Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Lựa chọn các tiêu chí cơ bản để xây dựng bộ chỉ thị sinh học, đề xuất các chỉ th...

Tài liệu Lựa chọn các tiêu chí cơ bản để xây dựng bộ chỉ thị sinh học, đề xuất các chỉ thị sinh học cho loại hình hệ sinh thái thủy vực nước chảy của việt nam

.PDF
18
157
123

Mô tả:

TỔNG CỤC MÔI TRƯỜNG TRUNG TÂM QUAN TRẮC MÔI TRƯỜNG Chuyên đề Lựa chọn các tiêu chí cơ bản để xây dựng bộ chỉ thị sinh học, đề xuất các chỉ thị sinh học cho loại hình hệ sinh thái thủy vực nước chảy của Việt Nam (Thuộc mục “Đề xuất bộ chỉ thị sinh học cho loại hình hệ sinh thái thuỷ vực nước chảy của Việt Nam phục vụ quan trắc môi trường lưu vực sông”) Người thực hiện: Hồ Thanh Hải Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật 7629-7 28/01/2010 Hà Nội, 2008 LỰA CHỌN MỘT SỐ TIÊU CHÍ CƠ BẢN ĐỂ XÂY DỰNG BỘ CHỈ THỊ SINH HỌC PHÙ HỢP VỚI ĐIỀU KIỆN CÁC THỦY VỰC NƯỚC CHẢY Ở VIỆT NAM I. ĐẶT VẤN ĐỀ I.1 Khuôn mẫu chỉ thị Không có khuôn mẫu cụ thể cho các chỉ thị môi trường. Tuỳ thuộc vào bối cảnh cụ thể, bất kì một số liệu nào, ví dụ như các dữ liệu đo đạc, dữ liệu “thô”, hay dữ liệu đã được xử lý theo các khác nhau và ở những cấp độ tổng hợp khác nhau, số lần vượt mức tiêu chuẩn cho phép, các chỉ số và các dữ liệu tương tự như vậy, đều có thể được sử dụng như các chỉ thị. Thậm chí có những trường hợp người ta còn áp dụng các chỉ thị định tính. Điều khiến các chỉ số, dữ liệu như vậy trở thành chỉ thị đó là khả năng mô tả một diễn biến có liên quan đến một vấn đề, làm sao để người sử dụng có khả năng đánh giá xem liệu diễn biến đó có phải là diễn biến như mong đợi hay không. Nếu không có khả năng này, các dữ liệu đó cũng sẽ chỉ là dữ liệu mà thôi. Như vậy, một kết quả đo đạc bất kì, về mặt nguyên tắc, có thể được sử dụng như một chỉ thị nếu có sự liên hệ giữa thông số đo đạc đó với một tiểu chuẩn môi trường về các mức độ tốt, xấu. Tuy nhiên, thông số đó có thể trở nên một chỉ thị với chất lượng thấp. Thường thì các chỉ thị là các hàm đơn giản hay phức tạp của các dữ liệu đo đạc đủ loại. Nói một cách khác, nếu như so sánh với mục đích của các thông số được đo đạc một cách trực tiếp, một chỉ thị phải có khả năng đại diện cho một hiện tượng mang tính tổng quát hơn. Mô hình trong Hình 1 có thể minh hoạ mối liên hệ giữa dữ liệu và các chỉ thị. Chỉ số Mức độ diễn giải, phân tích và tổng hợp thông tin Chỉ thị Dữ liệu đã được xử lý Dữ liệu thô Hình 1. Mô hình tháp dữ liệu và thông tin 1 Lược giản và giảm bớt khối lượng thông tin là các bước rất cần thiết trong quá trình xây dựng chỉ thị. Mức độ lược giản khối lượng thông tin sẽ phụ thuộc vào các nhóm đối tượng sử dụng thông tin và mục tiêu phổ biển thông tin đối với từng chỉ thị cụ thể. Việc giới thiệu và phổ biến thông tin môi trường cho cộng đồng đòi hỏi phải có sự lược giản thông tin theo những khuôn mẫu nhất định để có thể truyền tải được thông tin ở dạng các “thông điệp” và phải phù hợp với trình độ hiểu biết của nhóm đối tượng đang nhắm tới. I.2 Phân loại chỉ thị Các chỉ thị mang tính mô tả Các chỉ thị mang tính mô tả thường mô tả tình huống thực về các vấn đề môi trường chính chẳng hạn như biến đổi khí hậu, mưa axit, ô nhiễm các chất độc hại và rác thải theo các cấp độ địa lý khác nhau mà ở cấp độ đó tự bản thân các vấn đề đã được biểu hiện. Chúng phản ánh thực trạng mà không cần phải có những thông tin tham khảo để chỉ ra tình trạng đó ở mức độ nào. Ví dụ trong hình 2 cho thấy nồng độ chlorophyll-a theo số liệu các trạm quan trắc ven biển miền Trung Việt nam. Số thể hiện trên biểu đồ là giá trị trung bình của 4 lần đo. Nång ®é Chlorophyll-a ®o t¹i c¸c tr¹m quan tr¾c miÒn Trung, 2000-2003 3 10 mg/m 8 6 4 2 0 §Ìo Ngang Năm 2000 §ång Híi Con Co Năm 2001 ThuËn An Năm 2002 §µ n½ng Năm 2003 Dung QuÊt Sa Huúnh Quy Nh¬n Stations Hình 2. Ví dụ về chỉ thị mô tả: nồng độ Chlorophyll-a đo tại các trạm quan trắc ven biển miền Trung Các chỉ thị đánh giá hoạt động Ngược với các chỉ thị mang tính mô tả, các chỉ thị ‘đánh giá hoạt động’ lại so sánh các điều kiện thực tế với một tập hợp các điều kiện tham khảo cụ thể khác. Chúng đo “khoảng cách” giữa tình trạng môi trường hiện tại và tình trạng mong muốn đạt tới (mục tiêu): “khoảng cách tới đích”. Các chỉ thị đánh giá hoạt động phù hợp trong 2 trường hợp các nhóm hoặc cơ quan cụ thể nào đó phải chịu trách nhiệm về những biến động áp lực và hiện trạng môi trường. Hầu hết các nước và các tổ chức quốc tế hiện nay đều đang xây dựng các chỉ thị đánh giá hoạt động để theo dõi những tiến bộ đạt được đối với các mục tiêu về môi trường. Những chỉ thị đánh giá hoạt động này có thể liên quan tới các loại điều kiện/giá trị tham khảo khác nhau, ví dụ như: • Các mục tiêu chính sách quốc gia; • Các mục tiêu chính sách quốc tế được chính phủ các nước thừa nhận; • Ước tính gần đúng mức độ bền vững. Các kiểu điều kiện tham khảo thứ nhất và thứ hai, các mục tiêu chính sách quốc gia và các mục tiêu đã được thống nhất ở cấp quốc tế (Các giá trị về mục tiêu chính sách hoặc viết tắt là PTV) rất ít khi phản ánh mối quan tâm về tính bền vững do chúng thường đạt được thông qua các đàm phán quốc tế và buộc phải xem xét và sửa đổi theo định kỳ nhất định. Một ví dụ về chỉ thị đánh giá hoạt động là việc so sánh với các tiêu chuẩn quốc gia. Ở Việt nam đã có các tiêu chuẩn như vậy cho một số trường hợp và các giá trị đo được tại các địa điểm như sông có thể được so sánh với các tiêu chuẩn này (hình 6). Một ví dụ khác là trường hợp đặt ra các mục tiêu, chỉ tiêu và sau đó so sánh các mục tiêu này với thực tế đạt được hoặc với dự báo. Ví dụ trong hình 7 cho thấy sức khoẻ cộng đồng thông qua việc cung cấp hố xí hợp vệ sinh. Chính phủ Việt nam đặt ra mục tiêu cho đến năm 2005, 50% dân số sẽ sử dụng hố xí hợp vệ sinh. Hiện tại, số lượng hố xí hợp vệ sinh phân bổ không đều trong cả nước (xem hình 3). Do đó sẽ còn rất nhiều điều phải thực hiện để đạt được mục tiêu 50% nói trên. 35 30 25 mg/l 20 National standard= 4mg/l 15 10 5 0 1996 1997 1998 Red River, Hanoi Huong River, Hue 1999 2000 2001 Cam River, Haiphong Saigon River. HCM City Hình 3: Diễn biến nồng độ BOD tại các con sông lớn ở Việt nam so với tiêu chuẩn Việt nam 3 Các chỉ thị mang tính hiệu quả Cần phải lưu ý là một số chỉ thị phản ánh mối quan hệ giữa các yếu tố riêng biệt trong cả một chuỗi nguyên nhân. Những chỉ thị phù hợp nhất cho quá trình hoạch định chính sách thường là các chỉ thị liên quan đến áp lực môi trường do các hoạt động của con người gây ra. Các chỉ thị này thường giúp ta hiểu thấu đáo về hiệu quả của các sản phẩm và quy trình. Hiệu quả về mặt tài nguyên/nguồn lực đã sử dụng, lượng khí và rác thải phát thải trên mỗi đơn vị tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Bên cạnh các chỉ thị về hiệu quả chỉ liên quan đến 1 tham biến, hiện cũng đang tiến hành xây dựng các chỉ thị mang tính hiệu quả tổng hợp. Các chỉ thị đánh giá tổng hợp Cần phải có một số phép đo nhằm đánh giá tổng mức bền vững để có thể trả lời cho câu hỏi về vấn đề này, ví dụ một dạng “GDP xanh” như Chỉ số thịnh vượng kinh tế bền vững (ISEW). Các chỉ số được tính toán dựa theo các giả thiết ưu tiên là những ví dụ về các chỉ thị có khả năng diễn đạt những thông điệp phức tạp như “Xét một cách toàn diện thì liệu chúng ta có thịnh vượng hơn không?” Tuy nhiên rất khó xây dựng được các chỉ số loại này và quy trình xây dựng rất phức tạp. Một ví dụ của chỉ số này là Chỉ số bền vững môi trường (ISE) do trường đại học Yale và Columbia thiết lập. Chỉ số này đã được cập nhật vào năm 2005, được tổng hợp từ 76 chỉ thị khác nhau bao trùm các lĩnh vực môi trường, kinh tế và quản lý đặc biệt quản lý môi trường. Điểm tối đa của chỉ số này là 100 điểm. Năm 2005, Phần Lan là nước đạt chỉ số cao nhất với 75 điểm. Việt nam cũng đã được đưa vào danh sách các nước tính chỉ số. Việt nam đạt 42.3 điểm và đứng thứ 127 trong số 146 nước trong danh sách. Các chỉ thị đề mục Mục tiêu của các chỉ thị đề mục nhằm phổ biến kiến thức về tất các vấn đề môi trường hiện đang được coi là quan trọng nhất bằng cách sử dụng một số lượng hạn chế (5-20) các chỉ thị được lựa chọn và có tính tổng hợp cao. Từ “Đề mục” được lựa chọn nhằm mục đích cho thấy các chỉ thị này sẽ thể hiện những chủ đề được ưu tiên nhất và đang được quan tâm, giống như những hàng tít trên trang nhất các báo. Các chỉ thị đề mục lưu ý người đọc các xu hướng kinh tế, chính trị và môi trường chủ đạo. Các chỉ thị này nhấn mạnh các diễn biến có lợi cũng như những vấn đề còn tồn đọng, xem xét xu hướng ở mức chung đồng thời đi sâu phân tích một số yếu tố theo ngành. Bảng dưới đây cho thấy ví dụ về một bộ chỉ thị đề mục được xây dựng nhằm chuẩn bị cho các công tác về chỉ thị đề mục tại EU. Các chỉ thị đề mục trong trường hợp này không chỉ đề cập đến khía cạnh môi trường mà còn có các khía 4 cạnh kinh tế-xã hội. Đối với môi trường, các chỉ thị được đề xuất chủ yếu là chỉ thị về động lực và áp lực. Điều này có thể phù hợp ở một khía cạnh nào đó. Tuy nhiên nếu xét đến công chúng là đối tượng tiếp nhận thông tin chính, thì sẽ hợp lý hơn nếu đưa vào các chỉ thị về hiện trạng hoặc tác động. Đồng thời, số lượng chỉ thị cũng cần phải được giới hạn với những chỉ thị được ưu tiên nhất. I.3 Mục đích và việc sử dụng bộ chỉ thị Khái niệm chỉ thị chỉ phù hợp trong mối tương quan với các mục đích cụ thể. Những ví dụ quan trọng về mục đích của chỉ thị môi trường là: Cung cấp thông tin, thông báo cho các chính trị gia, các nhà hoạch định chính sách và công chúng nói chung. Các chỉ thị cho ba mục đích sẽ thường là khác nhau. Để cung cấp thông tin cho các chính trị gia cần có chỉ thị đưa ra câu trả lời rõ ràng cho các chính sách. Các câu hỏi chính sách thường là: Vấn đề đang diễn biến ra sao? và tiến độ đạt được so với các mục tiêu đặt ra trong các chính sách có liên quan? Việc cung cấp thông tin cho các nhà hoạch định chính sách và các nhà quản lý môi trường cần bao gồm các khía cạnh sau: i. hiện trạng môi trường nói chung trong đó bao gồm tất cả các yếu tố DPSIR; ii. cảnh báo sớm, nhờ đó phát hiện kịp thời các vấn đề mới. Các câu hỏi đặt ra là: Tình trạng ô nhiễm đã đến mức báo động hay chưa? Các vấn đề môi trường trước đây chưa được quan tâm có ngày càng trở nên thiết yếu hay không? iii. tiến độ so với mục tiêu đặt ra; Có thực sự đạt được các mục tiêu về môi trường được đặt ra trong các chiến lược và kế hoạch hành động môi trường của chính phủ hay không, hay chúng ta có đang tiến dần đến các mục tiêu đó hay không? Việt nam đã phê chuẩn một số Hiệp định và Công ước quốc tế. Liệu chúng ta có đang thực hiện đúng theo những nghĩa vụ quốc tế này hay không? iv. tiến độ thực thi chính sách: Kết quả của các biện pháp và chính sách được thực hiện với mục tiêu giải quyết các vấn đề môi trường cụ thể là gì? v. hiệu quả của chính sách: So sánh hiệu quả hoạt động môi trường của Việt nam với các nước khác là một trong những cách thể hiện hiệu quả của chính sách. Việc so sánh hiệu quả hoạt động về môi trường giữa các địa phương thậm chí còn hợp lý hơn. Sau khi tìm ra các nước/ các địa phương hoạt động hiệu quả hơn, tốt hơn, có thể rút ra các bài học kinh nghiệm từ các nước/ các địa phương đó. vi. quy hoạch và dự báo nói chung: Việt nam cần tăng trưởng kinh tế để nâng cao mức sống và phúc lợi cho người dân. Tuy nhiên, việc đạt được các mục tiêu về 5 phát triển kinh tế liệu có ảnh hưởng đến tình hình môi trường? Để trả lời câu hỏi mấu chốt này, cần phải có các chỉ thị phù hợp mà đơn giản, có khả năng đại diện các khía cạnh quan trọng của các diễn biến môi trường có liên quan đến việc phát triển kinh tế. Việc cung cấp thông tin cho công chúng cần đảm bảo việc tiếp cận các thông tin môi trường và phục vụ cho mục đích nâng cao nhận thức và sự tham gia của công chúng. Hoạch định chính sách: bao gồm việc đặt ra các mục tiêu và chỉ tiêu, theo dõi các chiến lược và việc xây dựng chiến lược, thực hiện và đánh giá các chính sách. Công tác hoạch định chính sách có thể được các chỉ thị môi trường hỗ trợ. Mục tiêu của các chính sách môi trường cũng như các chính sách cho từng lĩnh vực chính sách cụ thể (nước, không khí...), các chiến lược, nghị định, nghị quyết, quyết định về môi trường... cần được đi kèm với các chỉ thị để có thể đánh giá chính sách. Các chỉ thị này cần được lựa chọn trong giai đoạn xây dựng chính sách và là một phần không thể thiếu của quyết định cuối cùng. Các chỉ thị cũng có thể hỗ trợ việc xây dựng chính sách thông qua việc cung cấp thông tin. Cần có các chỉ thị để theo dõi việc thực thi, để đánh giá chính sách và như vậy có thể cho thấy hiệu quả của chính sách môi trường Nâng cao nhận thức Các chỉ thị có thể phục vụ mục đích tuyên truyền thông tin ví dụ thông qua các chiến dịch, và theo cách này, các chỉ thị sẽ góp phần thay đổi hành vi con người theo cách có lợi cho môi trường. Ở đây, điều quan trọng là các chỉ thị phải đơn giản, rõ ràng và dễ cho thấy mối liên hệ nhân quả. Các chỉ thị có thể được coi như là các minh hoạ cho nội dung thông tin muốn chuyển tải. Cần có thông tin để tăng cường sự tham gia của công chúng và ở đây chỉ thị có thể phục vụ một mục đích quan trọng. Cụ thể, các chỉ thị có thể giúp nâng cao nhận thức nếu chúng có liên quan đến các hậu quả của suy thoái môi trường: các vấn đề về sức khoẻ con người, nguồn tài nguyên cho sinh kế của con người bị suy kiệt....Việc theo dõi hiệu quả và lợi ích của việc cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường có thể được thực hiện và quản lý thông qua việc xây dựng các chỉ thị về vấn đề này (các chỉ thị đáp ứng). Cần lưu ý rằng tuỳ thuộc vào bối cảnh cụ thể, một chỉ thị có thể phù hợp cho một số mục đích cùng một lúc. I.4 Chức năng của chỉ thị và chỉ số môi trường - Cho 1 cái nhìn tổng quan về sự tiến bộ - Tập trung vào sự chú ý của công chúng - Làm gia tăng sự quan tâm của lãnh đạo tới môi trường 6 - Khuyến khích sự thay đổi hành vi, định hướng hành động - Khuyến khích tập trung vào sự phát triển bền vững hơn là vào tăng trưởng kinh tế thuần túy. - Hiệu quả thông tin: chúng giảm số lượng các chỉ số, thông số số mà cần có cho việc trình bầy hiện trạng môi trường một cách bình thường - Đơn giản hóa thông tin: chỉ thị và chỉ số môi trường làm đơn giản hóa quá trình giao tiếp thông tin và thông qua chúng, các kết quả đo lường được cung cấp cho người sử dụng. - Phòng ngừa: chỉ thị và chỉ số môi trường tóm lược hiện trạng môi trường và xã hội hiện tại nhằn cho các tín hiệu về sự thay đổi các tình trạng môi trường - Quyết định: chỉ thị và chỉ thị môi trường đưa ra sự hướng dẫn hiệu quả để hoạch định 1 môi trường bền vững trong tương lai. I.5 Các khía cạnh liên quan đến chất lượng chỉ thị Tính phù hợp Khía cạnh này hiển nhiên đến mức có lúc bị bỏ qua. Tuy nhiên, đây lại là khía cạnh quan trọng nhất. Nếu bạn thấy một chỉ thị cụ thể không phù hợp, không giúp đưa ra câu trả lời cho một câu hỏi cụ thể, thì bạn không cần phải tiếp tục xét đến các khía cạnh chất lượng khác, bạn có thể bác bỏ chỉ thị đó ngay lập tức. Tính chính xác Một chỉ thị cần phải chính xác, có nghĩa là phải có khả năng xác định một cách rõ ràng giá trị chỉ thị từ các dữ liệu tạo nên chỉ thị. Có những lúc cần dựa trên các phán đoán và ước tính. Trong những trường hợp như vậy, cần nêu rõ các giả định cho các phán đoán này. Cũng cần nêu rõ ý nghĩa của các giả định để có thể diễn giải các giá trị của chị thị. Có thể so sánh Cần có khả năng xác định chính xác thành phần chỉ thị. Nếu không thể xác định rõ ràng và chính xác, sẽ không thể so sánh một cách thấu đáo các chỉ thị có liên quan đến các quốc gia, các địa phương, v..v.. khác nhau. Việc không thể xác định rõ ràng và chính xác thành phần chỉ thị cũng có thể gây nên các rắc rối khi so sánh các giá trị chỉ thị theo thời gian. Có những trường hợp sẽ cần phải “định nghĩa lại” một chỉ thị. Trong những trường hợp như vậy, định nghĩa mới cũng như sự khác nhau giữa định nghĩa mới và định nghĩa trước đây cũng phải thật chính xác. Trong trường hợp có các giá trị biến 7 thiên theo thời gian của chỉ thị, ảnh hưởng của việc định nghĩa lại đối với việc diễn giải các giá trị theo thời gian của chỉ thị cần được giải thích cụ thể. Tính nhất quán Cần xác định rõ ràng mối liên hệ giữa việc xây dựng các giá trị chỉ thị và những diễn biến trên thực tế mà chỉ thị đó được xây dựng để giám sát. Nói một cách khác: mỗi khi giá trị chỉ thị tăng lên, phải có thể diễn giải sự gia tăng đó theo cùng một cách: có nghĩa là sự tăng lên đó luôn thể hiện một tình hình hoặc xấu đi, hoặc tốt hơn. Khả năng đáp ứng Một chỉ thị phải có tính phản ứng cao đối với diễn biến mà chỉ thị đó được dùng để đo lường. Điều này ít nhiều có liên quan đến kích thước mẫu và tính đại diện của mẫu dữ liệu tạo nên chỉ thị. Tính liên tục Chỉ thị cần phải được cập nhật đều đặn để nó có giá trị như là một chỉ thị. Tính sẵn có Việc thu thập các dữ liệu tạo nên chỉ thị cần phải khả thi về mặt kỹ thuật cũng như về mặt tài chính. Cần phải luôn so sánh tầm quan trọng của thông tin mà một chỉ thị có thể cung cấp (nếu đạt được tiêu chuẩn về chất lượng) với chi phí thu thập các dữ liệu cần thiết để xây dựng chỉ thị đó. II. CÁC TIÊU CHÍ LỰA CHỌN CHỈ THỊ MÔI TRƯỜNG NÓI CHUNG Có một điều khá rõ ràng là càng áp dụng nhiều chỉ thị (đạt tiêu chuẩn về chất lượng), càng có thể mô tả một cách cụ thể các diễn biến môi trường. Tuy nhiên, cũng rõ ràng là tuỳ thuộc vào từng bối cảnh cụ thể, việc có quá nhiều các chỉ thị có thể làm rối bức tranh về hiện trạng môi trường trong khi có thể cái đang cần lại là một cái nhìn tổng thể. Một nhà quyết sách ở tầm quốc gia (ví dụ như ở Quốc hội) có thể sẽ chỉ cần một hay một vài chỉ thị đại diện cho một lĩnh vực môi trường, trong khi đó các cá nhân đang phải xử lý các vấn đề cụ thể hơn, đang phải thực thi hay đánh giá các chính sách, các biện pháp, có thể sẽ cần một số lượng các chỉ thị lớn hơn rất nhiều. Tương tự như vậy, đối với công tác nâng cao nhận thức cộng đồng, một bộ chỉ thị khác, một số lượng chỉ thị khác có thể sẽ phù hợp hơn. Tuy nhiên, do các chỉ thị khá tốn kém, nên sẽ phải có thứ tự ưu tiên. Trong trường hợp như vậy, những ưu tiên trong các chiến lược và kế hoạch hành động quốc gia sẽ là kim chỉ nam. Trong các lĩnh vực được ưu tiên, cần ưu tiên xây dựng các chỉ thị có khả năng phục vụ nhiều mục đích thông tin nhất. Trong quá trình xây dựng bộ chỉ thị, cần đạt được sự cân bằng giữa chất lượng chỉ thị cao và khả năng phục vụ nhiều mục đích thông tin của chỉ thị. Do 8 đó, cần phải xem xét tính sẵn có hiện thời của dữ liệu phục vụ chỉ thị cũng như các yếu tố kỹ thuật, tài chính trong việc xây dựng chỉ thị. Mô hình DPSIR có thể giúp phục vụ cho việc lựa chọn được các chỉ thị hợp lý. Trong quá trình đánh giá tính hữu dụng của các chỉ thị hiện tại và rộng hơn nữa là trong quá trình xác định các chỉ thị phù hợp và khả thi, lấy nhu cầu của người sử dụng với cương vị là nhà quản lý môi trường làm xuất phát điểm, có thể cách tiếp cận dưới đây sẽ giúp ích: • Trong lĩnh vực môi trường đang đề cập tới, xác định các vấn đề và/hoặc các đặc tính quan trọng nhất. • Xác định mục đích thông tin đầu tiên cần có từ chỉ thị. • Sử dụng mô hình DPSIR nhằm hỗ trợ cho việc xác định những chỉ thị mang tính chiến lược nhất (với một số lượng ít nhất các chỉ thị có thể phục vụ nhiều nhất các mục đích thông tin) để đạt được các mục đích thông tin trên. Để hỗ trợ cho quá trình này, có thể đặt ra bốn câu hỏi chung sau: i) Vấn đề đang diễn biến như thế nào? (có liên quan đến các chỉ thị về hiện trạng); ii) Các ngành/ tác nhân/ quy trình đang đóng vai trò như thế nào? (liên quan đến các chỉ thị về áp lực); iii) Các tác động đang diễn biến như thế nào? (liên quan đến các chỉ thị về tác động); iv) tính hiệu quả của các biện pháp đáp ứng? (liên quan đến các chỉ thị về đáp ứng). • Kiểm tra lại tính sẵn có cuả các dữ liệu hiện tại và xem xét các khía cạnh liên quan đến chất lượng chỉ thị. • Nếu cần, kiểm tra các khả năng cải thiện tính sẵn có của dữ liệu: các khả năng trước mắt cũng như trong thời gian ngắn hạn. • Lựa chọn các chỉ thị. Tiếp theo đó, quy trình lựa chọn có thể được tiến hành theo những tiêu chí lựa chọn chung sau, các tiêu chí này là kết quả của việc xem xét các vấn đề trong chương III về mục đích chỉ thị và các khía cạnh liên quan đến chất lượng chỉ thị: 1.Tính phù hợp với chính sách: được kiểm nghiệm qua việc xem xét tham khảo các văn bản chính sách, các kế hoạch, luật định, v..v... 2.Giám sát tiến độ so với mục tiêu đề ra: được kiểm nghiệm thông qua các thông tin trong các văn bản chính sách. Trong trường hợp thiếu các mục tiêu, có thể sử dụng mức ngưỡng. 3. Mức độ bao phủ về mặt không gian và thời gian. Nhất quán về không gian và có tính đến các tỉnh phù hợp đối với một vấn đề môi trường nhất định. Chỉ thị bao phủ một khoảng thời gian đủ để có thể cho thấy xu hướng theo thời gian. 9 4. Phù hợp với cấp độ tỉnh và mang tính đại diện cho các tỉnh nhằm hỗ trợ việc so sánh 5. Phù hợp với việc so sánh, ví dụ như so sánh giữa các tỉnh. Khi so sánh nếu một tỉnh vượt trội tỉnh khác về điểm số thì chứng tỏ có thể học được một số điều từ tỉnh này. 6. Đơn giản và dễ hiểu nhờ có một định nghĩa rõ ràng và thống nhất về chỉ thị và việc trình bày chỉ thị một cách hợp lý. Không nên có những thông điệp mâu thuẫn, điều này có nghĩa là phải luôn luôn đối chiếu với các chỉ thị khác. 7. Phải có cơ sở về mặt khái niệm cũng như phương pháp luận Điều này phải được thể hiện trong các mô tả về phương pháp luận và công thức sử dụng, các tham khảo khoa học cho phương pháp luận và công thức đó. Tất cả những mô tả này cần được đưa vào phần tài liệu hoá của chỉ thị. 8. Được tài liệu hoá đầy đủ và quản lý được chất lượng. Điều này được đánh giá bằng cách thực hiện kiểm tra công tác tài liệu hoá đối với chỉ thị và mức độ đều đặn các tài liệu này được cập nhật. Hệ thống quản lý chỉ thị sẽ hỗ trợ các công việc này, hệ thống này sẽ đem lại tính minh bạch và là cơ sở để có thể quản lý tốt hơn quy trình xây dựng và công bố chỉ thị. 9. Tính sẵn có của dữ liệu. Việc thu thập các đữ liệu phục vụ cho chỉ thị cần mang tính khả thi cả về mặt chuyên môn cũng như tài chính. Cần luôn có sự cân nhắc giữa mức độ quan trọng của thông tin mà chỉ thị có thể đem lại (giả thiết với chất lượng đạt yêu cầu) với chi phí thu thập dữ liệu phục vụ cho chỉ thị. Trong quy trình lựa chọn chỉ thị, vấn đề này cần được xem xét trong ngắn hạn cũng như trong dài hạn. Trong trường hợp dữ liệu không sẵn có trong ngắn hạn, có thể lựa chọn một chỉ thị biểu kiến hoặc một chỉ thị thay thế khác và sau đó nên tiếp tục xem xét các khả năng thu thập dữ liệu thích hợp trong thời gian dài hạn Các tiêu chí lựa chọn, tính thích hợp của các tiêu chí lựa chọn cũng như mức độ quan trọng của các tiêu chí lựa chọn đã được xem xét. Các mục đích của chỉ thị theo đó được tóm tắt thành 07 mục đích và các tiêu chí lựa chọn đối với từng mục đích đã được xem xét đánh giá (Bảng 1). Các tiêu chí lựa chọn đã được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên (Bảng 2). Bảng 1. Mục đích sử dụng chỉ thị môi trường được chia thành 7 loại sắp xếp theo các tiêu chí lựa chọn Mục đích Cung cấp thông tin cho các chính trị gia và các nhà hoạch định chính sách: Vấn đề đang tiến triển như thế nào? 10 Cung cấp thông tin cho các chính trị gia và các nhà hoạch định chính sách: Các tiến độ đạt được so với mục tiêu đề ra? Cung cấp thông tin cho các nhà hoạch định chính sách: Quy hoạch và dự báo nói chung – mối liên hệ giữa phát triển kinh tế và quản lý môi trường Hoạch định chính sách: tiến độ thực thi chính sách Hoạch định chính sách: hiệu quả của chính sách Hoạch định chính sách: so sánh, so sánh dùng mức chuẩn (benchmarking) Cung cấp thông tin cho cộng đồng: nâng cao nhận thức Bảng 2. Xếp hạng các tiêu chí lựa chọn chỉ thị môi trường nói chung A. Phù hợp về chính sách B. Tính sẵn có của dữ liệu C. Tính so sánh và so sánh dùng mức chuẩn (benchmarking) D. Được tài liệu hoá đầy đủ và quản lý được chất lượng chỉ thị E. Có cơ sở về khái niệm và phương pháp luận F. Tính chính xác của số liệu G. Độ bao phủ về không gian và thời gian H. Tính liên tục của số liệu I. Tính đơn giản và dễ hiểu III. CÁC TIÊU CHÍ ĐỂ LỰA CHỌN CHỈ THỊ SINH HỌC Có nhiều chỉ thị có tiềm năng sử dụng và cần lựa chọn các chỉ thị 1 cách sáng suốt dựa trên tính phù hợp, khả năng kỹ thuật và tính khả thi. Có sự sai khác giữa các vùng địa lý nên ảnh hưởng tới việc chọn lựa các chỉ thị, thu xếp các đối tác cần thiết. Bộ chỉ thị đầy đủ đề xuất cho 1 khu vực nào đó cần được thử nghiệm để xác định tính bổ khuyết lẫn nhau giữa các chỉ thị để xem các chỉ thị đó có bao quát đầy đủ các vấn đề chính hay không. Ví dụ, có nhiều chỉ thị khác nhau cho cùng những vùng tương tự nhau, có thể chỉ nên xây dựng 1 chỉ thị hoặc tập hợp con các chỉ thị. Tốt hơn là nhóm nhiều biến số thành 1 chỉ thị hoặc kết hợp 1 số chỉ thị đã đề xuất thành các chỉ số. Những đặc tính quan trọng hay mong muốn của dạng chỉ thị gồm: (i) phản ứng có thể đo lường được có thể xem như sự phản hồi đầy đủ về điều kiện sinh thái hoặc 11 tình trạng nguyên vẹn ở 1 vị trí hay 1 vùng; (ii) nơi quần xã hay nhóm loài có thể tụ tập, cùng với các điều kiện môi trường được phân tích dùng nhiều trong các qui trình nghiên cứu; (iii) cách thức thu mẫu và phân tích dữ liệu được chuẩn hóa tối đa, (iv) phản ứng được xác định nhanh chóng, rẻ tiền với kết luận nhanh; (v) kết quả dễ hiểu cho cả những người không phải là nhà khoa học; và (vi) phản ứng có giá trị đặc trưng. Một hệ thống dựa trên sự tương thích giữa các vùng, vị trí tham khảo được xem xét thích hợp hơn trong: - Tham khảo các nhóm vị trí sinh học được xác định dựa trên sự phân loại thu từ những vùng tương tự. - Những mối liên quan được phát triển giữa tính biến thiên của môi trường và các nhóm sinh học. - Sự dự báo được hình thành từ thành phần phân loại ở ở vị trí môi trường biến đổi - Những so sánh được tạo ra từ thành phần quần xã dự báo hay mong muốn với vị trí kiểm tra và thông báo bằng các chỉ số chuẩn. Một chỉ thị cảnh báo sớm có thể được mô tả như phản ứng sinh học, vật lý, hóa học có thể đo lường được trong mối quan hệ với các tác động chống lại xảy ra trong hệ đang quan tâm. Khái niệm nền tảng của chỉ thị cảnh báo sớm là cho những tác động có thể được kháng lại, chỉ ra sự tấn công của những tác động đến môi trường hiện tại. Cảnh báo sớm để tạo cơ hội cải tạo môi trường trước khi xảy ra những tác hại nghiêm trọng. Những thuộc tính lý tưởng của chỉ thị cảnh báo sớm được thảo luận rộng rãi , và được tổng hợp thành dạng đầy đủ như dưới đây: • Phòng ngừa: xảy ra ở những mức bộ phận về mặt sinh học và sinh lý, đưa ra chỉ thị về sự thoái hóa hoặc 1 vài dạng tác động biến đổi trước khi xảy ra những tác hại nghiêm trọng cho môi trường. • Nhạy cảm: trong việc phòng ngừa những tác động nghiêm trọng trước khi chúng xảy ra, 1 chỉ thị cảnh báo sớm phải phải nhạy cảm với nồng độ thấp, hoặc những giai đoạn sớm lan tràn. • Đặc trưng. • Tính ứng dụng phổ biến: nói cách khác, 1 chỉ thị cảnh báo sớm cần dự đoán tác động có thể xảy ra từ mức độ nhỏ các chất ức chế. 12 • Tương quan với những tác động môi trường tức thời: các tri thức quan trọng mà được trinh bày về chất ức chế, sau đó sự biểu hiện của phản ứng, thậm chí dẫn đến tác động môi trường nghiêm trọng. • Tác động có giá trị và kịp thời: cần cung cấp thôngtin nhanh chóng để việc quản lý tác động ban đầu ưu tiên cho những tác động môi trường quan trọng xảy ra, và không quá đắt để đo đạc trong khi cung cấp tối đa thông tin trong mỗi đơn vị tác động. • Liên quan vùng và địa phương: cần có mối tương quan giữa hệ sinh thái được khảo sát và giá trị thu được và hàm lượng dự đoán. • Dễ đo đạc: nên áp dụng quy trình chuẩn từ nguồn đáng tin cậy và sai xót thấp. • Không thay đổi về không gian và thời gian: có thể trong phạm vi thay đổi nhỏ và cần phân biệt những phản ứng lại với tác động có nguồn gốc từ con người, không phải bởi nhân tố tự nhiên (tần số cao: tỷ lệ tiếng ồn). • Không phá hủy: giá trị đo được từ chỉ thị không được phá hủy hệ sinh thái đang khảo sát. Tầm quan trọng của những thuộc tính trên không thể được nhấn mạnh quá mức, vì những khảo sát thực tế hay sự suy thoái tiềm năng môi trường chỉ tác động như những chỉ thị được chọn lựa để thử nghiệm chúng. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng không thể có 1 chỉ thị sinh học cảnh báo sớm sở hữu tất cả những thuộc tính trên. Trong nhiều trường hợp 1 vài trong số chúng sẽ xung đột với nhau hoặc không thể có được. Ví dụ, 1 dấu hiệu sinh hóa có thể cho thấy chỉ thị quan trọng về sự lan tràn ô nhiễm, nhưng không tương quan với những tác động của các bộ phận sinh học ở mức độ cao hơn. Ngoài ra, dấu hiệu sinh học không thể được áp dụng cho những dạng ô nhiễm khác. Tương tự, 1 chương trình quan trắc dài kỳ có thể mang lại dữ liệu cơ bản sẽ quan sát được, nhưng không thể mang lại cả 2 giá trị về thời gian và tác động. Sau đó không phải tất cả các thuộc tính có được ở mỗi nhân tố. Vì vậy, chọn lựa những thuộc tính phù hợp hơn với mục đích riêng, những chỉ thị được chọn lựa dựa trên những thuộc tính đó. Từ đó có định hướng để đưa ra các tiêu chí xây dựng bộ chỉ thị sinh học. Việc chọn lựa các chỉ thị cần dựa trên một số tiêu chí (sự sắp xếp không theo thứ tự tầm quan trọng): (1) Tính phù hợp với chính sách: được kiểm nghiệm qua việc xem xét tham khảo các văn bản chính sách, các kế hoạch, luật định... 13 Về mặt quản lý, các chỉ thị phải: - Phù hợp với mục tiêu. - Liên kết rõ ràng với kết quả đang giám sát. - Được xây dựng với tất cả các yếu tố của quá trình quản lý. - Là 1 phần của quá trình quản lý chứ không phải điểm kết thúc. (2) Giám sát tiến độ so với mục tiêu đề ra: được kiểm nghiệm thông qua các thông tin trong các văn bản chính sách. Trong trường hợp thiếu các mục tiêu, có thể sử dụng mức ngưỡng cho phép. (3) Mức độ bao phủ về mặt không gian và thời gian. Nhất quán về không gian quốc gia hay các tỉnh/thành phù hợp đối với một vấn đề môi trường nhất định. Chỉ thị bao phủ đủ một khoảng thời gian để có thể cho thấy xu hướng theo thời gian. Thông thường chuỗi số liệu được đánh giá xác định trong khoảng thời gian 5 năm (tính đến thời điểm số liệu được cập nhật tại năm đó) (4) Phù hợp với cấp độ quốc gia hay cấp tỉnh/thành, mang tính đại diện cho các địa phương hoặc cấp khu vực nhằm hỗ trợ việc so sánh. (5) Phù hợp với việc so sánh, ví dụ như so sánh giữa các địa phương. Khi so sánh nếu một tỉnh vượt trội tỉnh khác về ưu điểm thì chứng tỏ có thể học được một số điều từ tỉnh này. (6) Đơn giản và dễ hiểu nhờ có một định nghĩa rõ ràng và thống nhất về chỉ thị và việc trình bày chỉ thị một cách hợp lý. Không nên có những thông điệp mâu thuẫn, điều này có nghĩa là phải luôn luôn đối chiếu với các chỉ thị khác. Các chỉ thị có thể được truyền đạt dễ dàng đến các nhà hoạch định chính sách như tín hiệu thông báo sớm, có thể để các bên liên quan và xã hội hiểu được thông điệp rõ ràng về hiện trạng thủy vực ở Việt Nam. (7) Phải có cơ sở về mặt khái niệm cũng như phương pháp luận. Điều này phải được thể hiện trong các mô tả về phương pháp luận và công thức sử dụng, các tham khảo khoa học cho phương pháp luận và công thức đó. Tất cả những mô tả này cần được đưa vào phần tài liệu hoá của chỉ thị. (8) Được tài liệu hoá đầy đủ và quản lý được chất lượng. Điều này được đánh giá bằng cách thực hiện kiểm tra công tác tài liệu hoá đối với chỉ thị và mức độ đều đặn các tài liệu này được cập nhật. Hệ thống quản lý chỉ thị sẽ hỗ trợ các công việc này, hệ thống này sẽ đem lại tính minh bạch và là cơ sở để có thể quản lý tốt hơn quy trình xây dựng và công bố chỉ thị. 14 (9) Tính sẵn có của dữ liệu. Việc thu thập các dữ liệu phục vụ cho chỉ thị cần mang tính khả thi cả về mặt chuyên môn cũng như tài chính. Cần luôn có sự cân nhắc giữa mức độ quan trọng của thông tin mà chỉ thị có thể đem lại (giả thiết với chất lượng đạt yêu cầu) với chi phí thu thập dữ liệu phục vụ cho chỉ thị. Trong quy trình lựa chọn chỉ thị, vấn đề này cần được xem xét trong ngắn hạn cũng như trong dài hạn. Trong trường hợp dữ liệu không sẵn có trong ngắn hạn, có thể lựa chọn một chỉ thị biểu kiến hoặc một chỉ thị thay thế khác và sau đó nên tiếp tục xem xét các khả năng thu thập dữ liệu thích hợp trong thời gian dài hạn. Cần chú ý đến dữ liệu có chất lượng và bao quát về không gian và thời gian. Từ những tiêu chí trên cần sắp xếp theo thứ tự tầm quan trọng của chúng, dựa trên chính sách, đường lối chỉ đạo của tổ chức chính quyền và nhà chỉ đạo. IV. ĐỀ XUẤT TIÊU CHÍ CHỌN LỰA SINH VẬT CHỈ THỊ THEO ĐIỀU KIỆN VIỆT NAM Như đã trình bày trong các khái niệm về sinh vật chỉ thị. Có thể phân biệt hai nhóm sinh vật sử dụng làm chỉ thị môi trường gồm có những đặc tính: • Có tính nhạy cảm hoặc chống chịu • Có khả năng tích tụ chất gây ô nhiễm. Từ những kinh nghiệm đã được nghiên cứu áp dụng, các nhóm, loài sinh vật chỉ thị môi trường nói chung cần thoả mãn các tiêu chí cơ bản như sau: Nhóm loài sinh vật chỉ thị môi trường - Dễ thu mẫu ngoài thiên nhiên, có số lượng nhiều, kích thước vừa phải - Ổn định về phân loại học. - Có khoá định loại tốt, đã được định loại rõ ràng. - Nhiều đặc trưng dễ nhận biết: những loài sinh vật chỉ thị có đặc trưng dễ nhận biết sẽ giúp cho người thực hiện quan trắc nhưng không có nhiều kiến thức chuyên sâu về sinh học có thể nhận dạng và xác định được loài chỉ thị cần quan trắc. - Phân bố rộng rãi (tối ưu là phân bố toàn cầu): loài sinh vật phân bố rộng rãi là loài có khả năng thích ứng cao với nhiều điều kiện môi trường. - Phổ biến và phong phú ở địa phương và ở tất cả thời gian - Có nhiều dẫn liệu về đặc điểm sinh học và sinh thái cá thể của đối tượng qua thử nghiệm sinh học. - Có vòng đời ngắn, năng suất sinh học cao 15 - Thích hợp cho các nghiên cứu ở phòng thí nghiệm: trong điều kiện nghiên cứu và phân tích ở Việt Nam, chưa được đầu tư nhiều đối với việc quan trắc và phân tích các thông số thủy sinh, chính vì vậy, đây cũng là một trong những yêu cầu cần thiết để việc đánh giá, phân tích đạt kết quả chất lượng cao, đảm bảo tính chính xác. - Nhạy cảm hoặc có khả năng thích ứng cao với sự biến đổi của môi trường thủy vực (nhạy cảm đối với những thay đổi bất thường của môi trường, sự ô nhiễm có phạm vi rộng gây ra các phản ứng, từ điều kiện tối ưu đến điều kiện gây chết). cao. Biện pháp thu và bảo quản mẫu dễ dàng, đơn giản nhưng cho ý nghĩa chỉ thị Nhóm loài sinh vật chỉ thị tích tụ - Dễ dàng nhận diện. - Tương đối phong phú và đại diện được cho môi trường nơi chúng sống. - Có khả năng tích luỹ chất ô nhiễm tới những mức cho phép phân tích trực tiếp mà không có hiệu ứng chết. - Có tương quan được xác định rõ giữa nồng độ chất ô nhiễm trong các mô của sinh vật và trong môi trường ở tất cả các điểm nơi chúng sống. - Có kích thước đủ lớn để cung cấp đủ các mô cho phân tích tin cậy. - Dễ nuôi, dễ lưu giữ trong các điều kiện phòng thí nghiệm, ít biến dị. - Ít di chuyển để các mức ô nhiễm trong mô phản ánh đúng các chất gây ô nhiễm của môi trường nơi chúng được thu mẫu. - Có mặt khắp nơi trong khu vực phân bố để cho phép so sánh giữa những môi trường địa lý riêng biệt, nhưng lại giống nhau. Trong thực tế, không một loài đơn lẻ nào có thể đáp ứng được các tiêu chí trên và đương nhiên phải dung hoà để chọn được loài có thể sử dụng làm sinh vật tích tụ trong các chương trình giám sát ô nhiễm. Hiện có hai cách khác nhau mà qua chúng các sinh vật tích tụ được khai thác. Quan trắc thụ động đối với tình trạng nơi những sinh vật bản địa được thu mẫu từ những nơi cư trú đặc biệt để phân tích hoá học mô của chúng. Quan trắc sinh học chủ động gồm sự tìm kiếm nơi ở và phơi nhiễm thận trọng các sinh vật thường thu được từ vùng không ô nhiễm. Tính ưu việt của sử dụng các phương pháp quan trắc sinh học chủ động là khả năng sử dụng các sinh vật từ cùng nguyên liệu di truyền gốc tại nhiều điểm. Nhiều loài có thể sử dụng làm sinh vật quan trắc sinh học, một số trong chúng là nguồn thực phẩm cho người. Trong các hệ sinh thái nước, cần nhấn mạnh tới việc 16 sử dụng thực vật lớn (Macrophytes) và động vật thân mềm như các sinh vật tích tụ do chúng đáp ứng được nhiều tiêu chí đã liệt kê ở trên. Từ những phân tích trên, các tiêu chí lựa chọn sinh vật chỉ thị và sinh vật tích tụ mới dừng ở ở mức sử dụng loài chỉ thị nhằm đánh giá chất lượng môi trường nói chung, môi trường nước nói riêng. Việc sử dụng loài sinh vật chỉ thị cho tới nay cũng chỉ dừng ở mức độ đánh giá chất lượng môi trường một cách định tính. Mặt khác, việc xác định chính xác sự hiện diện của một loài hoặc một số loài thuỷ sinh vật có mặt hoặc không có mặt trong vực nước đòi hỏi phải có kiến thức phân loại học khá sâu, nhất là với các nhóm động vật KXS có kích bé như động vật nổi, trùng bánh xe. Bởi vậy, trong thực tế ở nhiều nước, đã sử dụng quần xã sinh vật chỉ thị bao gồm nhiều nhóm động vật thuỷ sinh khác nhau với bậc phân loại (taxon) thấp nhất là họ (family) nhằm tạo điều kiện dễ dàng cho nhân viên quan trắc môi trường. IV. KẾT LUẬN Từ những lý do đó, để phù hợp với tính hình thực tế ở Việt Nam, tiêu chí cho việc xây dựng bộ sinh vật chỉ thị đánh giá nhanh môi trường nước chảy được đề xuất như sau: • Các nhóm sinh vật đều là những nhóm vốn thích nghi với điều kiện nước chảy, có kích thước vừa phải, có thể quan sát bằng mắt thường hoặc bằng lúp. Các nhóm sinh vật có kích thước có thể quan sát bằng mắt thường sẽ thuận lợi và đơn giản hơn trong quá trình quan trắc và phân tích. • Các nhóm sinh vật lựa chọn trong bộ chỉ thị bao gồm cả các mức phản ứng môi trường khác nhau từ nhóm có tính nhạy cảm cao cho tới các nhóm có tính chống chịu lớn với điều kiện biến đổi của môi trường. • Bậc phân loại sinh vật thấp nhất ở mức họ (family) để dễ nhận diện đối với quan trắc viên không phải là nhà sinh học. • Đã có những hiểu biết về đặc tính sinh thái: việc xác định các đặc tính sinh thái của loài cũng đặc biệt quan trọng trong quá trình nghiên cứu. Những nhóm loài chỉ thị đã có những nghiên cứu để xác định đặc tính sinh thái đặc trưng sẽ hỗ trợ tốt cho quá trình nhận dạng, xác định tập tính và khu vực cư trú của loài. • Dễ thu mẫu với các dụng cụ rẻ tiền, tiện lợi: theo điều kiện thực tế của Việt Nam, vấn đề kinh phí để triển khai thực hiện là một trong những điều kiện để có thể triển khai áp dụng trên phạm vi rộng và chương trình dài hạn. 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng