Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nông - Lâm - Ngư Nông nghiệp Ky thuat chan nuoi bo thit cao san trong nong ho...

Tài liệu Ky thuat chan nuoi bo thit cao san trong nong ho

.PDF
32
455
100

Mô tả:

Ky thuat Chan nuoi bo thit cao san trong nong ho
TS. LÊ VĂN THÔNG - TS. LÊ BÁ QUẾ - TS. PHẠM VĂN TIỀM - TS. PHÙNG THẾ HẢI - TS. HÀ MINH TUÂN - THS. GIANG THỊ THANH DUYẾN - THS. LƯƠNG ANH DŨNG - THS. NGUYỄN THỊ THU HÒA CHỦ BIÊN TS. LÊ VĂN THÔNG KỸ THUẬT CHĂN NUÔI BÒ THỊT CAO SẢN TRONG NÔNG HỘ NHÀ XUẤT BẢN LAO ĐỘNG – XÃ HỘI HÀ NỘI - 2015 1 2 MỤC LỤC Lời giới thiệu Chương 1: Chăn nuôi bò thịt trên thế giới I. Khái quát về chăn nuôi bò thịt trên thế giới II. Một số giống bò thịt trên thế giới Chương 2: Công tác giống trong chăn nuôi bò thịt và kết quả lai tạo bò thịt cao sản ở Việt Nam I. Công tác giống trong chăn nuôi bò thịt II. Kết quả lai tạo bò thịt ở Việt Nam III. Ngành chăn nuôi chủ động hội nhập khi hiệp định TPP có hiệu lực Chương 3: Kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng bò thịt cao sản I. Đặc điểm tiêu hoá thức ăn của bò II. Kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng bò thịt cao sản qua các giai đoạn Chương 4: Sản xuất và chế biến một số loại thức ăn nuôi bò thịt cao sản I. Kỹ thuật trồng một số loại cây thức ăn cho bò II. Một số biện pháp bảo quản và chế biến thức ăn cho bò thịt cao sản Chương 5: Chuồng trại và xử lý chất thải trong chăn nuôi bò thịt cao sản I. Chuồng trại II. Xử lý chất thải Chương 6: Phòng trị một số bệnh thường gặp và các biện pháp chống đói, rét trong vụ đông xuân trong chăn nuôi bò thịt cao sản I. Phòng trị một số bệnh thường gặp II. Các biện pháp chống đói - rét cho bò trong vụ đông xuân Chương 7: Quản lý đàn bò thịt I. Phương thức chăn nuôi II. Công tác quản lý đàn bò thịt III. Cách tính hiệu quả kinh tế Trang 4 5 5 7 10 10 12 Theo kết quả báo cáo sơ bộ tổng điều tra của Tổng cục Thống kê, tại thời điểm 1-4-2015 cả nước có 5,3 triệu con bò, tăng 2,7% so với cùng kỳ năm 2014. Để nâng cao số lượng, chất lượng đàn bò chúng ta phải phát triển, cải tạo đàn bò hiện đang nuôi thành đàn bò thịt có năng suất, chất lượng cao. Để có thể thực hiện được các mục tiêu trên, bên cạnh các biện pháp về tổ chức quản lý, cần phải có các biện pháp khoa học kỹ thuật. Với tinh thần đó Trung tâm Giống gia súc lớn TW – Viện Chăn nuôi biên soạn và xuất bản cuốn sách “Kỹ thuật chăn nuôi bò thịt cao sản trong nông hộ” Trong cuốn sách này, các tác giả muốn chuyển tải đến người chăn nuôi bò các thông tin về giống, thức ăn, dinh dưỡng, chuồng trại, phòng trừ dịch bệnh và xử lý chất thải bảo vệ môi trường trong chăn nuôi bò thịt cao sản trong nông hộ nhằm giúp người chăn nuôi nắm bắt được kỹ thuật chăn nuôi bò thịt cao sản và đạt hiệu quả kinh tế cao trong chăn nuôi bò và chủ động hội nhập TPP. 17 22 22 24 32 32 Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu cuốn sách và mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc. 37 Chủ biên TS. LÊ VĂN THÔNG 46 46 48 53 53 58 62 62 63 64 Chương 1 CHĂN NUÔI BÒ THỊT TRÊN THẾ GIỚI I. KHÁI QUÁT VỀ CHĂN NUÔI BÒ THỊT TRÊN THẾ GIỚI LỜI GIỚI THIỆU Ở nước ta, trước kia chăn nuôi bò chủ yếu là để cung cấp sức kéo, hiện nay nhu cầu sức kéo từ bò vẫn còn nhưng không lớn. Chúng ta đang chuyển dần việc chăn nuôi bò để cày, kéo sang chăn nuôi bò lấy thịt, lấy sữa là chính. 3 Ở những nước phát triển trên thế giới, ngành chăn nuôi bò thịt thường được chuyên môn hoá theo 2 hướng: nuôi bò chuyên thịt, hoặc nuôi bò kiêm dụng sữa-thịt. Đặc điểm nổi bật của giống bò chuyên thịt là có thân hình vạm vỡ, mình tròn, mông và vai phát triển như nhau, nhìn tổng thể bò có hình chữ nhật. Khối lượng con cái trưởng thành từ 500-800 kg, khối lượng con đực 4 trưởng thành từ 800-1.400 kg. Bò chuyên thịt có tỷ lệ thịt xẻ cao, đạt từ 6070% và thích nghi với nuôi chăn thả cũng như vỗ béo. phải có công đoạn vỗ béo. Vỗ béo là dùng biện pháp dinh dưỡng, chăm sóc nuôi dưỡng làm cho khối lượng con vật tăng nhanh và phẩm chất thịt được cải thiện. Nước Anh, từ thế kỷ thứ 18 đã tạo ra nhiều giống bò chuyên dụng thịt nổi tiếng thế giới như giống bò Hereford, giống bò Shorthorn, giống bò Aberdine Angus, Red Angus,.. Những giống bò này đã được nhập vào nhiều nước kể cả nước phát triển và đang phát triển để nhân thuần làm giống hoặc nuôi lấy thịt hoặc lai tạo với các giống khác tạo ra giống nuôi thích ứng với điều kiện khí hậu và nuôi dưỡng chăm sóc của địa phương. Thời gian vỗ béo tùy thuộc vào phương thức vỗ béo, thức ăn, giống, độ béo của bò. Thời gian vỗ béo quá ngắn thì thịt sẽ nhiều nước, thời gian vỗ béo thích hợp thì chất lượng thịt sẽ cao hơn. Khẩu phần thức ăn vỗ béo cho bò giàu đạm và nhiều sắt thì thịt bò sẽ đỏ đậm, khẩu phần thức ăn có nhiều bột bắp thì mỡ bò sẽ vàng, thịt thơm ngon và khẩu phần thức ăn có tỷ lệ các phụ phẩm công nghiệp thì thịt bò có thớ lớn và nhiều mỡ giắt (mỡ giữa các lớp thịt). Ngoài ra, thời gian nuôi còn phụ thuộc tập quán, thị hiếu của người tiêu dùng mỗi nước. Các nước châu Âu và Australia, người tiêu dùng thích thịt bò mềm, màu đỏ nhạt, lại ít “mùi bò”,... do vậy thường chỉ nuôi bò thịt đến 15 hoặc 18 tháng tuổi là đưa giết thịt. Nhưng ở thị trường Nhật bản và một số nước châu Á, người tiêu dùng lại ưa chuộng loại thịt bò có mỡ giắt và dậy “mùi bò” nên bò được nuôi đến 3-4 năm tuổi mới giết thịt Các nước châu Mỹ, từ thế kỷ thứ 17, 18 đã có 17 nước nhập các giống bò Zebu của Ấn Độ và Pakistan. Trong đó có các giống như bò Red Sindhi, Sahiwal, Gyr, Hariana, Ongole,.... Các nước này đã dùng các giống bò Zebu nhập nội để cải tiến giống trong nước và lai tạo nhiều giống Zebu nhập nội với nhau để tạo ra giống bò thịt nhiệt đới nổi tiếng như giống bò Brahman, Indo Brezyl,... Từ giống bò Brahman, nước Mỹ lại tiếp tục lai giống bò này với giống bò Shorthorn của Anh tạo ra giống bò thịt nổi tiếng của Mỹ là giống Santa gertrudis, với tỷ lệ máu 5/8 bò Shorthorn và 3/8 bò Brahman. Các giống bò thịt nổi tiếng khác như bò Droughmaster, bò Charbray, bò Braford, bò Brangus,... đều là những giống bò thịt có máu bò Brahman và các giống nổi tiếng khác như Shorthorn, Hereford, Angus,..... Ngoài các giống bò chuyên thịt, ở các cơ sở chăn nuôi bò sữa, người ta cũng chọn lọc những bê đực khỏe mạnh đưa vào nuôi dưỡng với một chế độ thích hợp để vỗ béo và giết mổ. Đây cũng là những nguồn cung cấp sản phẩm thịt bò chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng sản lượng thịt bò. Kỹ thuật chăn nuôi thâm canh bò thịt hiện nay là chọn lọc những bê khỏe mạnh của các giống cao sản chuyên thịt, đưa vào chăm sóc với chế độ dinh dưỡng cao để đạt được khối lượng giết mổ cao nhất ở giai đoạn bê sinh trưởng với cường độ cao nhất (dưới 24 tháng tuổi ). Các khẩu phần ăn khác nhau sẽ cho tỷ lệ thịt xẻ, tỷ lệ thịt tinh khác nhau khi giết mổ. Dù vỗ béo theo phương thức nào, vỗ béo sớm hay vỗ béo muộn, đối với bò thịt trước khi giết mổ bắt buộc 5 II. MỘT SỐ GIỐNG BÒ THỊT CAO SẢN TRÊN THẾ GIỚI 1. Bò Brahman Bò Brahman là giống bò thịt được tạo ra ở Mỹ từ cuối thế kỷ 19, do tạp giao giữa các giống bò Zebu với nhau. Bò Brahman có tầm vóc to, ngoại hình thể chất chắc chắn, khoẻ mạnh. U vai, yếm, nếp da dưới rốn phát triển, tai to và cụp xuống, chân cao, đuôi dài. Bò có màu lông trắng, xám hoặc đỏ. Hiện nay, bò Brahman được nuôi rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới do khả năng thích nghi cao, có sức đề kháng tốt với bệnh tật, sinh trưởng nhanh. Được nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam nhập để nuôi thuần và sử dụng lai tạo với bò địa phương nhằm nâng cao tầm vóc và sức sản xuất của con lai. Khối lượng trưởng thành ở bò đực: 800 - 1.200 kg; bò cái: 450 650kg. Khối lượng bê sơ sinh 23 - 25kg. Chăm sóc tốt, thức ăn đầy đủ, khối lượng bò 12 tháng tuổi: 262 - 375 kg/con. Bê đực nuôi tốt, giết mổ lúc 14-16 tháng tuổi tỷ lệ thịt xẻ: 53-58%. 