
hành pháp luật cho học sinh thông qua dạy học môn giáo dục công dân lớp 12...81
3.2.1. Giải pháp đối với giáo viên bộ môn giáo dục công dân 12........82
3.2.2. Giải pháp đối với học sinh lớp 12...............................................86
3.2.3. Giải pháp đối với nhà trường......................................................88
3.2.4. Một số giải pháp khác.................................................................90
Kết luận chương 3...........................................................................................95
C. KẾT LUẬN.................................................................................................96
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................99
E. PHỤ LỤC
A. Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trước những tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật trên thế giới, nước
ta luôn tiến hành đổi mới đường lối, chính sách, phát huy tối đa nội lực đồng
thời tranh thủ thời cơ, tiếp thu và vận dụng sáng tạo những thành tựu tiến bộ,
văn minh của nhân loại vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Trong
đó vấn đề giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực giữ một vị thế rất
quan trọng của chính sách quốc gia, nhằm đáp ứng những đòi hỏi của thực
tiễn đối với con người trong giai đoạn mới. Do đó, thế hệ trẻ của Việt Nam
hôm nay (học sinh, sinh viên, thanh niên), ngoài việc trang bị năng lực tư duy,
trí tuệ, cần thiết phải được rèn luyện, giáo dục về đạo đức, ý thức công dân,
… để xứng đáng là thế hệ tương lai có đủ cả đức và tài.
Tuy nhiên cũng chính trong quá trình hội nhập, những luồng tư tưởng,
quan điểm tiêu cực cũng du nhập vào nước ta gây ảnh hưởng nghiêm trọng
đến lối sống, sự hình thành nhân cách của thế hệ trẻ. Mặt trái của nền kinh tế
thị trường cũng tác động vào nền đạo đức xã hội Việt Nam, khiến cho một số
giá trị đạo đức ngày càng lệch chuẩn, tệ nạn xã hội không ngừng gia tăng, tội
phạm ở lứa tuổi thanh thiếu niên ngày càng phổ biến, ý thức chấp hành pháp
luật của một bộ phận giới trẻ rất kém, thậm chí còn coi thường pháp luật. Đối
mặt với những thách thức đó, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho học
sinh, sinh viên, thanh thiếu niên là một nội dung không thể thiếu trong
chương trình giáo dục ở các cấp học và trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục
quốc dân ở nước ta hiện nay.
Mặt khác, trong quá trình đổi mới đất nước, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đòi hỏi phải xây dựng một xã hội trong đó
mọi người đều có ý thức tôn trọng pháp luật, tự nguyện tuân thủ và nghiêm
chỉnh chấp hành pháp luật, có tinh thần bảo vệ pháp luật, sống và làm việc
theo pháp luật. Để thực hiện mục tiêu này, song song với việc xây dựng và
không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật, một trong những vấn đề có tầm
quan trọng đặc biệt là phải đẩy mạnh phổ biến, GDPL cho mọi nhóm đối
tượng, trong đó có học sinh, sinh viên. Đây là yêu cầu, đòi hỏi cấp thiết, mang
tính khách quan và hoàn toàn phù hợp với mục tiêu giáo dục toàn diện mà
Đảng và Nhà nước đã đặt ra: Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn
diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với
lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân
cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nhìn chung, phổ biến, GDPL đã được xác định là định hướng quan
trọng, là trách nhiệm của Nhà nước và cả hệ thống chính trị do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo.
Chính vì vậy, vấn đề làm thế nào để học sinh được tiếp cận các tình
huống pháp luật, được phổ biến, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật đã trở
thành một trong những mối quan tâm hàng đầu của toàn xã hội trong giai
đoạn hiện nay, của toàn ngành giáo dục nói chung và giáo dục phổ thông nói
riêng. Thực hiện chủ trương này, nhiều cấp uỷ Đảng đã có sự quan tâm đặc
biệt và chỉ đạo sát sao việc tăng cường công tác phổ biến, GDPL ở địa
phương, đơn vị, cơ quan, tổ chức. Quán triệt quan điểm chung đó, Sở Giáo
dục và Đào tạo Thành phố Cần Thơ dưới sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân
Thành phố Cần Thơ cũng xác định một trong những nội dung chính trong
nhiệm vụ trọng tâm của các trường là đẩy mạnh công tác giáo dục pháp luật
cho học sinh. Vì vậy, thời gian qua các trường THPT nói chung và Trường
THPT Phan Ngọc Hiển nói riêng trên địa bàn Thành phố Cần Thơ đã tiến
hành giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh thông qua nhiều hoạt
động khác nhau như hoạt động ngoài giờ lên lớp, qua tiết sinh hoạt chủ
nhiệm, qua sinh hoạt chào cờ đầu tuần hoặc qua quá trình dạy học bộ môn.
Với yêu cầu cấp thiết trên, chúng tôi muốn nghiên cứu, làm rõ hơn về
thực tiễn giáo dục ý thức chấp hành pháp luật, qua đó đề xuất một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho học
sinh. Do đó, chúng tôi chọn đề tài Giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho
học sinh thông qua dạy học môn giáo dục công dân lớp 12 (Qua khảo sát tại
Trường THPT Phan Ngọc Hiển, Quận Ninh Kiều, Thành phố Cần Thơ) làm
đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho nhân dân là yêu cầu tất yếu
trong xây dựng đất nước và quản lý xã hội của một quốc gia.
Đối với nước ta, ngay từ đầu những năm 80 của thế kỷ XIX đến nay,
Đảng và Nhà nước ta luôn nhất quán chủ trương đưa giáo dục pháp luật vào
nhà trường, phải phổ biến, GDPL trong quá trình xây dựng con người Việt
Nam mới xã hội chủ nghĩa.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng khẳng định: “Nâng cao
ý thức tôn trọng pháp luật của nhân dân, củng cố kỷ cương, bảo đảm an ninh,
trật tự công cộng, thực hiện nguyên tắc: Mọi người sống và làm việc theo
pháp luật”[14; 35]; “Đi đôi với việc nâng cao chất lượng đào tạo chuyên môn
và năng lực thực hành, coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, pháp
luật, giáo dục thể chất và giáo dục quốc phòng”[14; 71].
Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VII cũng nêu ra một
trong những phương hướng, nhiệm vụ của chính sách xã hội là: “Tăng cường
giáo dục pháp luật, nâng cao hiểu biết và ý thức tôn trọng pháp luật, sống và
làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thi hành
thống nhất, nghiêm minh và công bằng”[14; 315].
Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, Đại hội đại
biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI cho rằng: “Chú trọng xây dựng nhân cách con
người Việt Nam về lý tưởng, trí tuệ, đạo đức, lối sống, thể chất, lòng tự tôn
dân tộc, trách nhiệm xã hội, ý thức chấp hành pháp luật, nhất là trong thế hệ
trẻ”[13; 126].
Với quan niệm cần phổ biến, GDPL, đặc biệt là giáo dục ý thức chấp
hành pháp luật cho học sinh trong nhà trường, Nhà nước ta đã ban hành nhiều
văn bản pháp luật thể chế hoá các đường lối, chủ trương của Đảng, khẳng
định vai trò chiến lược của công tác GDPL và tạo cơ sở pháp lý cho việc triển
khai thực hiện phổ biến, GDPL trong nhà trường.
Ngày 07/01/1998, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định Số:
03/1998/QĐ-TTg Về việc Ban hành kế hoạch triển khai công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật từ năm 1998 đến năm 2002 và thành lập Hội đồng phối
hợp công tác phổ biến giáo dục pháp luật. Kế hoạch xác định rõ các mục tiêu,
yêu cầu, nội dung cụ thể của công tác phổ biến, GDPL, trong đó có đề cập
đến việc thực hiện chương trình giáo dục pháp luật và giáo dục ý thức chấp
hành pháp luật trong các nhà trường.
Ngày 17/8/2007, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Chỉ thị Số:
45/2007/CT-BGDĐT Về việc Tăng cường công tác phổ biến, GDPL trong
ngành giáo dục nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác phổ biến,
GDPL trong tình hình mới. Chỉ thị yêu cầu “Cần xác định công tác phổ biến,
GDPL là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ
thường xuyên của toàn ngành đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, sự chỉ
đạo trực tiếp của lãnh đạo cơ quan quản lý giáo dục và cơ sở giáo dục các cấp.
Mỗi cán bộ, nhà giáo, người lao động, người học trong ngành phải xác định rõ
việc học tập, nghiên cứu để hiểu biết pháp luật, chấp hành nghiêm chỉnh pháp
luật là trách nhiệm của mình”.
Ngày 25/04/2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra Quyết định Số:
2412/QĐ-BGDĐT, Phê duyệt Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật của
ngành giáo dục thực hiện Nghị quyết Số 61/2007/NQ-CP ngày 07/12/1007
của Chính phủ và Quyết định số 37/2008/QĐ-TTg ngày 12/3/2008 của Thủ
tướng Chính phủ. Mục tiêu chung của chương trình phổ biến, GDPL của
ngành giáo dục được đặt ra là “Quán triệt đầy đủ và sâu sắc về ý nghĩa, vai
trò, tầm quan trọng của công tác phổ biến, GDPL, tạo chuyển biến cơ bản về
công tác phổ biến, GDPL, nâng cao hiểu biết pháp luật và ý thức tôn trọng
pháp luật của cán bộ, nhà giáo, người lao động, người học trong ngành giáo
dục; góp phần tuyên truyền, phổ biến pháp luật về giáo dục cho cán bộ, nhân dân”.
Ngày 20/11/2009, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định Số:
1928/QĐ-TTg, Phê duyệt Đề án “Nâng cao chất lượng công tác phổ biến,
GDPL trong nhà trường” với mục tiêu nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả
công tác phổ biến, GDPL trong nhà trường. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về
nhận thức, ý thức tôn trọng pháp luật và hành vi chấp hành pháp luật của nhà
giáo, cán bộ quản lý cơ sở giáo dục và người học, góp phần ổn định môi
trường giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
Ngày 28/6/2010, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Kế hoạch Số:
366/KH-BGDĐT, Thực hiện Đề án “Nâng cao chất lượng công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật trong nhà trường”. Mục đích của kế hoạch là thực hiện có
hiệu quả các nhiệm vụ và giải pháp mà Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt
trong Đề án thuộc Quyết định số: 1928/QĐ-TTg nhằm nâng cao chất lượng và
hiệu quả công tác phổ biến, GDPL trong các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo
dục quốc dân. Tăng cường phối hợp các lực lượng làm công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật và các điều kiện bảo đảm cho việc triển khai công tác phổ
biến, GDPL trong nhà trường trong các năm tiếp theo.
Ngoài sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta, vấn đề phổ biến, GDPL
còn được nhiều tác giả nghiên cứu, trong số đó có những nghiên cứu đã được
in thành sách, cụ thể như:
Năm 1997, Nguyễn Duy Lãm chủ biên cùng với nhiều tác giả khác đã
biên soạn cuốn Một số vấn đề về phổ biến, GDPL trong giai đoạn hiện nay.
Quyển sách này gồm nhiều bài viết của các tác giả là những cán bộ đang công
tác trong và ngoài ngành tư pháp với những nội dung được trình bày như:
Thực trạng, các biện pháp tăng cường phổ biến, GDPL cho đội ngũ cán bộ
quản lý Nhà nước, học sinh trong các trường học, cán bộ quản lý và người lao
động trong các doanh nghiệp và các đối tượng của hoạt động tư pháp.
Để góp phần vào sự nghiệp chăm sóc, giáo dục và bảo vệ thế hệ trẻ của
toàn xã hội, năm 2002, tác giả Trần Đức Châm đã mang đến cho độc giả cuốn
sách có tựa đề Thanh, thiếu niên làm trái pháp luật - Thực trạng và giải pháp.
Cuốn sách gồm 4 chương, tập trung giải thích các hiện tượng sai lệch và tội
phạm; thực trạng tội phạm thanh, thiếu niên ở Việt Nam. Trên cơ sở lý thuyết
khoa học và những nghiên cứu thực trạng vấn đề thanh, thiếu niên làm trái
pháp luật, tác giả đã đề xuất một số giải pháp để phòng ngừa và ngăn chặn hiện tượng trên.
Ngoài ra, vấn đề phổ biến, giáo dục pháp luật, ý thức pháp luật nói
chung, ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh nói riêng còn được thể hiện
qua các luận văn, chẳng hạn như: Nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục
ý thức pháp luật cho người lao động và người sử dụng lao động trong các
doanh nghiệp dân doanh trên địa bàn Thành phố Vinh, Tỉnh Nghệ An (Qua
khảo sát thực tế một số cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp trên địa bàn Thành
phố Vinh) của tác giả Bùi Văn Hưng (2010); Nâng cao hiệu quả phổ biến chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước tại trung
tâm học tập cộng đồng các phường, xã, thị trấn trên địa bàn Tỉnh Đồng Tháp
của tác giả Phan Thị Quyến (2010); Đổi mới phương pháp dạy học học phần
“pháp luật” nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho học sinh Trường Cao đẳng
y tế Hà Tĩnh của tác giả Nguyễn Văn Hợi (2011); Giáo dục ý thức pháp luật
cho học sinh thông qua dạy học phần “Công dân với pháp luật” chương trình
giáo dục công dân lớp 12 ở các trường THPT dân lập trên địa bàn Thành
phố Vinh - Nghệ An hiện nay của tác giả Lê Thị Thu Hạnh (2011); Nâng cao
hiệu quả công tác giáo dục ý thức pháp luật cho người đi xuất khẩu lao động
trên địa bàn Tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay của tác giả Bùi Thành
Nhơn (2011); Nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chấp hành pháp lệnh tín
ngưỡng tôn giáo cho đồng bào phật tử ở Thị xã Hồng Ngự, Tỉnh Đồng Tháp
hiện nay của tác giả Huỳnh Tú Linh (2011); Giáo dục ý thức chấp hành luật
lao động cho học sinh Trường Trung cấp nghề Hồng Ngự, Tỉnh Đồng Tháp
trong giai đoạn hiện nay của tác giả Nguyễn Hòa Thuận (2011); Giáo dục ý
thức chấp hành pháp luật cho học sinh tiểu học ở các Trường THPT Lấp Vò
2, Huyện Lấp Vò, Tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay của tác giả
Nguyễn Thành Dư (2011).
Các công trình nghiên cứu khoa học trên về cơ bản rất có giá trị, nội
dung và đối tượng nghiên cứu phong phú, đa dạng. Tuy nhiên, thực tiễn về
giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh thông qua dạy học môn giáo
dục công dân lớp 12 vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu. Do đó, từ sự kế
thừa cơ sở lý luận của các công trình nghiên cứu trước, chúng tôi tiếp tục
muốn góp phần làm rõ hơn về Giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho học
sinh thông qua dạy học môn giáo dục công dân lớp 12 (Qua khảo sát tại
Trường THPT Phan Ngọc Hiển, Quận Ninh Kiều, Thành phố Cần Thơ).
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho học
sinh thông qua dạy học môn giáo dục công dân lớp 12.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát cơ sở lý luận về giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho
học sinh.
- Làm rõ thực trạng của việc giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho
học sinh thông qua dạy học môn giáo dục công dân lớp 12 (Qua khảo sát tại
Trường THPT Phan Ngọc Hiển, Quận Ninh Kiều, Thành phố Cần Thơ).
- Xác lập quy trình giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh
thông qua dạy học môn giáo dục công dân lớp 12.
- Đề ra một số giải pháp nhằm giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho
học sinh thông qua dạy học môn giáo dục công dân lớp 12 một cách có hiệu quả.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của phép biện chứng duy vật,
những quan điểm chỉ đạo, các cơ sở pháp lý của Đảng và Nhà nước về phổ
biến, GDPL cho học sinh, về giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong nghiên cứu đề tài, ngoài sử dụng phương pháp luận khoa học
Mác - Lênin, còn có các phương pháp mang tính đặc thù sau đây: Phương
pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp lịch sử và logic; phương pháp nghiên
cứu tài liệu; phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi; phương pháp quan sát, thực
nghiệm; phương pháp xử lý thông tin và phân tích số liệu.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là giáo dục ý thức chấp hành pháp luật
cho học sinh thông qua dạy học môn giáo dục công dân lớp 12.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung điều tra, phân tích tình hình giáo dục ý thức chấp hành
pháp luật cho học sinh thông qua dạy học môn giáo dục công dân lớp 12 (Qua
khảo sát tại Trường THPT Phan Ngọc Hiển, Quận Ninh Kiều, Thành phố Cần thơ).
6. Giả thuyết khoa học
Thông qua dạy học môn giáo dục công dân lớp 12 sẽ góp phần giáo
dục, hình thành ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh.
7. Đóng góp của đề tài
Báo cáo khoa học của đề tài sẽ là tài liệu tham khảo cho hoạt động
giảng dạy của giáo viên giáo dục công dân trung học phổ thông, trung học cơ
sở trong giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh. Kết quả đề tài còn
cung cấp những giá trị thực tiễn cho ngành giáo dục Việt Nam về việc thực
hiện giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh nói riêng cũng như
công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong nhà trường nói chung.
8. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của đề tài được thể hiện trong 3 chương và 7 tiết.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về giáo dục ý thức chấp hành
pháp luật cho học sinh thông qua dạy học môn giáo dục công dân lớp 12 (Qua
khảo sát tại Trường THPT Phan Ngọc Hiển, Quận Ninh Kiều, Thành phố Cần thơ).
Chương 2: Thực nghiệm sư phạm về giáo dục ý thức chấp hành pháp
luật cho học sinh thông qua dạy học môn giáo dục công dân lớp 12 (Qua khảo
sát tại Trường THPT Phan Ngọc Hiển, Quận Ninh Kiều, Thành phố Cần thơ).
Chương 3: Quy trình và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục ý
thức chấp hành pháp luật cho học sinh thông qua dạy học môn giáo dục công
dân lớp 12.
B. Nội dung
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ GIÁO DỤC Ý
THỨC CHẤP HÀNH PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH THÔNG QUA
DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 12 (QUA KHẢO SÁT
TẠI TRƯỜNG THPT PHAN NGỌC HIỂN, QUẬN NINH KIỀU,
THÀNH PHỐ CẦN THƠ)
1.1. Cơ sở lý luận của giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Khái niệm pháp luật
Pháp luật là một hiện tượng xã hội phức tạp, luôn biến động, ra đời gắn
liền với Nhà nước. Từ thời cổ đại tới nay đã có nhiều quan điểm khác nhau về
pháp luật.
Quan niệm thần bí, duy tâm thì cho rằng: “Pháp luật là ý chí, mệnh lệnh
của thượng đế, hoặc là sản phẩm của ý niệm tuyệt đối”[11; 49].
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, pháp luật thể hiện những
quan điểm pháp quyền của giai cấp thống trị trong xã hội. C. Mác và Ph.
Ăngghen khi nghiên cứu về pháp luật tư sản đã nêu: “Pháp quyền của các ông
chỉ là ý chí của giai cấp các ông được đề lên thành luật pháp, cái ý chí mà nội
dung là do các điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp các ông quyết
định”[8; 619]. Như vậy, thực chất của pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị
được đề lên thành luật lệ chung để bảo vệ lợi ích của nó.
Xét về mặt triết học, pháp luật là một bộ phận quan trọng trong cấu trúc
thượng tầng xã hội, nó do cơ sở hạ tầng quyết định đồng thời tác động trở lại
cơ sở hạ tầng. Nếu pháp luật phản ánh đúng đắn các quy luật vận động và
phát triển của xã hội thì sẽ có tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế - xã
hội và ngược lại.
Ở Việt Nam hiện nay, về mặt thuật ngữ pháp lý, “Pháp luật là toàn bộ
các quy phạm do Nhà nước ban hành để bảo vệ, củng cố và phát triển xã hội
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, pháp luật
thể hiện ý chí của toàn thể nhân dân. Nhiệm vụ chủ yếu của pháp luật trong
giai đoạn hiện nay là bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về
mọi mặt của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Biện pháp chủ yếu bảo đảm thi hành pháp luật là
tuyên truyền, phổ biến pháp luật, là thuyết phục và tạo thành phong trào quần
chúng tự nguyện chấp hành pháp luật. Đồng thời, trong việc thi hành pháp
luật cũng không loại trừ khả năng sử dụng biện pháp cưỡng chế trong những
trường hợp cần thiết để bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh pháp luật”[21; 344].
Theo quan điểm của các nhà luật học Việt Nam, pháp luật được định
nghĩa như sau: “Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban
hành hoặc thừa nhận, được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng cưỡng chế
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp
cầm quyền”[9; 32].
Pháp luật, về bản chất nguyên gốc là mối tương quan giữa con người
với con người, giữa con người với tập thể, lâu dần trở thành quy tắc xử sự,
mỗi người phải tuân thủ khi giao tiếp với nhau cũng như giao tiếp với xã hội,
sau này trở thành một định chế, trở thành khoa học được mọi người tuân
hành, được bảo đảm thực hiện và có chế tài khi có sự vi phạm.
Hiểu theo khoa học pháp lý thì pháp luật phải là hệ thống các quy tắc
xử sự mà mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội phải có nghĩa vụ tuân thủ. Thứ
hai, pháp luật phải do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện. Tiếp theo,
pháp luật là một hiện tượng xã hội vừa mang tính giai cấp vừa mang tính xã
hội có quan hệ mật thiết với nhau. Vì pháp luật do Nhà nước ban hành, đại
diện chính thức của toàn xã hội, mang tính chất xã hội, ở mức độ nhiều hay ít
(tùy vào hoàn cảnh cụ thể) pháp luật còn thể hiện ý chí, lợi ích của các giai
tầng khác trong xã hội. Trong xã hội có giai cấp tồn tại nhiều quy phạm khác
nhau thể hiện ý chí, nguyện vọng của các giai cấp, các lực lượng xã hội,
nhưng chỉ có một hệ thống pháp luật thống nhất chung cho toàn xã hội. Tính
giai cấp còn thể hiện ở mục đích điều chỉnh các mối quan hệ xã hội nhằm
hướng tới một trật tự phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị. Với ý nghĩa đó,
pháp luật chính là công cụ để thực hiện sự thống trị giai cấp, quản lí xã hội.
Từ sự phân tích trên có thể khái quát khái niệm pháp luật như sau: Pháp
luật là những quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung do Nhà nước xác lập nhằm
điều chỉnh hành vi của mọi thành viên trong xã hội. Sự điều chỉnh của pháp
luật nhằm chống lại cái ác bảo vệ cái thiện, hướng con người hành động trong
mối quan hệ hướng tới cái thiện. Pháp luật thể hiện ý chí của Nhà nước và
được Nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp tổ chức, giáo dục,
thuyết phục, cưỡng chế bằng bộ máy Nhà nước và được thực hiện lâu dài,
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp luật chính là công cụ để Nhà nước
thực hiện quyền lực của mình và là cơ sở pháp lý cho đời sống xã hội có
Nhà nước.
1.1.1.2. Khái niệm chấp hành pháp luật
Để điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng pháp luật, bên cạnh việc tổ chức
xây dựng hệ thống các văn bản pháp luật, Nhà nước phải tổ chức đưa các quy
định của pháp luật vào cuộc sống. Bởi vì pháp luật chỉ có ý nghĩa đích thực
khi được thực hiện, khi các quy định của pháp luật trở thành những hành vi
hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật. Xây dựng pháp luật và thực hiện
pháp luật là hai hoạt động có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Tất cả những hành vi của mỗi cá nhân, hoặc cơ quan, tổ chức được tiến
hành phù hợp với những quy định của pháp luật, có lợi cho Nhà nước, xã hội
và nhân dân hay nói đúng hơn đó là những hành vi hợp pháp được gọi là sự
thực hiện pháp luật.
Như vậy, có thể hiểu chấp hành (thi hành) pháp luật là một trong những
hình thức của thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật (bao gồm
các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội, mọi công dân) phải thực hiện
những việc mà pháp luật bắt buộc phải làm một cách chủ động. Chẳng hạn
như mọi chủ thể khi kinh doanh đều buộc phải đóng thuế cho Nhà nước, hay
mọi công dân muốn lái xe mô tô trên 50cc (phân khối) phải có giấy phép lái
xe theo quy định của pháp luật, … Và để chấp hành pháp luật thì các chủ thể
pháp luật phải biết được những gì pháp luật bắt mình phải làm và thực hiện
nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực.
Định nghĩa về chấp hành (thi hành) pháp luật nêu trên được phân biệt
về cách thức thực hiện pháp luật với tuân thủ pháp luật. Bởi vì tuân thủ pháp
luật cũng là một hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ thể pháp luật
kiềm chế không thực hành những hành vi mà pháp luật ngăn cấm. Ví dụ chủ
thể lái xe không được vượt đèn đỏ, không được lạng lách, vượt ẩu; hay mọi
công dân đều không được săn bắt trái phép các loài động, thực vật quý hiếm;
công chức không được tham nhũng; … Hình thức này có cơ sở là các quy
phạm pháp luật cấm đoán. Trong khi tuân thủ pháp luật, con người thực hiện
nghĩa vụ của mình một cách thụ động. Vì vậy, để tuân thủ pháp luật, các chủ
thể cần biết cái gì không được làm và kiềm chế không tiến hành những việc đó.
Tuy nhiên, nếu xét về ý nghĩa, nhìn một cách tổng thể thì cả tuân thủ
pháp luật và chấp hành pháp luật đều là những hành vi hợp pháp, tôn trọng
pháp luật, nhằm mục đích thực hiện các quy định của pháp luật. Hay nếu nhìn
nhận theo nghĩa rộng hơn thì chấp hành pháp luật nó bao hàm cả tuân thủ
pháp luật.
Từ phân tích trên có thể khái quát khái niệm chấp hành pháp luật như
sau: Chấp hành pháp luật là hành vi mà bất cứ một cá nhân, tổ chức nào (bao
gồm cả những hành vi chủ động và hành vi thụ động) đều phải tuân theo tất
cả những quy định của pháp luật của bất kỳ quốc gia nào mà mình sinh sống
và làm việc.
1.1.1.3. Khái niệm ý thức chấp hành pháp luật
Các yếu tố cấu thành của đời sống pháp luật rất đa dạng. Nó không chỉ
bao gồm lĩnh vực xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật mà còn có những
bộ phận khác. Một trong những bộ phận ấy là ý thức pháp luật. Sự tồn tại và
vận động của pháp luật trong xã hội liên quan chặt chẽ với ý thức pháp luật.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, ý thức xã hội là mặt tinh
thần của đời sống xã hội, nảy sinh từ xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong
những giai đoạn phát triển nhất định. Ý thức xã hội biểu hiện dưới nhiều hình
thái khác nhau, mỗi hình thái phản ánh những mặt nhất định đời sống vật chất
của xã hội và thực hiện những chức năng xã hội nhất định, chúng có tính độc
lập tương đối đồng thời tác động qua lại lẫn nhau như ý thức chính trị, ý thức
tôn giáo, ý thức pháp luật (ý thức pháp quyền), … Như vậy, ý thức pháp luật
là một hình thái ý thức xã hội cụ thể, phản ánh đời sống pháp luật của xã hội.
Và khái niệm ý thức pháp luật được định nghĩa trong các tài liệu lý luận về
pháp luật ở nước ta hiện nay là “tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan
điểm, quan niệm hình thành trong xã hội, thể hiện mối quan hệ của con người
đối với pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua và pháp luật cần phải có; thể
hiện sự đánh giá về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự
của con người cũng như trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà
nước và các tổ chức khác trong xã hội”[19; 40]. Qua đó cho thấy ý thức pháp
luật gồm hai bộ phận cơ bản là hệ tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật. Hay
có thể nói ý thức pháp luật gồm sự nhận thức pháp luật và thái độ đối với
pháp luật.
Chính vì thế, ý thức chấp hành pháp luật là một trong các yếu tố cấu
thành của ý thức pháp luật. Ý thức chấp hành pháp luật bao gồm tư tưởng,
thái độ tôn trọng pháp luật và không khoan dung đối với hiện tượng vi phạm
pháp luật, thói quen xử sự phù hợp với quy định của pháp luật. Ý thức chấp
hành pháp luật là cơ sở, tiền đề trực tiếp cho sự thực hiện pháp luật nói chung
và chấp hành pháp luật nói riêng. Ý thức chấp hành pháp luật càng được nâng
cao thì tinh thần tôn trọng pháp luật, thái độ tự giác xử sự theo yêu cầu của
pháp luật càng được đảm bảo.
1.1.2. Tính tất yếu của giáo dục ý thức chấp hành pháp luật cho học sinh
1.1.2.1. Khái niệm giáo dục ý thức chấp hành pháp luật
Sự hình thành ý thức của con người là quá trình ảnh hưởng tác động
thống nhất của các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Cho nên sự
hình thành ý thức chấp hành pháp luật cũng vừa là sản phẩm của điều kiện
khách quan lẫn sự tác động định hướng của nhân tố chủ quan. Trong đó điều
kiện khách quan là nhân tố ảnh hưởng mang tính chất tự phát, còn nhân tố chủ
quan lại là nhân tố có tác động cực kỳ quan trọng đến sự hình thành ý thức
chấp hành pháp luật của một cá nhân, mà hoạt động giáo dục định hướng, có
tổ chức, có chủ định của các cơ quan Đảng, Nhà nước và các tổ chức xã hội là
yếu tố hàng đầu. Đó cũng là quan điểm mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin đã từng nêu. C. Mác đã từng cho rằng con người vốn là sản
phẩm của hoàn cảnh và giáo dục. Do đó con người thay đổi vốn là sản phẩm
của hoàn cảnh và giáo dục đã thay đổi. V. I. Lênin cũng từng nhấn mạnh ý
thức pháp luật được hình thành trong quá trình giáo dục.
Vậy giáo dục ý thức chấp hành pháp luật là một hoạt động định hướng
có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục
nhằm hình thành tư tưởng, tình cảm, niềm tin vào pháp luật và thái độ tôn
- Xem thêm -