6 2. Bò Droughmaster Bò Droughmaster được tạo ra ở vùng bắc Queensland, Australia trên cơ sở lai tạo giữa bò Brahman với bò Shorthorn với tỷ lệ máu 50:50, là giống bò thịt có năng suất, chất lượng cao, phù hợp với điều kiện khí hậu nhiệt đới. Theo giới thiệu của Hiệp hội bò giống Droughmaster-Australia bò Droughmaster có khả năng chống chịu bệnh tốt; chịu được nóng, thích ứng rộng; sinh sản tốt, dễ đẻ, dễ nuôi, hiền lành và có chất lượng thịt cao. Bò có màu lông đỏ đến vàng sậm, có con màu đỏ sẫm. U vai thấp, mắt sâu. Chân thấp, tròn mình, ngực sâu, cơ bắp nổi rõ. Gương mũi và niêm mạc mắt màu nâu, lông thưa và ngắn. Con cái âm hộ có nhiều nếp nhăn. Khối lượng bò đực trưởng thành 800 - 1.200kg; bò cái 450 500kg. Bò có tốc độ tăng trọng nhanh, khối lượng 12 tháng tuổi đạt 240 - 390 kg, tỷ lệ thịt xẻ 60 - 64%. Việt Nam đã nhập bò thuần Droughmaster Australia từ năm 2002 về nuôi thuần và để lai tạo bò lai hướng thịt. 3. Bò Red Angus Bò Red Angus là giống bò thịt nổi tiếng trên thế giới, có nguồn gốc từ Scotland. Bò có màu đỏ sẫm không có sừng. Bò có đặc trưng của giống bò thịt cao sản: thấp chân, thân hình vạm vỡ, xương thanh và nhỏ, mông đùi phát triển, cơ bắp nổi rõ, sinh trưởng nhanh. Khối lượng trưởng thành bò đực 900 - 1.200 kg; bò cái 700 - 800 kg. Nuôi dưỡng chăm sóc tốt, bò đực lúc 1 năm tuổi khối lượng đạt 540kg; con cái 380kg. Tỷ lệ thịt xẻ 60-65%. Năm 1954, Hiệp hội giống bò Red Angus đã được thành lập ở Mỹ. Bò Red Angus được yêu cầu theo dõi về khả năng sản xuất để đăng ký giống và được coi là giống bò thịt hàng đầu, được tham gia vào chương trình ghi chép tổng thể, nhằm tuyển chọn những giống vật nuôi có năng suất và chất lượng tốt nhất. 4. Bò Charolais 7 Bò Charolais là một giống bò thịt có nguồn gốc từ vùng Charolles, miền Trung nước Pháp. Bò Charolais có kết cấu cơ thể cân đối, cơ bắp nổi rõ, lớn nhanh và hiệu quả sản xuất thịt bò cao. Chúng có hoặc không có sừng. Màu chủ yếu là trắng kem. Tuy nhiên cũng có con màu vàng tối. Giống bò này lớn nhanh, vạm vỡ, cơ bắp nổi rõ và có tỷ lệ thịt xẻ cao. Khối lượng bò đực từ 800-1.000kg, bò cái từ 600-700kg, tỷ lệ thịt xẻ đạt trên 62%. Bò có tính hiền lành và chịu kham khổ. Nhược điểm của bò Charolais là chất lượng thịt thấp hơn bò Red Angus. Bò Charolais thuần chủng Bê lai Charolai ở Hà Tĩnh 5. Bò BBB (Blanc-Blue-Belgium-Blanc Bleu Belge-Bò lang trắng xanh Bỉ) Bò BBB là giống bò chuyên thịt của Bỉ có màu lông trắng, xanh lốm đốm hoặc trắng lốm đốm. Bò có thân hình vạm vỡ, cơ bắp rất phát triển, đặc biệt vùng cơ thịt đùi sau. Bò đực có khối lượng 1.100-1.250kg, bò cái trưởng thành có khối lượng 750-800kg. Tỷ lệ thịt xẻ trên 66%. Tuy nhiên bò BBB có Bò BBB thuần chủng nhược nhiểm là khả năng sinh sản kém (thường phải mổ đẻ), chi phí chăn nuôi cao, yêu cầu điều kiện chăn nuôi cao, không phù hợp với các điều kiện chăn nuôi kham khổ và chất lượng thịt không ngon bằng các giống bò chuyên thịt khác. Bê lai BBB ở Hà Nội Đặc biệt khi sử dụng bò đực BBB để lai tạo với bò cái nền địa phương ở Việt Nam gặp phải những nhược điểm rất lớn như sau: - Tạo ra con lai F1 BBB khả năng sinh sản rất kém, Hầu hết chỉ nuôi để giết thịt (trong khi số lượng bò của các tỉnh trong cả nước đang giảm mạnh trong những năm qua). - Yêu cầu chọn bò cái lai Zebu làm nền để phối giống với tinh bò BBB phải là những con có khối lượng ≥ 290kg/con và đẻ ở lứa 2 trở lên (hầu hết các tỉnh có dưới 10% bò cái Zebu đạt yêu cầu này). 8 - Đầu vào để tạo ra một con lai BBB cao hơn 20-30 lần giá tạo ra con lai (Brahman; Droughmaster và Red Angus). (2-3 liều tinh BBB/bê, giá 1 liều tinh BBB nhập về khoảng 450.000 đồng). - Đầu ra con lai BBB chỉ làm thương phẩm, giá bán chỉ bằng 1/2 giá bán giống do vậy mặc dù khối lượng con lai BBB to nhưng hiệu quả kinh tế thấp hơn so với bò, bê lai (Brahman; Droughmaster và Red Angus) bán giống. - Bê lai F1 BBB khó nuôi trong nông hộ do có nhu cầu dinh dưỡng, chế độ chăm sóc cao, trong khi đó chăn nuôi bò ở nông hộ hiện nay còn thiếu thức ăn thô xanh chất lượng cao và chăn nuôi tận dụng là chủ yếu. Chính vì vậy, chăn nuôi bò lai BBB ở Việt Nam không đạt hiệu quả kinh tế cao như chăn nuôi các loại bò lai cao sản khác. Chương 2 CÔNG TÁC GIỐNG TRONG CHĂN NUÔI BÒ THỊT VÀ KẾT QUẢ LAI TẠO BÒ THỊT CAO SẢN Ở VIỆT NAM I. CÔNG TÁC GIỐNG TRONG CHĂN NUÔI BÒ THỊT 1. Chọn bò giống Cũng như các ngành chăn nuôi gia súc khác, trong chăn nuôi bò thịt, giống là chìa khoá quyết định sự thành công hay thất bại. Vì vậy, để chăn nuôi bò thịt đạt hiệu quả kinh tế cao, con giống cần có khả năng sinh trưởng nhanh, khối lượng lớn, tỷ lệ thịt xẻ, tỷ lệ thịt tinh cao, chất lượng thịt tốt. Trong thực tiễn chăn nuôi bò thịt hiện nay, những chỉ tiêu chủ yếu để đánh giá con giống tốt xấu là: năng suất, khối lượng, ngoại hình và khả năng tăng trọng, vỗ béo; Tỷ lệ thịt xẻ, tỷ lệ thịt tinh của con vật. Chọn giống theo ngoại hình rất cần thiết vì khả năng sản xuất thịt của bò được thể hiện rất rõ ở hình dạng cơ thể: cân đối, tầm vóc mập mạp, ngực sâu rộng, da mỏng. Giống bò chuyên thịt có hình dạng đặc biệt giống khối hộp chữ nhật, trong đó chiều dài thân mình gần gấp đôi chiều rộng. Bò chuyên thịt nhìn chung có ngoại hình phát triển cân đối, chắc chắn, thân rộng vạm vỡ, mình dày, bộ xương kết cấu không thô, thường có đầu cổ không lớn, ngắn và rộng, chân ngắn, các cơ bắp của mông đùi phát triển, ngực nở tròn, ức xệ xuống. Khả năng tăng trọng cao trong thời gian vỗ béo. Tỷ lệ thịt xẻ, tỷ lệ thịt tinh cao, chất lượng thịt mềm, ngon. Thực tiễn trong chăn nuôi, người ta thường chọn bê nuôi thịt có khối lượng sơ sinh lớn, có tốc độ sinh trưởng cao; phàm ăn, khả năng sử dụng thức ăn cao; Các cơ 9 bắp trên mình nổi rõ; Cơ thể phát triển cân đối, đầy đặn; được sinh ra từ bố mẹ có năng suất cao. Đối với bò cái sinh sản nên chọn con đầu thanh, nhẹ; mắt sáng cổ thanh dài vừa phải, đầu và cổ kết hợp cân đối, các góc cạnh rõ nét, miệng rộng mắt lanh lợi trong sáng. Ngực sâu rộng, vai và cổ kết hợp tốt, lưng thẳng, hông dài rộng, bụng to vừa phải. Hông nở rộng, phẳng, ít dốc, vú phát triển cân đối, da vú mỏng, đàn hồi, 4 núm vú đều. Bốn chân thẳng, khoẻ chắc, tư thế đi lại chắc chắn, móng khít, không chạm khoeo. Khoảng cách giữa hai lứa đẻ ngắn, chất lượng sữa tốt, khối lượng bê sơ sinh và cai sữa cao. 2. Nhân giống bò thịt Trong công tác nhân giống có hai phương pháp cần quan tâm là nhân thuần hay lai tạo. Hai phương pháp này có quan hệ mật thiết hữu cơ với nhau. Muốn lai giống tốt thì phải có con giống thuần làm nguyên liệu. Nếu không có chọn lọc nâng cao năng suất chất lượng giống thuần thì công tác lai tạo sẽ không đạt được mục tiêu mong muốn. a. Nhân giống thuần Là phương pháp dùng con đực (hoặc tinh) và con cái cùng giống cho giao phối (thụ tinh nhân tạo) với nhau nhằm duy trì, củng cố, nâng cao các tính năng sản xuất và ổn định tính di truyền cho thế hệ sau trong phạm vi của giống đó. Trong chăn nuôi bò thịt, chủ yếu quan tâm đến khả năng sinh trưởng nhanh, tỷ lệ thịt xẻ, tỷ lệ thịt tinh và chất lượng thịt cao làm chỉ tiêu chọn lọc chính để nhân giống thuần. b. Nhân giống bằng lai tạo Là phương pháp dùng hai hay nhiều giống khác nhau cho phối giống để tạo ra ưu thế lai và phối hợp được các tính trạng quý của các giống. Lai tạo giống có nhiều phương pháp khác nhau, tuỳ theo mục đích sử dụng mà tiến hành lai kinh tế hoặc lai tạo giống mới. Trong chăn nuôi bò thịt, lai kinh tế là một biện pháp quan trọng và cần thiết nhằm nâng cao năng suất, khối lượng và chất lượng thịt đáp ứng nhu cầu của con người. Để sản xuất thịt bò chất lượng cao, trong chăn nuôi bò người ta thường có 2 cách làm: - Chọn nuôi những giống bò chuyên thịt cao sản như: Brahman, Droughmaster, Red Angus, Charolais, Limousin... Những giống này có tầm vóc to, khối lượng lớn, tốc độ sinh trưởng và tăng khối lượng nhanh, tỷ lệ thịt 10 xẻ, tỷ lệ thịt tinh cao, chất lượng thịt ngon, khả năng tăng khối lượng từ 1.4501.550g/con/ngày, tỷ lệ thịt xẻ 60-70%. - Cho tạp giao giữa 2 hay nhiều giống bò hướng thịt với nhau. Hoặc dùng tinh bò đực giống chuyên thịt cao sản lai với bò cái địa phương nhằm khai thác ưu thế lai về tầm vóc, khối lượng, năng suất, chất lượng thịt do di truyền của bố mẹ truyền cho đời sau. Năm 1985 và 1987, Chính phủ lại cho phép Công ty Trâu Bò sữa và Sữa sử dụng tiền viện trợ của Mông Cổ để nhập 179 bò Red Sindhi (trong đó có 30 bò đực) và 21 bò Sahiwal (có 5 bò đực) từ Pakistan nuôi tại Nông trường Hữu nghị Việt Nam - Mông Cổ và Trung tâm tinh đông viên Moncada để tăng cường công tác cải tiến đàn bò. Các trạm thụ tinh nhân tạo vùng tại Thành phố Hồ Chí Minh, Nha Trang, Đà Nẵng, Vinh (Nghệ An), Thanh Ninh (Thanh Hoá), Từ Sơn (Bắc Ninh)... đã phát triển công tác thụ tinh nhân tạo bò ra 26 II. KẾT QUẢ LAI TẠO BÒ THỊT CAO SẢN Ở VIỆT NAM Đàn bò Vàng Việt Nam có ưu điểm chịu kham khổ, thích ứng với điều kiện khí hậu nhiệt đới nóng ẩm và có khả năng chống chịu bệnh tốt. Song nhược tỉnh thành phố. Nhưng khi cơ chế quản lý kinh tế thay đổi công tác này bị chững lại. điểm là tầm vóc nhỏ, sức sản xuất thấp, sản xuất thịt kém. Chính vì vậy ở Việt Khi có dự án khuyến nông cải tạo đàn bò thuộc dự án phục hồi nông Nam chưa có ngành chăn nuôi bò thịt. Thịt bò lưu thông trên thị trường phần nghiệp 1995-1998 do Ngân hàng Thế giới (World Bank) tài trợ cho công tác lớn là thịt bò phế canh, thải loại. Một số lượng thịt bò chất lượng cao bán thụ tinh nhân tạo và phối tự nhiên cho bò, công tác cải tiến đàn bò mới được trong các siêu thị lớn hoặc dùng trong các khách sạn cao cấp là thịt bò nhập khôi phục. Kết quả của dự án đã góp phần tăng đàn bò lai Sind lên 25% tổng khẩu từ nhiều nước trên thế giới. Do đó để cải tạo tầm vóc và khả năng sản đàn trong cả nước. xuất của chúng cần sử dụng các biện pháp lai tạo với các giống bò ngoại thuần chủng cao sản chuyên thịt, chuyên sữa nhằm nâng cao tỷ lệ máu lai cao sản. Đặc biệt là từ 2001, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho thành lập Công ty Kỹ thuật Truyền giống gia súc Trung ương (Nay là Trung tâm Giống Lịch sử quá trình Sind hoá được ghi nhận vào năm 1920, bò Red Sindhi gia súc lớn TW) trực thuộc Viện Chăn nuôi Quốc gia. Dưới sự chỉ đạo, tạo nhập vào Việt Nam thông qua người Pháp. Quá trình lai tạo tự phát thành điều kiện của Bộ Nông nghiệp & PTNT, Cục Chăn nuôi, Viện Chăn nuôi, nhóm bò lai Sind. Năm 1960-1970, Viện Chăn nuôi tiến hành đánh giá khoa Trung tâm tiếp tục triển khai mạnh mẽ công tác cải tiến đàn bò, lai tạo phát học đàn bò lai Sind, khởi xướng chương trình “Sind hóa” bò địa phương. triển đàn bò thịt. Nhập mới thiết bị và công nghệ sản xuất tinh cọng rạ hiện đại Để thực thi chủ trương này, năm 1970 Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện đề nghị Cu Ba viện trợ cho ta Trung tâm tinh đông viên Moncada (Tản Lĩnh, Ba Vì, Hà Nội) nay là Trạm nghiên cứu và sản xuất tinh đông lạnh Moncada thuộc Trung tâm Giống gia súc lớn Trung ương với đầy đủ thiết bị làm tinh viên đông lạnh và nhiều bò đực các giống để ta lai tạo cải tiến đàn bò bằng của Cộng hoà Liên Bang Đức và Nhật Bản. Nhập bổ sung nhiều giống bò cao sản để sản xuất tinh bò đông lạnh nhằm nâng cao chất lượng, hạ giá thành trong thụ tinh nhân tạo bò, đẩy nhanh tốc độ phát triển đàn bò thịt chất lượng cao. Do vậy đã góp phần đẩy nhanh công tác cải tạo giống bò trong cả nước lên một tầm cao mới. phương pháp thụ tinh nhân tạo. Năm 1975, Cu Ba tiếp tục viện trợ cho ta 225 Kết quả hàng chục năm thực hiện chương trình Sind hoá đàn bò cho thấy, bò Zebu Cu Ba nuôi tại Nông trường Phú Mãn (Hà Tây nay là Hà Nội) nhằm bò lai Sind có năng suất thịt tinh 90-100kg/con, gấp gần 2 lần so với bò Vàng đẩy nhanh tốc độ cải tiến đàn bò Vàng. (bảng 1), trong khi vẫn sinh sản tốt và dễ nuôi (thích nghi với khí hậu nóng ẩm Việt Nam). Đến năm 2003 bò lai Sind chiếm khoảng 30% tổng đàn. Đàn cái 11 12 nền lai Sind là nguyên liệu quý cho lai tạo bò sữa (từ 1985) và lai tạo bò thịt gần đây. Đăk Lăk ... Tất cả các nghiên cứu ở các vùng khác nhau đều nhằm mục đích chọn cặp bò lai thích hợp trong điều kiện chăn nuôi của nước ta. Bảng 2. Chỉ tiêu sản xuất của bò lai F1 Brahman, F2 Brahman, F1 Droughmaster và F1 Red Angus Bảng 1. Chỉ tiêu sản xuất của bò Vàng và bò Lai Sind Chỉ tiêu ĐVT Bò vàng Chỉ tiêu Bò lai Sind Đực Cái Đực Cái Khối lượng sơ sinh kg 14 12 16 14 Khối lượng 6 tháng kg 85 65 95 90 Khối lượng 12 tháng kg 100 80 160 150 Khối lượng 24 tháng kg 175 150 280 230 Khối lượng trưởng thành kg 250 180 320 250 Tỷ lệ thịt xẻ % 44 43 48 46 Tỷ lệ thịt tinh % 33 32 37 36 ĐVT F1 F2 Brahman Brahman 21 23 F1 Droughmaster F1 Red Angus 25 25 KL sơ sinh kg KL 6 tháng 85 125 100 170 125 130 KL 12 tháng kg kg 210 220 KL 18 tháng kg 210 240 270 290 KL 24 tháng kg 260 300 330 370 Tỷ lệ thịt xẻ % 49 51 53 56 Tỷ lệ thịt tinh % 38 40 42 44 (Tổng hợp từ nhiều nguồn) (Tổng hợp từ nhiều nguồn) Nghiên cứu lai kinh tế bò thịt với các giống bò thịt cao sản (Brahman, Droughmaster, Red Angus, Charolais, Limousine, Hereford, Simental ...) đã được tiến hành từ nhiều năm nay nhằm nâng cao năng suất và chất lượng thịt của đàn bò Việt Nam. Từ năm 1975 đã bắt đầu có công trình nghiên cứu lai tạo giống giữa bò chuyên dụng thịt (Charolais, Santa Gertrudis, và Limousine) với bò lai Sind với những kết quả ấn tượng về khả năng sinh trưởng, tỷ lệ thịt xẻ và thịt tinh của con lai chuyên thịt trong đó con lai F1 Charolais x Lai Sind có thể đạt tỷ lệ thịt xẻ 52% và tỷ lệ thịt tinh 44%, cao hơn đáng kể so với bò địa phương và bò lai Sind . Từ năm 2000 đến nay, con lai giữa bò lai Sind với bò đực giống chuyên thịt Brahman, Drought Master, Red Angus, Charolais … đã được lai tạo và nghiên cứu tại Vĩnh Phúc, Đăk Lăk, Bình Định và Bình Dương. Ngoài ra, nhiều tỉnh thành trong cả nước cũng tiến hành lai tạo giống bò thịt cao sản thông qua các dự án của địa phương như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Phú Yên, 13 Kết luận ban đầu về lai kinh tế bò thịt cho thấy, bò mẹ lai Sind mang thai và sinh bê lai bình thường. Tất cả các cặp bò đã lai đều có ưu thế lai. Tất cả các con lai F1 đều dễ nuôi, ít bệnh tật trong điều kiện nóng ẩm và thức ăn nghèo dinh dưỡng ở Việt Nam. Tăng trưởng của bê lai F1 cao hơn bê lai Sind 16- 45%, phụ thuộc vào dinh dưỡng cho bò mẹ và bê con. Bê đực lai F1 giống thịt sau khi vỗ béo có tỷ lệ thịt xẻ (50-51%) và tỷ lệ thịt tinh (41-43%), do vậy khối lượng thịt tinh đạt từ 155-194kg, cao hơn 3-4 lần so với bò địa phương. Đặc biệt, bê lai F1 Brahman, F2 Brahman, F1 Droughtmaster, F1 Red Angus thích hợp cho các phương thức chăn nuôi ở Việt Nam. Việc phát triển chăn nuôi bê lai Brahman đã có những bước tiến bộ đáng kể, bò đực giống Brahman hiện đã thay thế hoàn toàn bò đực Sind trong công tác Zebu hóa đàn bò Việt Nam. Đồng thời, các bò đực giống Droughtmaster, Red Angus cũng đang được người chăn nuôi rất ưa chuộng trong công tác lai tạo bò giống do con lai F1 có ngoại hình đẹp, khả năng sinh trưởng phát triển và khả năng cho thịt cao, phù hợp với thị hiếu của người chăn nuôi. 14 III. NGÀNH CHĂN NUÔI CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP KHI HIỆP ĐỊNH TPP CÓ HIỆU LỰC Hình 1. Công thức lai tạo bò thịt cao sản ở Việt Nam I. Những khó khăn, thách thức của ngành chăn nuôi khi hiệp định TPP có hiệu lực - Nghành chăn nuôi Việt Nam mang tính chất nhỏ lẻ chiếm tỷ lệ cao, năng suất chăn nuôi thấp dẫn đến giá thành sản phẩm chăn nuôi cao. - Đầu vào của ngành chăn nuôi Việt Nam còn phụ thuộc khá nhiều vào nước ngoài đặc biệt là thức ăn và giống. - Công nghệ chế biến, bảo quản sản phẩm chăn nuôi còn chưa tốt, quản lý chất lượng thực phẩm còn nhiều hạn chế. - Liên kết theo chuỗi giá trị trong ngành chăn nuôi còn kém. - Nguy cơ dịch bệnh nguy hiểm còn cao, kiểm dịch sản phẩm nhập lậu qua biên giới còn sơ hở, bỏ sót. - Công tác quy hoạch chăn nuôi ở nhiều địa phương rất khó khăn do thiếu quỹ đất. Tái cơ cấu ngành chăn nuôi thực hiện chậm. - Thiếu các thông tin về Hội nhập kinh tế ở nhiều địa phương và nhiều doanh nghiệp, trang trại. II. Cơ hội, thuận lợi của nghành chăn nuôi khi hiệp định TPP có hiệu lực - Ngành chăn nuôi sẽ được tiếp cận nhanh hơn công nghệ mới, giống vật nuôi mới, các sản phẩm mới, các hình thức sản xuất tiên tiến. - Tham gia TPP và các FTA sẽ giúp Việt Nam hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, tạo dựng môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp. - Tạo sức mạnh thúc đẩy nhanh Đề án Tái cơ cấu ngành chăn nuôi. - Toàn ngành chăn nuôi thay đổi tư duy; đổi mới, hoàn thiện hệ thống quản lý và phương thức sản xuất để tham gia hội nhập. - Thu hút được nhiều Dự án đầu tư mới vào ngành chăn nuôi, nhất là chăn nuôi công nghệ cao. III. Một số giải pháp để phát triển bền vững ngành chăn nuôi khi TPP có hiệu lực 1. Giải pháp về cơ chế chính sách - Cần các chính sách đồng bộ về: Quy hoạch đất đai, thuế, phí, tài chính, tín dụng đầu tư. 15 16 - Thương mại, thị trường, đào tạo nguồn nhân lực. - Quyết định số 50/2014/QĐ -TTg ngày 04/09/2014 của Thủ tướng CP về chính sách hỗ trợ nâng cao hiệu quả chăn nuôi nông hộ giai đoạn 2015 2020. Góp phần nâng cao năm suất, chất lượng sản phẩm chăn nuôi trong nông hộ. - Cần có các quy định nhãn mác cụ thể, rõ ràng đối với sản phẩm sữa tươi nguyên chất và sữa bột hoàn nguyên: Hiện nay, lượng sữa tươi sản xuất trong nước chỉ đáp ứng được khoảng 28% nhu cầu trong nước (72% phải nhập khẩu). Năm 2014 chúng ta đã phải bỏ ra 1, 096 tỷ USD (trên 23 ngàn tỷ VND) để nhập khẩu sữa. Theo dự kiến, đến năm 2020, lượng sữa tươi trong nước cũng chỉ đáp ứng được khoảng 35% nhu cầu trong nước (65% phải nhập khẩu). Do vậy, sữa bột và sữa bột hoàn nguyên có nguồn gốc nhập khẩu có lẽ vẫn là sản phẩm chủ yếu trên thị trường. Chất lượng sữa bột hoàn nguyên không thể bằng sữa tươi nguyên chất được do quá trình chế biến từ sữa tươi thành sữa bột đã làm mất hoặc giảm nhiều vi chất quan trọng (vitamin, khoáng chất, amonoacid) cũng vì thế mà giá sữa bột thường rẻ hơn rất nhiều so với sữa tươi nguyên chất. Nếu bổ sung lại các vi chất này trong sữa sữa bột hoàn nguyên sẽ khiến giá thành của sản phẩm này đắt hơn sữa tươi nguyên chất từ 1,5-2 lần. (Điều này có thể tính toán được khi dựa vào giá bán các loại thực phẩm chức năng (vẫn thường gọi là sữa bột) như Ensure, Nuti IQ, Dielac .). Do vậy, một số công ty sữa đã nhập sữa bột về và pha loãng với nước tạo sản phẩm sữa bột hoàn nguyên để bán ra thị trường nhằm kiếm lợi nhuận cao, đồng thời có hiện tượng nhập nhèm trong việc ghi nhãn dẫn đến tình trạng không biết thế nào mà lần trong việc phân biệt sản phẩm sữa tươi nguyên chất và sản phẩm sữa bột hoàn nguyên chất lượng kém hơn. Chính vì vậy, cần có văn bản pháp lý yêu cầu các công ty cần ghi rõ nhãn hàng là sữa tươi tiệt trùng hoặc sữa bột hoàn nguyên tiệt trùng để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Và cũng cần xem xét có quy định riêng về việc ghi rõ xuất xứ, nguồn gốc của sản phẩm sữa tươi hoặc sữa bột nhằm giúp người tiêu dùng lựa chọn được sản phẩm sữa có chất lượng tốt theo ý muốn, tránh được những sản phẩm sữa kém chất lượng do những nguyên nhân khách quan đột ngột xuất hiện (phát 17 hiện sữa nhiễm melamine ở Trung Quốc năm 2008, sữa bột nhiễm vi khuẩn gây độc thần kinh ở New Zealand năm 2013). Ví dụ: Nếu ghi rõ sản phẩm sữa có nguồn gốc từ Trung Quốc, sản phẩm sữa có nguồn gốc từ Công ty Fonterra New Zealand . sẽ giúp người tiêu dùng sẽ không mua sản phẩm sữa kém chất lượng từ Trung Quốc, từ Công ty Fonterra New Zealand. 2. Giải pháp về Giống - Lai tạo là chính (Dùng tinh bò đông lạnh: bò thịt (Brahman, Dronghmast, Rsd Angus; trâu Ngố, trâu Murrah). + Nhân thuần (với những cơ sở giống, doanh nghiệp) + Phát triển bò bản địa (ở những vùng cao, vùng sâu) - Cải tạo, nâng cao năng suất, chất lượng, số lượng đàn trâu bò thông qua 02 con đường: + Thụ tinh nhân tạo trâu, bò đối với những nơi tập trung nhiều trâu bò, giao thông đi lại thuận tiện, dân trí cao: Sử dụng tinh bò thịt (Brahman, Droughmaster, Red Angus); Tinh trâu Ngố, trâu Murrah. + Nhảy trực tiếp đối với vùng sâu, vùng xa giao thông đi lại khó khăn, dân trí thấp. Sử dụng bò đực giống lai Brahman đỏ, trâu Ngố. - Tinh trâu, bò đực giống thương hiệu VINALICA được phân bổ theo vùng và 3 năm sẽ luân chuyển. Các địa phương, các chủ trang trại theo dõi, ghi chép, cập nhật số liệu để truyền tinh nhân tạo tránh đồng huyết và có thông tin hai chiều giữa VINALICA với các tinh thành, địa phương và các đơn vị chăn nuôi trong cả nước. - Chọn lọc trâu bò đủ tiêu chuẩn để làm cái nền tại các địa phương, các nông hộ thông qua bình tuyển, giám định, xếp cấp hàng năm để loại thải những trâu bò cái không đảm bảo tiêu chuẩn giống. - Thực hiện triệt để việc thiến trâu bò đực cóc không đảm bảo tiêu chuẩn giống. 3. Giải pháp về dinh dưỡng thức ăn gia súc Trong chăn nuôi: thức ăn vô cùng quan trọng, do vậy cần: 18 - Quy hoạch và dành diện tích đất đai để trồng cỏ thâm canh. 6. Giải pháp về chế biến sản phẩm và thị trường - Trồng, chăm sóc, thu hoạch, chế biến, bảo quản thức ăn thô xanh để đáp ứng đủ nhu cầu quanh năm cho trâu bò - Tận thu, chế biến các phụ phẩm nông công nghiệp như: Rơm rạ, ngọn mía, bã mía đặc biệt dự trữ trong vụ đông xuân ở miền bắc Việt Nam tránh để gia súc chết đói, chết rét trong vụ đông những năm vừa qua. - Sản xuất thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh (TMR) cho gia súc. 4. Giải pháp về vệ sinh thú y và môi trường - Chuồng trại phải đảm bảo luôn được vệ sinh sạch sẽ (ấm áp mùa đông mát mẻ mùa hè). - Công tác tiêm phòng luôn luôn phải thực hiện nghiêm ngặt, chặt chẽ (phòng bệnh hơn chữa bệnh). - Môi trường chăn nuôi phải được đảm bảo đặc biệt việc xử lý chất thải chăn nuôi (Phân, nước tiêu, thức ăn thừa) phải được sử lý triệt để (tốt nhất làm Bioga) - Chăn nuôi bò sữa: Xây dựng hệ thống thu gom, chế biến sữa đảm bảo an toàn VSTP, VSTY an toàn dịch bệnh, gắn liền với quy hoạch và thực tế khu vực chăn nuôi bò sữa. - Chăn nuôi bò thịt: Xây dựng hệ thống giết mổ, chế biến thịt phải đảm bảo an toàn VSTP, an toàn dịch bệnh và không ô nhiễm môi trường. - Thị trường: Tăng cường gắn kết 4 nhà (nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và nhà nông). Cần đảm bảo lợi ích hài hòa giữa người chăn nuôi, người chế biến sản phẩm và người tiêu dùng. Đặc biệt quan tâm quyền lợi của người chăn nuôi, tránh thua thiệt cho người chăn nuôi. - Tăng cường năng lực cạnh tranh với sản phẩm nhập nội thông qua năng suất, chất lượng, hiệu quả, giá thành. Đặc biệt trong xu thế Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới hiện nay. - Chăm sóc nuôi dưỡng không để trâu bò bị (đói, khát, sợ hãi, đau đớn) mà phải đảm bảo cho gia súc luôn luôn cảm thấy (sung sướng, thoải mái). 5. Giải pháp về tổ chức sản xuất và quản lý - Phương thức chăn nuôi: Khuyến khích chăn nuôi công nghiệp, phát triển chăn nuôi gia trại, trang trại, giảm tối thiểu chăn nuôi thả rông bằng chính sách hỗ trợ (Chuồng trại, Thức ăn) - Xây dựng mô hình: Khuyến khích xây dựng mô hình chăn nuôi gia trại, trang trại, mô hình chăn nuôi trâu bò tiên tiến nhằm tập huấn kỹ năng chăn nuôi trâu bò thịt, sữa giúp cho người chăn nuôi học tập, thực hành kiến thức mới về chăn nuôi bò cao sản. - Triển khai và quản lý công tác Thụ tinh nhân tạo trâu bò đạt hiệu quả cao. Tránh tiêu thụ tinh trôi nổi trên thị trường và tăng cường công tác theo dõi ghi chép đầy đủ, kịp thời, chính xác. - Dịch vụ kỹ thuật khép kín đầu vào (giống, thức ăn, thú y) đến đầu ra (bán sản phẩm thịt, con giống). 19 Chương 3 KỸ THUẬT CHĂM SÓC NUÔI DƯỠNG BÒ THỊT CAO SẢN I. ĐẶC ĐIỂM TIÊU HOÁ THỨC ĂN CỦA BÒ 1. Bộ máy tiêu hoá của bò 20 Hình 3. Cấu tạo bộ máy tiêu hóa của bò Bò là loài động vật nhai lại, có dạ dày gồm 4 ngăn, nằm bên hông trái có dung tích rất lớn, chiếm đến 3/4 dung tích khoang bụng. Ba ngăn: dạ cỏ, dạ tổ ong và dạ lá sách được gọi chung là dạ dày trước, chúng không có các men tiêu hoá. Trong đó dạ cỏ là túi lớn nhất, là nơi tiếp nhận thức ăn, ợ trở lại miệng để gia súc nhai lại, nghiền nát, tiêu hoá thức ăn nhờ quá trình tiêu hoá cơ học và vi sinh vật. Ngăn cuối cùng là dạ múi khế (gọi là dạ dày thực) có các men tiêu hoá tương tự như các loại động vật dạ dày đơn. Khi mới sinh đến 2 tháng tuổi, bê chưa có khả năng tiêu hoá thức ăn nhiều xơ, vì vi sinh vật dạ cỏ chưa phát tiển. Sữa là thức ăn chính bê ăn vào được đưa thẳng xuống dạ múi khế qua một rãnh (gọi là rãnh thực quản). Cùng với quá trình phát triển của cơ thể và tiêu hóa thức ăn thô xanh, dạ cỏ phát triển mạnh, nhất là khi chúng ta sớm cho bê ăn các loại thức ăn thô xanh. 2. Đặc điểm tiêu hoá thức ăn của bò - Nhai lại và tiêu hoá cơ học Khi bò lấy thức ăn vào miệng, thức ăn được nhai rập rạp, thấm nước bọt rồi được nuốt vào dạ cỏ. Tại đây, thức ăn được nhào bóp, trộn đều với thức ăn cũ nhờ sự co bóp của dạ cỏ. Những phần thức ăn nhỏ mịn di chuyển dần sang dạ tổ ong, dạ lá sách và dạ múi khế. Phần thức ăn còn to trong dạ cỏ và dạ tổ ong được ợ lên miệng để gia súc nhai lại. Khi miếng thức ăn đã được thấm nước bọt và nhai kỹ, nó lại được nuốt trở lại dạ cỏ. Đến dạ múi khế, thức ăn được tiêu hoá như ở dạ dày đơn. 21 Nhai lại là hoạt động sinh lý bình thường khi bò được ăn đầy đủ thức ăn thô và sức khoẻ bình thường. Quá trình này diễn ra khi yên tĩnh hoặc sau khi ăn khoảng 30 phút. Trong một ngày đêm bò nhai lại 7-10 lần, mỗi lần khoảng 30 phút. Nhờ có động thái nhai lại và hệ vi sinh vật dạ cỏ, khả năng tiêu hoá chất xơ của bò rất cao, lên tới 57-60%, trong khi ở ngựa chi có 11%. - Tiêu hoá vi sinh vật dạ cỏ Dạ cỏ được coi là “Một thùng lên men lớn”. Tại đây diễn ra quá trình tiêu hoá nhờ vi sinh vật dạ cỏ, bò có thể tiêu hoá được chất xơ và các loại thức ăn thô như cỏ, rơm, thân cây ngô, ngọn mía, .... mà các loài gia súc dạ dày đơn không thể ăn và tiêu hoá được. Các vi sinh vật dạ cỏ biến đổi các loại thức ăn này thành nguồn năng lượng (như a xít béo bay hơi), đồng thời tổng hợp các thành phần dinh dưỡng khác nhau, gồm các a xít amin thiết yếu, các vitamin nhóm B, vitamin K, ...cung cấp cho cơ thể bò. Thậm chí vi sinh vật dạ cỏ còn có khả năng sử dụng những hợp chất ni tơ phi protein (urea, amoniac,..) tạo thành những chất dinh dưỡng có giá trị sinh học cao. Đặc biệt, bản thân vi sinh vật dạ cỏ khi chúng chết đi, chuyển xuống dạ múi khế được tiêu hoá là nguồn protein động vật có giá trị cao giúp cho bò tăng trưởng và hoạt động hàng ngày. Như vậy, thực chất nuôi dưỡng bò là nuôi dưỡng vi sinh vật dạ cỏ, cung cấp và tạo cho chúng những điều kiện tối ưu để phát triển, sinh sôi và nảy nở. Nếu nuôi dưỡng không hợp lý, với khẩu phần ăn mất cân đối (như thiếu thức ăn thô xanh, ...) thì sẽ làm cho một số nhóm vi sinh vật không có được những điều kiện thích hợp để phát triển và mất đi, thay vào đó là thành phần các nhóm vi sinh vật khác, mà kết quả là các quá trình tiêu hóa thức ăn bị rối loạn, ảnh hưởng xấu đến tình trạng sức khoẻ và khả năng sản xuất của bò, làm giảm hiệu quả chăn nuôi. 3. Các loại thức ăn cho bò Thức ăn của bò rất đa dạng, phong phú, rẻ, dễ kiếm và được phân ra làm 3 nhóm chính: thức ăn thô; thức ăn tinh và thức ăn bổ sung. a. Thức ăn thô: Gồm có thức ăn xanh (cỏ xanh, rau xanh, ngọn mía, cây và lá ngô, vỏ hoa quả, vỏ và đọt dứa,...); thức ăn thô khô (cỏ khô, rơm rạ,...); thức ăn củ quả (khoai lang, khoai tây, cà rốt, củ cải, bầu bí,....); thức ăn ủ xanh (loại thức ăn thô xanh hay củ quả được ủ xanh); thức ăn từ phế phụ phẩm nông-công nghiệp (bã đậu, bã bia, bã sắn,...) b. Thức ăn tinh: Gồm có các loại hạt và bột ngũ cốc. Thức ăn giàu protein như khô dầu đậu tương, khô dầu lạc, khô dầu hạt bông, các hạt cây họ đậu, v.v... Các loại thức ăn tinh hỗn hợp được sản xuất công nghiệp. 22 c. Thức ăn bổ sung: Gồm có urea, rỉ mật đường, hỗn hợp khoáng và vitamin, v.v... Chúng được sử dụng với lượng nhỏ để cân bằng các chất dinh dưỡng trong khẩu phần ăn hoặc để tăng thêm tính ngon miệng, tăng thêm năng lượng. 4. Nguyên tắc và phương pháp sử dụng thức ăn cho bò Khi sử dụng các loại thức ăn cho bò cần tuân thủ các nguyên tắc sau đây: - Cho ăn nhiều chất xơ, tốt nhất là cho ăn tự do các loại thức ăn thô xanh, thô khô - Không thay đổi thức ăn đột ngột. Khi muốn thay đổi loại thức ăn hay khẩu phần ăn phải thay đổi từ từ. - Không cho ăn toàn bộ lượng thức ăn tinh của một ngày trong một lần hoặc hoà nước cho bò uống, tốt nhất trộn với thức ăn thô cho bò ăn. - Bảo đảm trong thức ăn phải có cả loại giàu năng lượng và cả loại giàu protein - Đối với các loại thức ăn thô xanh như cỏ tự nhiên, lá ngô,...nên phơi tái (nhất là vào mùa mưa) trước khi cho bò ăn. - Không cho bò ăn các loại thức ăn để dài, cồng kềnh mà cần băm thái thành những đoạn nhỏ 5-10 cm, trộn đều, rồi mới cho ăn. II. KỸ THUẬT CHĂM SÓC NUÔI DƯỠNG BÒ THỊT CAO SẢN QUA CÁC GIAI ĐOẠN 1. Giai đoạn từ sơ sinh đến cai sữa Bê đẻ ra sau khi được bóc móng, lau khô (hoặc để bò mẹ liếm), cắt rốn,... đưa vào ổ rơm, không được để bê bị lạnh. Sau đó phải cho bú sữa đầu vì sữa đầu có nhiều protein, vitamin và khoáng chất nhiều hơn sữa thường. Đặc biệt trong sữa đầu có kháng thể giúp bê con nâng cao sức đề kháng với bệnh tật. Thời gian bú sữa đầu là 7-10 ngày, sau đó cho bê bú bình thường. Giai đoạn bú sữa, bê sử dụng sữa mẹ là chính nên cần chăm sóc và nuôi dưỡng tốt bò mẹ để có đủ lượng sữa cung cấp cho bê hàng ngày. Bằng cách nuôi kết hợp chăn thả bò mẹ ngoài đồng bãi với việc bổ sung thức ăn tinh có hàm lượng dinh dưỡng cao tại chuồng. Cho bò mẹ ăn tự do các loại thức ăn xanh (cỏ tươi, thân cây ngô non,...), cỏ khô loại tốt và cho bê bú mẹ tự do. Do lượng sữa của bò mẹ giảm dần theo các tháng sau khi đẻ, trong khi nhu cầu dinh dưỡng của bê ngày một tăng, cần tập cho bê ăn sớm. Từ 2 tuần tuổi tập cho bê ăn thức ăn tinh, bắt đầu từ 3 tuần tuổi tập cho bê ăn thức ăn thô. 23 - Thức ăn cho bê phải sạch sẽ, chất lượng tốt. Thức ăn thô là cỏ khô ngon, cỏ tươi phơi tái; thức ăn tinh là các loại thức ăn có độ ngon miệng cao như cám gạo, bắp xay, cám tổng hợp, khô dầu đậu tương, ... có tỷ lệ protein 1618%. - Đảm bảo thoả mãn nước uống sạch cho bê. - Thời gian đầu nên cho bê vận động trên sân chơi ở chuồng nuôi. Sau đó, hàng ngày nên chăn thả bê tự do trên bãi chăn. - Chuồng trại phải thông thoáng, sạch sẽ, khô ráo, ấm về mùa đông và thoáng mát về mùa hè, diện tích khoảng 1,2-1,4m2/con. Thường xuyên dọn vệ sinh và thay lót chuồng, trước khi cai sữa cần tẩy giun sán cho bê. 2. Chăm sóc nuôi dưỡng bò cái tơ Sau khi cai sữa, chọn những bê cái tốt nhất để làm giống và nuôi tách riêng, gọi là thời kỳ nuôi hậu bị. Thời kỳ này kéo dài từ lúc bê cai sữa cho đến lúc phối giống có chửa và được chia làm 2 giai đoạn: - Giai đoạn 7-12 tháng tuổi: Đây là giai đoạn bê dễ rơi vào trạng thái khủng hoảng dinh dưỡng vì lượng sữa bị cắt hoàn toàn, chuyển sang thức ăn thô xanh là chính, vì vậy dễ bị còi cọc, chậm lớn, bệnh tật, ảnh hưởng đến tuổi thành thục tính dục và khả năng sinh sản của chúng sau này. Trong giai đoạn này, ngoài thời gian chăn thả trên bãi chăn, về chuồng cần cho bê ăn tự do thức ăn thô chất lượng tốt, bổ sung thêm thức ăn tinh có đủ các chất dinh dưỡng như protein, khoáng và vitamin,... - Giai đoạn 13-24 tháng tuổi: Giai đoạn này bê đã sử dụng tốt thức ăn thô xanh, khả năng thu nhận thức ăn tốt. Ngoài việc chăn thả, cần bổ sung cho bê thức ăn ủ xanh, cỏ khô, rơm ủ urê 4% và các phụ phẩm nông-công nghiệp khác. Dựa vào nhu cầu tăng trọng của bê và khả năng thu nhận thức ăn trên đồng cỏ mà quy định số lượng thức ăn bổ sung tại chuồng nuôi. Bảng 3. Khẩu phần thức ăn cho giai đoạn nuôi hậu bị Lứa tuổi bê - Từ 7-12 tháng tuổi - Từ 13- 18 tháng tuổi - Từ 18 đến 24 tháng tuổi 3. Nuôi dưỡng bò cái sinh sản 24 Cỏ tươi 15-20 kg/ngày 20-25 kg/ngày 30-35 kg/ngày Thức ăn tinh hỗn hợp 1,0 kg/ngày 1,5 kg/ngày 2,0 kg/ngày Nuôi bò cái sinh sản trong chăn nuôi bò thịt, thường chia ra các giai đoạn sau: + Thời điểm phối giống thích hợp: Động dục buổi sáng, chiều ta cho phối giống (hoặc ngược lại). - Giai đoạn bò mẹ có chửa: Nuôi tốt giai đoạn này là để bào thai phát triển tốt, bò mẹ sớm hồi phục cơ thể sau đẻ và có nhiều sữa nuôi con, vì vậy chất dinh dưỡng phải đủ cho duy trì, cho phát triển cơ thể và cho cả nhu cầu phát triển của bào thai, đặc biệt là 2 tháng chửa cuối vì từ 2/3 đến 3/4 khối lượng bê sơ sinh là phát triển trong giai đoạn này. - Dấu hiệu bò cái trước khi đẻ: Sau khoảng thời gian từ 280-285 ngày kể từ ngày phối giống, bụng trở nên to kềnh càng và trũng xuống, vú căng, xương mông sụm xuống. Trước đẻ, bò cái không yên, đi loanh quanh chuồng, đứng lên ngồi xuống nhiều lần, lăn lộn biểu hiện cơn đau bụng, ở âm hộ có nước nhầy chảy ra từ lỏng sang sệt dần. Túi nước ối vỡ ra, nước niệu chảy ra, tiếp theo là màng dương vỡ, nước dương chảy ra và nhờn hơn nước niệu, có tác dụng bôi trơn giúp bê được đẩy ra dễ dàng. - Giai đoạn bò mẹ nuôi con. Trong chăn nuôi bò thịt, người ta thường cho bê con bú trực tiếp bò mẹ trong thời gian khoảng 6 tháng, sau đó cho bê cai sữa. Lượng sữa của bò mẹ càng cao thì bê con càng bú được nhiều sữa, càng mau lớn, có khối lượng cao khi cai sữa. Do vậy bò mẹ cần phải được cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng cho nhu cầu duy trì cơ thể và tiết sữa. Thức ăn cho bò có chửa cũng như nuôi con chủ yếu là thức ăn thô xanh, gồm phần cỏ ăn được trên bãi chăn và thức ăn bổ sung thêm tại chuồng nuôi. Tuỳ theo mùa vụ, chất lượng cỏ của bãi chăn, trung bình mỗi ngày bò chỉ ăn được trên bãi chăn khoảng 10 kg cỏ tươi, phần còn lại cần phải được bổ sung tại chuồng. - Khẩu phần cho bò cái sinh sản + Chăn thả: 7-8 giờ/ ngày + Cỏ xanh cho ăn tại chuồng: 10-20 kg. - Nếu sau 60 ngày sau khi đẻ bò không lên giống trở lại thì phải xem xét lại. Phải cai sữa đúng lúc để khai thác bò được lâu dài. LƯU Ý: Trong chăn nuôi bò cái sinh sản nên sử dụng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo để nâng cao hiệu quả sinh sản và tăng hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi. Lợi ích của thụ tinh nhân tạo gồm có: + Một bò đực giống tốt sản xuất tinh đông lạnh phối giống được cho hàng chục ngàn bò cái trên một khu vực rộng lớn. + Khắc phục chênh lệch cơ thể do di truyền giống (bò thịt cao sản thuần chủng có tầm vóc và khối lượng lớn không thể cho nhảy trực tiếp bò cái địa phương có tầm vóc nhỏ). + Giảm tốn kém so với nuôi đực giống nhảy trực tiếp, giảm chi phí so với vận chuyển đực giống từ xa đến. + Bột sắn hoặc cám gạo: 1-2 kg + Khô dầu lạc 0,2-0,3kg + Tránh được bệnh lây truyền qua đường sinh dục. +- Khoáng, vitamin: 20-30 g + Thuận lợi trong công tác quản lý giống. Khi bò có chửa, nuôi con nên thay thế khô dầu bằng bột cá. 4. Kỹ thuật nuôi bò đực giống (nhảy trực tiếp) - Chế độ phối giống: Chăn nuôi bò đực giống rất quan trọng vì bò đực giống tốt hay xấu có ảnh hưởng rất lớn đến phẩm chất của đàn bò sau này. Do vậy việc chọn nuôi bò đực giống và kỹ thuật chăm sóc bò đực giống rất cần thiết. Về ngoại hình, bò đực giống cần có tầm vóc to lớn cân đối, dài đòn, trước cao sau thấp, hăng hái nhưng phải hiền lành; Đầu to vừa và dài, da mặt khô, mạch máu nổi rõ; Trán rộng, mắt to tròn, lanh lẹ; Mũi kín, bóng ướt; Mồm rộng; Tai to vừa. Bắp thịt nở nang, rắn chắc. Cổ dài vừa phải, lưng thẳng, mông to rộng. Chân thẳng to gân gốc, móng + Tuổi: Bò cái lai thường có tuổi phối giống thích hợp từ 18 -24 tháng tuổi, khối lượng trên 200kg. Thời gian mang thai từ 280-285 ngày (khoảng 9 tháng 10 ngày). + Biểu hiện động dục ở bò cái: Ăn uống kém, kêu giống, nhớn nhác, nhảy lên lưng con bò khác hoặc để con bò khác nhảy lên. Âm hộ sưng, mép trong âm hộ màu đỏ. Chảy dịch nhờn trong suốt từ lỏng tới đặc dần, chất dịch treo dưới mép âm hộ. 25 26 khít tròn đen bóng và phải rắn chắc. Da mỏng bóng láng, lông bóng mượt. Tinh hoàn đều, to vừa, không thòng, không mắc bệnh. Khi đực giống đến tuổi giao phối cần có tiêu chuẩn nuôi dưỡng hợp lý. Tiêu chuẩn này căn cứ trên khốí lượng cơ thể bò đực giống và mức độ phối giống. Vào mùa phối giống nên tăng khẩu phần ăn từ 10 - 20% so với lúc bình thường. Cần bổ sung thêm thức ăn giàu protein động vật (như: trứng, xác mắm cá, bột máu...) và Vitamine A, E (có trong cà chua, bí đỏ, mầm thóc, đậu mọc mầm). Bổ sung đạm phi protein như: bánh đa dưỡng chất, rơm ủ uré, uré phun lên rơm. Khi thay đổi thức ăn cho bò phải làm dần dần, không thay đổi đột ngột. Mùa nắng nên chăn thả tự nhiên và tắm hằng ngày. Mùa mưa nên giảm thời gian chăn thả, kiểm tra móng hằng ngày. Bò đực giống dễ cảm thụ với các kích thích bên ngoài, cho nên việc quản lý chăm sóc chúng sẽ ảnh hưởng đến phẩm chất tinh dịch, nhất là ảnh hưởng tới sức sống của đàn con sau này. Bò đực nên được chăn thả ngoài đồng lúc có nắng tốt (khoảng 6 giờ/ngày). Kết hợp với khẩu phần sau: + Rơm 3kg + Thóc mầm 0,8kg + Cám 1,5kg + Muối 60g + Cỏ tươi 15kg * Khẩu phần bò đực giống cân nặng 300 kg: + Rơm 3kg + Thóc mầm 1.2kg + Khoai lang củ 4kg + Khô dầu (lạc, đỗ tương...) 0,5kg * Khẩu phần cho bò đực giống nặng 570kg: + Chăn thả: 5 giờ x 3kg = 15kg cỏ + Thóc mầm 1kg + Cám 4,5kg + Khô dầu (lạc, đỗ tương...) 1kg +Bèo dâu 15kg +Rơm 3kg +Muối 100g + Phối giống có hướng dẫn: Bò đực và bò cái được nuôi riêng. Khi bò cái lên giống mới cho bò đực phối. Cách này ta biết được ngày phối giống, ngày sinh, chọn bò đực giống đúng hướng dẫn. + Phối giống không có hướng dẫn: Bò đực và bò cái được nhốt chung trong đàn. Cách này bò đực dễ bị suy yếu, rút ngắn thời gian sử dụng bò đực giống... - Chế độ phối giống: Bò từ 18-27 tháng tuổi mới huấn luyện, 27-30 tháng tuổi mới cho phối giống. Đực phối giống lần đầu tiên một tuần một lần, sau đó tăng dần 3 - 4 lần/tuần. Nếu phối giống nhiều cứ 7 ngày cho đực giống nghỉ 1 ngày. Ngoài ra tuỳ điều kiện dinh dưỡng tốt hay xấu mà điều chỉnh số lần giao phối cho thích hợp. 5. Nuôi dưỡng bê từ sau cai sữa đến giết mổ. Những bê đực, bê cái không để làm giống, sau khi cai sữa đưa vào nuôi lấy thịt. Trong thời kỳ nuôi lớn, tốt nhất là nuôi dưỡng theo phương thức chăn thả kết hợp với cho ăn tại chuồng bằng các phế phụ phẩm nông-công nghiệp như rơm ủ urê, cây ngô sau khi thu bắp, các loại bầu bí, khô dầu, bã dứa, hạt bông ... Thời kỳ này cũng được chia làm 2 giai đoạn như nuôi bê cái hậu bị. Có thể ứng dụng các bảng sau để nuôi bò giai đoạn này. Bảng 4. Khẩu phần ăn hàng ngày của bê Tháng tuổi 6-8 8 - 10 10 - 12 12 - 15 15 - 18 18 - 21 21 - 24 Khối lượng TB cuối kỳ (kg) 126 150 174 205 235 265 302 Thức ăn tinh (kg) 1,0 1,2 1,4 1,5 1,5 1,5 1,5 Thức ăn thô (kg) 15 22 25 29 34 37 39 Muối (g) 20 20 25 30 35 40 45 6. Kỹ thuật nuôi vỗ béo bò thịt Đối với bê sau giai đoạn nuôi lớn (20-21 tháng tuổi) thì chuyển sang giai đoạn nuôi vỗ béo. Ngoài ra, cũng nên nuôi vỗ béo trước khi giết mổ đối với bò - Cách phối giống: 27 28 gầy, bò hết khả năng cho sữa, sinh sản, cày kéo hoặc bò loại thải. Thông thường thời gian vỗ béo kéo dài 60-90 ngày, yêu cầu tăng trọng bình quân 0,5-1,0 kg/con/ngày. Lưu ý về thức ăn tinh vỗ béo bò: Protein thô từ 11,5 -12%; Năng lượng trao đổi từ 2.350-2.400Kcal/kg; Rỉ mật tối đa 8%; Ca = 0,3-0,4% và P = 0,30,35%; Urê tối đa 1,5%. Trong giai đoạn nuôi vỗ béo, cần tăng dần khẩu phần thức ăn tinh giàu năng lượng, đồng thời hạn chế bò vận động nhất là vào cuối giai đoạn. Trước khi đưa vào vỗ béo, bò cần được diệt ngoại ký sinh trùng (nếu có); tẩy giun sán, đồng thời phải tập cho bò ăn khẩu phần vỗ béo để quen dần, tránh bị rối loạn tiêu hoá. - Quy trình nuôi vỗ béo + Tẩy giun sán + Nuôi nhốt, giảm vận động, không chăn thả + Tuần 1 : 25kg cỏ+ 0,5 - 1kg thức ăn tinh (cho ăn tăng dần) + Tuần 2 : 20kg cỏ+ 1 - 2kg thức ăn tinh (cho ăn tăng dần) Chương 4 + Tuần 3 : 15kg cỏ+ 2 - 3kg thức ăn tinh (cho ăn tăng dần) SẢN XUẤT VÀ CHẾ BIẾN MỘT SỐ LOẠI THỨC ĂN NUÔI BÒ THỊT CAO SẢN + Tuần 4 trở đi : 15kg cỏ+ thức ăn tinh tựdo + Luôn có đủ nước sạch cho bò uống tự do. Sau 90 - 100 ngày bò đã béo thì dừng. Vỗ béo theo một số khẩu phần sau đây có thể đạt tăng trọng 600800g/ngày trở lên. Bảng 5. Một số công thức khẩu phần vỗ béo bò thịt Nguyên liệu (%) Bột sắn Ngô Khô dầu (40% Protein thô) Rỉmật Urê Muối ăn Bột xương (hoặc đá liếm) Tổng số Công thức 1 80 11 5 1,5 1 1,5 100 Công thức 2 Công thức 3 60 39 25 50 6 5 5 1,5 1,5 1 1 1,5 1,5 100 100 29 I. KỸ THUẬT TRỒNG MỘT SỐ LOẠI CÂY THỨC ĂN CHO BÒ 1. Cỏ Mullato II Cỏ Mulato có tên khoa học là Brachiaria ruziziensis, là giống cỏ lai (B.brizantha x B.decumbens), được nhập từ Thái Lan, thuộc loại cây lâu năm, có thể khai thác 6-7 năm mới phải trồng lại. Cây thân bụi, rễ chùm nên khả năng chịu hạn rất tốt. Cây cao 80-100cm, thân mềm, lá mềm, rất thích hợp với khẩu vị của gia súc. Đây là giống cỏ không kén đất, chịu hạn tốt, thích hợp với hầu hết các vùng sinh thái của nước ta. Nhờ có ưu thế lai nên cỏ Mulato đẻ nhánh và tạo thảm cỏ rất nhanh từ các đốt thân sát mặt đất, cho sản lượng cao, có thể đạt 200 - 250 tấn/ha/năm, hàm lượng chất khô (từ 19-22%) và protein (14-16%). Khi cho bò sữa ăn sẽ cho sản lượng và chất lượng sữa cao hơn các giống cỏ khác như cỏ voi, kể cả cỏ VA06 mới được nhập nội gần đây. Nhờ những ưu điểm nổi trội đó mà giống 30 cỏ Mulato hiện đang được nhiều địa phương quan tâm mở rộng diện tích với quy mô lớn phục vụ chăn nuôi, đặc biệt là chăn nuôi bò. - Thời vụ: Với các tỉnh phía Nam có thể gieo, trồng quanh năm, trừ những tháng mưa to; với các tỉnh phía Bắc thời vụ tốt nhất là từ 15/3 đến 15/8 hàng năm. - Chuẩn bị đất: Chọn nơi đất tốt, dễ thoát nước, gần nguồn nước, thuận tiện tưới tiêu để trồng. Đất được cày, bừa, nhặt sạch cỏ dại, tạo hệ thống mương rãnh thoát nước nếu là đất bằng. - Bón lót cho mỗi hécta trước khi trồng: 20 tấn/ha phân chuồng được ủ hoai mục, 400-500kg phân Supe lân, 150-170kg phân Kali. Bổ sung đạm urê trước và sau khi trồng với lượng từ 300-350 kg/ha bằng 2 hình thức trộn đều với các loại phân khác để bón hoặc hoà nước để tưới sau khi cây đã mọc chồi mới. - Cách trồng: Nếu gieo hạt (10-12kg/ha), rạch hàng sâu 10-15cm, hàng cách hàng 25-30 cm, trộn hạt giống với cát khô, gieo vãi theo hàng cho đến thành khóm cách nhau 25-30cm. Dùng cành cây có lá kéo khua để lấp một lớp đất mỏng. Nếu trồng bằng hom thì cắt hom giống dài 20-25cm từ các ruộng cỏ khoẻ mạnh, đang trong thời kỳ thu hoạch để trồng. Trên mỗi hàng trồng các hom (4-6 rãnh/hom) cách nhau 20-25cm, sâu 5-6cm, dùng tay dện chặt gốc, tưới đẫm nước sau khi trồng. Nên thu hom và trồng vào những ngày trời mát hom sẽ đỡ mất nước, nhanh bén rễ ra chồi mới. - Chăm sóc: Tưới nước 1 lần/ngày vào buổi sáng hoặc chiều mát trong 710 ngày đầu, đến khi có hai lá trở lên thì giảm số lần tưới xuống 2-3 ngày/lần. Bón bổ sung phân NPK (60-70 kg/ha) và 60 kg/ha urê sau mỗi lần cắt, kết hợp tướic đủ ấm, nhổ sạch cỏ dại để cỏ Mulato tiếp tục cho sản lượng cao trong các lứa tiếp theo. - Thu hoạch, chế biến, bảo quản: Thu hoạch lứa đầu khoảng 60-70 ngày sau khi gieo bằng hạt, 45-50 ngày sau khi trồng bằng hom. Dùng dao, liềm cắt sát, trừ lại gốc 10-15 cm để cây có thể phát triển tốt các lứa sau. Các lứa tiếp theo khoảng 25-30 ngày đối với các tháng mùa mưa, 40-45 ngày đối với các tháng mùa khô. Mỗi năm có thể thu hoạch được 9-10 lứa, sản lượng chất xanh đạt tới 200-250 tấn/ha/năm. Với những trang trại lớn, trồng với diện tích tập trung nhiều nên đầu tư áp dụng máy cắt cỏ để thu hoạch đồng đều, giảm công lao động. Sản phẩm có thể dùng cho ăn tươi, phơi khô hoặc ủ chua lên men để làm thức ăn dự trữ cho các tháng mùa đông thiếu cỏ tươi, lâu dài cho đại gia súc, đặc biệt là chăn nuôi bò sữa rất có giá trị và hiệu quả. 2. Cỏ VA06 31 Cỏ VA06 là giống cỏ Voi có năng suất cao. Cỏ thuộc họ hoà thảo, thân đứng, có nhiều đốt, rậm lá, sinh trưởng nhanh, ưa đất màu và thoáng, không chịu được ngập và úng nước. Tuỳ theo trình độ thâm canh, năng suất chất xanh trên một ha có thể biến động từ 350-500 tấn/năm (cỏ Voi chỉ đạt 100 đến 300 tấn/năm) và có chất lượng tốt hơn cỏ voi (VCK 14 - 17%; CP: 9 11%). Thời vụ trồng thích hợp là từ tháng 2 đến tháng 5. Trồng bằng thân cây (hom), chọn cây mập và hom bánh tẻ. Chặt vát hom với độ dài 25-30cm/hom và có 3-5 mắt mầm. Mỗi ha cần 8-10 tấn hom. Đặt hom trong lòng rãnh, chếch 450, cách nhau 30-40cm và lấp đất sao cho hom nhô trên mặt đất khoảng 10cm. Sau 30 ngày tiến hành bón thúc bằng phân đạm. (phân chuồng từ 25-30 tấn/ha; lân từ 400-500 kg/ha; kali từ 250-300 kg/ha; urê từ 450-500 kg/ha). Sau khi trồng 80-90 ngày thu hoạch đợt đầu. Cứ sau mỗi lần thu hoạch và cỏ ra lá mới lại tiến hành bón thúc. Khoảng cách những lần thu hoạch tiếp theo là 30-45 ngày. Cắt gốc ở độ cao 5cm trên mặt đất và cắt sạch, không để lại mầm cây, để cho cỏ mọc lại đều. Thường thu hoạch từ tháng 6 đến tháng 11. Nếu mùa khô chủ động được nước tưới thì có thể thu hoạch quanh năm. Chu kỳ kinh tế của cỏ voi là 3-4 năm. 3. Cỏ Ghinê Cỏ Ghinê còn gọi là cỏ sả, là loại cây hoà thảo, mọc thành bụi như bụi sả, là cỏ có giá trị dinh dưỡng cao, không bị giảm chất lượng nhanh như cỏ voi. Cỏ Ghinê sinh trưởng mạnh, năng suất cao, khả năng chịu hạn, chịu nóng và chịu bóng cây tốt, dễ trồng. Trồng thâm canh có thể cho năng suất cao, mỗi năm thu hoạch 8-10 lứa, năng suất 100-200 tấn/ha. Thời vụ trồng từ tháng 2 đến tháng 4. Có thể trồng bằng hạt, hoặc dùng khóm thân rễ, trồng theo bụi. Sau khi làm đất kỹ, rạch hàng cách nhau 40-50cm, sâu 10-15cm. Có thể trồng bằng hạt hay khóm giống. Cách chuẩn bị khóm giống như sau: cắt bỏ phần ngọn khóm cỏ giống, để cao khoảng 25-30cm. Dùng cuốc đánh gốc cỏ lên, rũ sạch đất, cắt bớt phần rễ già. Sau đó tách thành những khóm nhỏ, mỗi khóm 3-4 nhánh đem trồng bằng cách đặt các khóm vào rãnh, ngả cùng một phía và vuông góc với thành rãnh, cách nhau 35-40cm, lấp đất sâu khoảng 32 10-15cm và dậm chặt đất. Nếu trồng bằng hạt thì lấp đất dầy 5cm. Sau khi trồng 15-20 ngày kiểm tra và xới xáo, làm cỏ dại và bón thúc bằng urê. Khoảng 60 ngày sau khi trồng thì thu hoạch lứa đầu, cắt phần trên, cách mặt đất 10cm. Các lứa thu hoạch sau cách nhau 40-45 ngày. Thường thu hoạch từ tháng 5-11 hàng năm. Sau 4-5 năm mới phải trồng lại. 4. Cỏ Ruzi Cỏ Ruzi là loại cỏ lâu năm, thân bò, thân và cành nhỏ, có nhiều lá, thân và lá có lông mịn, cỏ có thể cao tới 1 m. Rễ chùm, phát triển mạnh và bám chắc vào đất. Cỏ có khả năng chịu được giẫm đạp cao nên có thể trồng làm bãi chăn thả gia súc. Cỏ Ruzi phát triển được trên nhiều loại đất khác nhau, cho năng suất cao nơi đất giàu dinh dưỡng đủ nước và thoát nước tốt. Năng suất xanh của cỏ Ruzi có thể đạt 80 tấn/ha/năm. Trồng 1 lần có thể thu hoạch 6 năm. Thời vụ trồng thích hợp là vào đầu mùa mưa. Cỏ Ruzi có thể được gieo trồng bằng hạt hay bằng thân khóm. Các khóm cỏ dùng làm giống được cắt bớt phần ngọn, phần gốc còn lại khoảng 25-30 cm. Dùng cuốc đánh cả khóm cỏ lên, rũ đất và cắt ngắn rễ, chỉ để lại còn 4 - 5 cm. Sau đó dùng dao chia tách thành những cụm khóm nhỏ, mỗi cụm gồm 4-5 dảnh. Các khóm cỏ giống được đặt vuông góc với thành rạch, khóm nọ cách khóm kia 35-40 cm. Dùng cuốc lấp kín 1/2 thân cây, dậm chặt để giữ độ ẩm. Mỗi ha trồng mới cần 4-5 tấn khóm. Nếu trồng bằng hạt cần xử lý hạt trước khi gieo bằng cách ngâm hạt vào nước ấm (60-700C) trong vòng khoảng 15 phút. Sau đó vớt hạt ra, rửa sạch bằng nước lã và ngâm thêm khoảng 60 phút, rồi vớt ra đem gieo. Hạt được gieo theo hàng rạch, lấp đất mỏng (3 cm). Mỗi ha cần 4-5 kg hạt giống Cỏ Ruzi có thể sử dụng làm thức ăn xanh, cỏ khô hay cỏ ủ xanh đều tốt, cắt lứa đầu 60 ngày sau khi gieo, các lứa sau cắt cách nhau 40 ngày, cắt 5-10 cm cách mặt đất. Cỏ Ruzi cũng có thể được trồng để chăn thả gia súc. 5. Cỏ lông Para Cỏ lông Para (Brachiaria mutica) là loài cỏ lâu năm, có cả thân bò và thân nghiêng, tạo 33 thành thảm cỏ có thể cao tới 1 m. Cành cứng, to, rỗng ruột, đốt dài 10-15cm, mắt hai đầu đốt có mầu trắng xanh và có khả năng đâm chồi. Thân và lá cỏ đều có lông ngắn. Cỏ ưa khí hậu nóng ẩm, phát triển rất mạnh ở chỗ đất bùn lầy, chịu đuợc đất ngập nuớc chứ không chịu đuợc khô cạn, là cây cỏ phổ biến ở hầu hết các vùng đất không thoát nuớc và đất ngập úng. - Năng suất xanh của cỏ lông Para đạt 70-80 tấn/ha/năm, có nơi đạt 90-100 tấn/ha/năm. Đặc biệt, cỏ lông Para có khả năng phát triển tốt vào vụ đôngxuân nên nó chính là cây hoà thảo trồng cung cấp thức ăn xanh cho gia súc vào vụ này rất tốt. - Thời vụ trồng từ tháng 3-9 hàng năm. - Chuẩn bị đất: Đất trồng cỏ cần đuợc cày bừa kỹ, cày bừa xong cần vơ sạch cỏ dại, san đất phẳng,rạch hàng sâu 15 cm, hàng cách hàng 40 cm. - Phân bón: Tuỳ theo loại đất, trung bình cho 1 ha đất trồng cỏ bón như sau: + Phân chuồng hoai mục: 15 - 20 tấn + Lân: 250 - 300 kg + Kali: 150 - 200 kg Các loại phân trên bón lót toàn bộ theo hàng trồng cỏ. Hàng năm có thể sử dụng 400 kg urê/ha chia đều cho bón thúc và sau mỗi lần thu hoạch. - Gieo trồng: Thông thuờng cỏ lông Para đuợc gieo trồng bằng cành. Cành giống đuợc cắt từ ruộng giống 3-4 tháng tuổi. Trồng bằng cành nên chọn đoạn đã ra rễ, cắt dài 30 cm, trồng theo rãnh, cành cách nhau 30-40 cm, nằm dọc theo rãnh, phủ đất mỏng, cần 2 tấn giống cho 1 ha. Sau khi trồng đuợc 1 tháng, dùngcuốc xớivàváng và diệt cỏ dại. Cỏ lông Para không chịu đuợc giẫm đạp do vậy chỉ nên trồng để thu cắt làm thức ăn xanh cho ăn tại chuồng hay ủ chua, cắt lứa đầu 4560 ngày sau khi gieo, các lứa sau cắt cách nhau 30-35 ngày, cắt 5-10 cm cách mặt đất. Cỏ trồng 1 lần có thể sử dụng đến 4-5 năm. 6. Cây ngô Ngô thuộc họ hoà thảo, không có khả năng chịu hạn và chịu ngập nước. Khi gieo trồng làm thức ăn thô xanh cho bò cần phải gieo hạt dầy hơn so với ngô dùng lấy hạt, khoảng từ 10-15%, tức khoảng 2,5-3kg/ sào. 34 Cần chọn giống ngô có chu kỳ thực vật ngắn, có khả năng thích ứng và chống chịu với các điều kiện ngoại cảnh, có tổng khối lượng vật chất trên một đơn vị diện tích lớn. Năng suất chất xanh có thể đạt 35-40 tấn/ha/vụ. Ngô làm thức ăn xanh có thể trồng từ tháng 2 đến tháng 11. Trồng theo mật độ: hàng cách hàng 50-60cm, theo khóm hoặc theo hàng liên tục. Cần xới xáo gốc cho đất tơi xốp và làm sạch cỏ dại. Nên làm cỏ hai lần: lần làm cỏ đầu tiên tiến hành khoảng 3 tuần sau khi gieo hạt. Trong trường hợp gieo ngô theo khóm thì tỉa bớt 1 cây nếu trong khóm có ba cây. Lần làm cỏ thứ hai, tương ứng với lần bón đạm thứ hai và nên tiến hành vun gốc. Sau khi làm cỏ thì bón đạm. Cây ngô có thể thu hoạch 80-90 ngày sau khi trồng để cho bò ăn xanh hay làm thức ăn ủ xanh. II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP BẢO QUẢN VÀ CHẾ BIẾN THỨC ĂN CHO BÒ THỊT CAO SẢN 1. Ủ xanh thức ăn Thức ăn ủ xanh là loại thức ăn thô xanh được cắt ngắn cho vào bể hoặc hố ủ, đầm nén thật chặt, tạo môi trường yếm khí, để lên men nhẹ và lấy cho bò ăn dần. Thức ăn ủ xanh giữ được chất dinh dưỡng của nguyên liệu ủ, được bò ăn ngon miệng và dễ tiêu hoá. Tất cả các loại cây thức ăn như cỏ xanh tự nhiên, cỏ trồng như cỏ voi, cỏ ghi nê, thân cây ngô bắp ngậm sữa, thân cây ngô sau thu bắp đều có thể ủ xanh. Cỏ để ủ xanh nên được cắt vào thời điểm trước khi ra hoa, không quá non do chứa nhiều nước khó ủ và cũng không nên để quá già. Nếu là cỏ trồng nên thu cắt sau 45 ngày. Có thể ủ nhiều loại cây cỏ dùng làm thức ăn xanh cho bò với nhau. Cỏ họ đậu nên ủ chung với cỏ voi hoặc thân cây ngô sau khi thu bắp. Các nguyên liệu bổ sung khi ủ: rỉ mật đường 2-4% (hoặc 4-5% bột ngô); muối ăn: 1-2% so với khối lượng thức ăn xanh cần ủ. Hố ủ: Tính theo số lượng bò nuôi, nhu cầu thức ăn và lượng thức ăn thô xanh cần dự trữ cho vụ đông xuân, mùa khô và giai đoạn nuôi vỗ béo bò thịt mà chuẩn bị hố ủ. Hố ủ 1m3 ủ được 750-800 kg cỏ, hố ủ có thể xây bằng gạch trát xi măng. ở đáy hố ủ cần có rãnh dốc để thoát nước ủ ra ngoài khi cần thiết. 2. Phơi khô và bảo quản rơm lúa Rơm là nguồn thức ăn dự trữ chủ yếu và phổ biến nhất của gia súc nhai lại vùng đồng bằng, trung du, miền núi. Thu hoạch vụ mùa là lúc thời tiết thuận lợi cho việc tận thu rơm làm thức ăn cho bò. Lưu ý rơm dễ bị thối mốc, chất 35 lượng dinh dưỡng sẽ giảm sút. Nếu phơi được nắng thì rơm có mầu vàng tươi và có mùi thơm, gia súc nhai lại thích ăn. So với một số loại thức ăn thô xanh, rơm là loại thức ăn có giá trị năng lượng trao đổi cao hơn, nhưng rơm lúa thường có tỷ lệ chất xơ cao, bị lignin hoá cao, ít protein (2,2-3,3%) và rất ít chất béo (1-2%). Rơm thường nghèo vitamin và khoáng, vì vậy phải ủ rơm với urê 4% để tăng giá trị dinh dưỡng của rơm. 2. Ủ rơm khô với urê Rơm lúa sau khi ủ với urê có tỷ lệ tiêu hoá cao hơn vì được bổ sung thêm nitơ, mềm hơn nên bò ăn được nhiều hơn so với rơm không xử lý. Rơm khô ủ với urê được áp dụng theo tỷ lệ: cứ 100 kg rơm khô cần 4 kg urê và 80-100 lít nước. Cách làm: Pha urê vào nước theo tỷ lệ trên, lưu ý khuấy đều cho urê tan hết. Trải rơm theo các lớp dầy 20 cm. Cứ sau mỗi lớp, dùng ô doa tưới đều nước urê sao cho ướt đều rơm, lấy cào đảo qua đảo lại và nén cho chặt. Cứ làm như vậy cho đến khi hết rơm và hết nước. Cuối cùng, cho vào túi ni lông buộc lại hoặc cho vào góc nhà hay hố ủ, dùng một tấm nilông phủ lên trên sao cho thật kín để không khí, nước mưa bên ngoài không lọt vào và khí amoniac bên trong không bay ra được. Sau khi ủ 7-10 ngày có thể lấy rơm ra cho gia súc nhai lại ăn. Lấy lượng vừa phải theo nhu cầu từng bữa, trước đó cần tập cho bò ăn. Lấy xong lại đậy kín. Yêu cầu rơm ủ urê phải mềm, mùi thơm nhẹ, mầu vàng gần với mầu tự nhiên của rơm trước khi ủ, không bị đen và không có nấm mốc. 3. Ủ rơm tươi với urê Việc ủ rơm tươi có nhiều ưu điểm so với ủ rơm khô. Rơm tươi có giá trị dinh dưỡng cao hơn so với rơm khô vì nhiều chất dinh dưỡng bị mất trong quá trình phơi khô. Tỉ lệ tiêu hóa rơm tươi cao hơn so với rơm khô và còn cao hơn cả đối với rơm khô ủ urê. Sau mỗi vu gặt chỉ cần ủ một lần, dự trữ để cho ăn tới hết. Khi ủ không cần hòa urê vào nước mà có thể rải urê trực tiếp vào rơm theo từng lớp. Ủ rơm tươi với urê bảm bảo giá trị dinh dưỡng của rơm, giữ nguyên gần như ban đầu. Rơm tươi ủ với urê được áp dụng theo tỷ lệ: 100 kg rơm tươi với 1,5kg urê (có thể bổ sung thêm 1kg vôi). Cho rơm vào hố ủ, một lớp rơm thì rải một lớp urê, làm như thế cho đến kho đầy hố. Phủ hố ủ bằng bao nilon cho kín. Vì rơm còn tươi nên đòi hỏi phải nén thật chặt và phủ nilon thật kín nhằm tránh tổn thất trong quá trình hô hấp và lên men vi sinh vật. 4. Ủ rơm với urê và rỉ mật đường 36 Tỷ lệ rơm, u rê, nước cũng giống như trên nhưng thêm rỉ mật đường: 4 kg rỉ mật cho 100 kg rơm. Rỉ mật giúp cho quá trình lên men tốt hơn, mặt khác còn cung cấp thêm năng lượng đường cho bò. Rơm ủ có thêm rỉ mật đường có mùi thơm hơn, ít hăng, vị ngọt, bò sẽ thích ăn và ăn được nhiều hơn. Giá trị dinh dưỡng của rơm ủ cũng cao hơn. Cách ủ hoàn toàn giống như ủ rơm với u rê, nhưng cần chú ý sao cho u rê, rỉ mật đường hoà tan đều với nhau trong nước trước khi tưới lên rơm để ủ. 5. Ủ rơm với vôi Có hai hình thức xử lý bằng vôi: - Ngâm rơm trong nước vôi: tương tự như xử lý với NaOH. - Ủ rơm với vôi: rơm đựơc trộn đều với 4-6% vôi Ca(OH)2 hoặc CaO, nước (40-80kg/100kg rơm) và ủ trong 2-3 tuần. Việc dùng vôi xử lý rơm có các ưu điểm là vôi rẻ tiền và sẵn có, bổ sung thêm Ca cho rơm, an toàn và không gây ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, vì vôi là kiềm yếu nên tác dụng xử lý không cao nếu ngâm nhanh. Hơn nữa, vôi khó hoà tan và không bốc hơi nên khó trộn đều trong nguyên liệu xử lý và khi xử lý vôi rơm dễ bị mốc, do vậy lượng thu nhận không ổn định. 6. Ủ rơm với urê và vôi - Việc kết hợp dùng urê và vôi sẽ đem lại hiệu quả tốt hơn dùng riêng vôi hoặc urê. Có thể xử lý theo một trong các công thức sau đây: + Rơm khô 100kg, urê 4 kg, nước sạch 70-100 lít. + Rơm khô 100kg, urê 4 kg, vôi tôi 0,5 kg, nước sạch 70-100 lít (nếu giá urê rẻ) + Rơm khô 100kg, urê 2,5 kg, vôi tôi 2-3 kg, nước sạch 70-100 lít (nếu giá urê đắt) - Hố ủ và dụng cụ: Có 3 loại hố ủ (có 3 vách, có 2 vách cạnh nhau hoặc 2 vách đối diện). Dung tích hố ủ phụ thuộc vào số lượng rơm cần ủ để đáp ứng được nhu cầu của gia súc. Nếu không làm hố ủ có thể ủ rơm trong túi nilon (bao đựng phân đạm) lồng trong bao tải dứa (100kg rơm cần 10-12 bao tải dứa). - Cách ủ: + Urê và vôi được hòa vào nước cho tan đều. + Nếu ủ trong hố thì rải từng một lớp rơm mỏng (20cm) rồi tưới nước urê/vôi sao cho đều rơm, đảo qua đảo lại sao cho ngấm nước urê, dùng chân nén chặt, rồi lại tiếp tục rải một lớp rơm và nước, lại nén cho chặt. Sau đó phủ 37 bao nilon lên trên sao cho thật kín, không để không khí, nước mưa ở ngoài lọt vào và khí amoniac ở trong bay ra. + Nếu ủ trong túi thì trên sân gạch, hay trên 1 tấm nilon rộng chừng 2-3m2, trải từng lớp rơm dày khoảng 20cm. Sau đó tưới nước đã hòa tan urê và vôi cho thấm ướt đều tất cả các lớp rơm, không dội quá nhiều làm thừc nước urê chảy đi gây lãng phí. Tiếp theo cho lớp khác vào và lại tưới đều, lần lượt như vậy cho tới khi ẩm hết lượng rơm cần xử lý. Các lớp dưới nên tưới ít hơn lớp trên vì phần nước dư thừa sẽ thấm xuống các lớp dưới. sau khi rơm được tưới đều thì cho chúng vào bao tải dứa, nén thật chặt rồi buộc lại. Đặt các bao này nơi sạch sẽ, tránh nắng, mưa, ẩm ướt. - Cho ăn: Sau khi ủ 2 tuần (mùa hè) hoặc 3 tuần (mùa đông) bắt đều có thể lấy rơm ra cho ăn. Lấy vừa đủ lượng rơm cần thiết cho từng bữa. lấy xong đậy kín hố ủ hoặc buộc kín bao nilon lại. Rơm ủ có chất lượng tốt sẽ có màu vàng đậm, mùi urê, không có mùi mốc, rơm ẩm, mềm. 7. Ủ chua cây ngô - Nguyên liệu: + Đối với cây ngô còn non có hàm lượng vật chất khô còn thấp thì cần phơi tái trước khi ủ để tăng hàm lượng VCK lên trên 25% + Đối với cây ngô già sau thu bắp thì không cần phơi mà ủ ngay vào chính ngày thu hoạch bắp. Cần bổ sung thêm rỉ mật hoặc cám (để tăng bột đường). Thường dùng 10kg rỉ mật cho một hố ủ 1,5 khối. - Hố ủ: Được xây dựng bằng gạch và xi măng. Mỗi hố có thể có kích thước 1m x 1m x 1,5m = 1,5 khối. - Cách ủ: Thái thân cây và lá ngô dài 5-10cm. Loại bỏ những lá khô ở gốc cây (nếu có). Chất nguyên liệu vào hố ủ theo lớp dày 15-20cm và nén chặt. Đối với cây ngô già thì hòa rỉ mật đường với 50% nước và tưới đều. Chú ý không ủ vào lúc trời mưa. Cho ăn: Sau khi ủ 3 tuần có thể lấy thức ăn ra cho ăn. Lấy vừa đủ lượng cần thiết cho tưng bữa. Lấy xong đậy kín hố ủ để tránh không khí và nước mưa ngấm vào. 8. Ủ chua ngọn lá mía Ngọn lá mía là phần trên của cây mía được chặt bỏ lại sau khi thu hoạch cây mía. Đây là một nguồn phụ phẩm có khối lượng rất lớn của ngành mía đường. Về nguyên tắc gia súc nhai lại hoàn toàn có thể sử dụng nguồn phụ phầm này làm thức ăn. Đặc biệt vụ thu hoạch mía (tháng 11đến tháng 3) trùng với vụ thiếu cỏ xanh nên ngọn lá mía có thể dùng làm nguồn thức ăn thô xanh 38 quan trọng cho trâu bò. Tuy nhiên, do việc thu hoạch mía mang tính ồ ạt theo từng đợt nên cần được ủ chua để sử dụng được rải vụ. Khi thu hoạch mía làm đường, phần ngọn lá còn xanh chiếm từ 10-12% tổng sinh khối cây mía. Mặc dù hàm lượng xơ cao (40-43%) nhưng lá mía lại chứa một lượng đáng kể dẫn xuất không đạm thích hợp cho quá trình lên men và có thể dùng để ủ chua. Ngọn lá mía khi thu hoạch cây hãy còn xanh được thái nhỏ từ 2-3 cm (phần cứng hư búp ngọn cần đập dập trước khi thái nhỏ). Cứ 100kg ngọn lá mía cần bổ sung thêm 1,5 kg rỉ mật, 3 kg bột sắn và 0,5 kg muối ăn. Phương pháp chuẩn bị hố ủ, cách ủ tương tự như ủ cây ngô sau khi thu bắp xanh. Hàng ngày trâu, bò cày kéo nên cho ăn 10-12kg và ăn thêm cỏ xanh, rơm. Trâu, bò không phải làm việc trong mùa đông cho ăn 5-7kg cùng với rơm lúa và chăn thả. 9. Ủ chua cây lạc Cây lạc khi thu hoạch củ vẫn còn xanh và giàu chất dinh dưỡng. Đặc biệt chúng có hàm lượng protein thô khá cao (15-16%, cao hơn gần 2 lần lượng protein thô trong hạt ngô). Có thể biến cây lạc theo phương pháp ủ chua, dự trữ được hàng năm làm thức ăn cho trâu bò. Thân cây lạc sau khi thu hoạch củ được cắt bỏ phần gốc già ( bỏ đi khoảng 10-15cm). Băm xong để hong trong bóng râm tránh bị ủng vàng, rồi tiến hành ủ ngay trong 1-2 ngày. Khi ủ thân cây lạc cần bổ sung bột sắn, hay cám gạo hoặc ngô và muốn ăn theo tỉ lệ sau: cứ 100kg thân lá lạc cần bổ sung 6-7kg bột sắn (hay cám hoặc ngô) và 0,5kg muối ăn. Thân cây lạc không được rửa ướt, nếu có dính đất hoặc sỏi đá thì cần rũ khô loại bỏ đất đá. - Hố ủ xây bằng gạch rất tốt, song giá thành khá cao, loại hình này có thể áp dụng cho các hộ nông dân có điều kiện kinh tế. Do vậy, hố ủ đào đắp bằng đất nửa nổi nửa chìm là loại hố ủ có thể áp dụng rộng rãi trong các hộ nông dân. Tạo hố ủ kiểu này nên lưu ý đến các vật lệu dùng làm điệm lót (tốt nhất lên dùng nylon, vải mưa cũ, bao đựng phân đạm, lá chuối...) nếu không dễ bị nước ngấm vào gây thối, mốc. Hố ủ nên làm ở nơi khô ráo sạch sẽ, không có nước thấm vào. Kinh nghiệm ở nhiều nơi là làm hố tròn có đường kính 1m, đào sâu 1m và đắp cao thêm 0,4m. Hố ủ này có dung tích khoảng 1,1m3 và ủ được khoãng 440-489 kg thân lá lạc. - Cách ủ: Lót kỹ đáy và thành hố ủ bằng 1-2 lớp lá chuối tơi hoặc tấm áo mưa hỏng, bao tải dứa hoặc tấm nylon để đất cát không lẫn vào thức ăn ủ. Hỗn hợp các nguyên liệu theo tỉ lệ, trộn đều ở ngoài thành hố ủ rồi bốc vào hố ủ theo từng lớp (mỗi lớp có độ dày 15-20cm), dùng chân nén nguyên liệu cho 39 chặt. Cũng có thể cân lá lạc rồi trải vào hố ủ thành từng lớp có độ dày cũng từ 15-20cm rồi rắc đều cám và muối theo tỉ lệ nêu trên sau đó cũng nén lá lạc thật chặt. Cứ ủ lần lượt như vậy cho đến khi hết thân lá lạc hay đầy hố. Sau khi nén hết thân lá lạc, dùng nylon, vải mưa cũ, bao tải dứa, lá chuối... phủ kín lên rồi dùng xẻn lấp đất lên (lớp đất dày cần thiết là 30-40 cm). Đầm nén chặt lớp đất và tạo thành hình mui rùa. Sau khi ủ xong 3-4 ngày để cho đống ủ ngót xuống và cho thêm một chút đất lên mặt và nén chặt lại. Dùng tranh, lá mía, lá cọ hoặc rơm, rạ phủ lên đóng ủ một lớp dày để tránh nước mưa thấm xuống. - Cho ăn: Sau khi ủ 50-60 ngày mới có thể dùng cho gia súc ăn. Nếu chưa cần dùng đến có thể ủ lâu hơn (thậm chí hằng năm vẫn dùng tốt). Chú ý không nấu chín thức ăn ủ vì sẽ làm mất vitamin và các chất dinh dưỡng. Thân lá lạc ủ chua tốt có màu vàng nhạt mềm, hơi đàn hồi, mùi như mùi dưa muối. Nếu thân lá lạc có màu đen thẫm, ủng nát, mùi khó ngửi là có chất lượng kém, bị hư hỏng, không nên cho ăn. - Lượng cho ăn: + Trâu bò cày kéo: 10-15kg/ngày và ăn thêm cỏ xanh, rơm. + Trâu bò trong muà đông: 5-6kg/ngày, ăn thêm rơm và chăn thả. Khi lấy thân lá lạc ra cho gia súc ăn nên lấy gọn gàng, theo trình tự, tránh lãng phí, nên lật lớp đất lên trên vừa đủ rộng, không được cùng một lúc bóc hết toàn bộ lớp đất phủ phía trên hố ủ. Hằng ngày lấy thức ăn ủ cho gia súc ăn, sau đó cần phải dùng vải mưa hoặc bao tải che kín và tiếp tục không cho nước mưa thấm vào thức ăn ủ chua. 10. Ủ chua ngọn lá sắn Ngọn lá sắn thu về cần phải đập dập phần thân cây (phần ngọn) và băm nhỏ 3-4cm. Cứ 100kg ngọn sắn cần bổ sung: 5-6kg bột sắn hay cám gạo hoặc bột ngô và 0,5kg muối ăn. Phương pháp sử dụng hố ủ, cách ủ và cách sử dụng tương tự như đối với cây lạc ủ chua. 11. Ủ chua phụ phẩm dứa Phụ phẩm dứa bao gồm chồi ngọn của quả dứa, vỏ cứng ngoài, những vụn nát trong quá trình chế biến dứa, bã dứa ép và toàn bộ lá của cây dứa phá đi trồng mới. Có thể áp dụng một trong các công thức ủ sau: + 75% chồi ngọn dứa + 25% vỏ và bã dứa + 0,5% muối ăn. + 100% chồi ngọn, thân và lá dứa + 0,5% muối ăn. +100% vỏ và bả dứa ép + 0,5% muối ăn. +50% chồi ngọn và phụ phẩm khác + 50% cây ngô + 0,5% muối ăn. 40
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan