BÀI THẢO LUẬN
Môn : VĂN HÓA KINH DOANH
GVHD :
Nguyễn Tiến Mạnh
Lớp
DHQT5A5
:
Nhóm :
Tổ
I
:
1
Danh sách sinh viên
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.
Đoàn Thị Ngọc Anh
Lương Thị Dịu
Vũ Trường Giang
Lê Thị Thu Hà
Lưu Thị Thu Hăng
Nguyễn Thị Thu Hải
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh
Đỗ Thị Hạnh
Nguyễn Thị Thu Hiền
Bùi Thúy Lan
Hồ Thị Len
Nguyễn Thị Diệu Linh
KINH TẾ LẠC HẬU THÌ VĂN HÓA CŨNG LẠC
HẬU THEO
Kinh tế và văn hóa có một mối quan hệ biện chứng sâu sắc.
Đầu tiên, ta cần hiểu văn hóa là gì? Kinh tế là gì?
Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất, và tinh thần mà loài người
tạo ra trong lịch sử. Trong một xã hội, văn hóa đóng vai trò vai trò
điều tiết và và dẫn dắt sự phát triển của toàn Xã điều này dược thể
hiện trong mọi mặt của đời sống : chính trị, hành chính nhà nước,
phát triển KT, giáo dục , ngoại giao,...
Kinh tế là tổng thể các yếu tố SX, các điều kiện sống của con người,
các mối quan hệ trong quá trình SX, và tái SX trong XH. Kinh tế là
vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống xã hội. Trong xã hội hiện nay
đây là vấn đề có sức ảnh hưởng mạnh mẽ nhất trong mọi lĩnh vực đời
sống.
Như vậy có thể thấy kinh tế và văn hóa là hai yếu tố chính quy định
sự tồn tại của một xã hội.
Mối quan hệ giữa KT và văn hóa :
Kinh tế là nền tảng vật chất và văn hóa là nền tảng tinh thần của
xã hội. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa là
mối quan hệ nội tại, mang tính bản chất, phải được giải quyết một cách
đúng đắn, hài hòa, sao cho tăng trưởng kinh tế thật sự là tiền đề và điều
kiện để phát triển văn hóa; phát triển văn hóa, văn học, nghệ thuật thực
sự là mục tiêu và động lực của phát triển kinh tế.
Vì những mối tương quan sâu sắc ấy,ta có thể khẳng định chắc
chắn trình độ phát triển của kinh tế ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát
triển của năn hoá
Vì sao “kinh tế lạc hậu thì văn hóa cũng lạc hậu theo”?
Một đất nước tồn tại và phát triển dựa vào rất nhiều yếu tố . Trong
đó 2 yếu tố tiên quyết là KT và Văn hóa. Như chúng ta đã biết KT
là nền tảng của vật chất, văn hóa là nền tảng của XH.
Một nền KT lạc hậu thể hiện ở nhiều điểm như :
- Một nền KT dễ bị tổn thương từ các tác động bên ngoài
- GDP ở mức thấp và giảm liên tục qua các năm, lạm phát tăng
cao với tốc độ nhanh chóng.
- Các chỉ số phát triển về KT, XH, con người,... đều ở mức thấp
- Hoạt động KT diễn ra không ổn định ( hệ thống pháp luật chưa
hoàn thiện, chính sách quản lý thiếu chặt chẽ,...)
Nền KT lạc hậu như trên sẽ dẫn đến một loạt các ảnh hưởng
không tốt,điển hình kéo theo một nền Văn hóa lạc hậu:
- KT lạc hậu sẽ không có nguồn đầu tư đầy đủ và đích đáng cho
các hoạt động của đất nước : An ninh , quốc phòng, giáo dục , y
tế, phúc lợi XH,...
- Khi nền kinh không thể đáp ứng đầy đủ cho nhu cầu phát triển
của con người sẽ tạo ra trở ngại lớn cho sự phát triển nguồn
nhân lực cho XH
........
Có thể xét một ví dụ sau để thấy rõ nhận định trên: Trong giai đoạn
nền KT Việt Nam trước thời kỳ đổi mới hay còn gọi là nền KT
bao cấp của Vệt Nam. Đó là một nền KT tập trung, quan liêu bao
cấp, hết sức lạc hậu, ... Từ đó kéo theo một nền Văn hóa cũng lạc
hậu không kém :
-
Những mất cân đói và nguy cơ bất ổn tiềm tàng trong đời sống
KT – XH bị tích nén lại
- Tình trạng thiếu hụt KT làm gia tăng các căng thẳng trong đời
sống XH
- SX công nghiệp bị đình đốn
- Lưu thông, phân phối ách tắc
- Lạm phát ở mức ba con số
- Đời sống của các tầng lớp Nhân dân sa sút chưa từng thấy
Có thể nói giai đoạn này đã dược các nhà KT học nhận định
rằng : Nó đã kéo lùi của VIệt Nam so với Thế giới hàng thập kỷ,
từ sự lạc hậu của nền KT đã kéo theo sự lạc hậu trong nền Văn
hóa.
Ngược lại một nền KT phát triển thì văn hóa cũng phong phú
và đa dạng :
Một nền kinh tế phát triển là nền kinh tế có đầy đủ các yếu tố để
đầu tư cho sự phát triển của 1 xã hội. Là nền móng quan trọng
góp phần hoàn thiện nền văn hóa.
Người ta kính trọng một quốc gia hay một con người không chỉ do
một yếu tố duy nhất là “giàu” mà còn nhiều yếu tố khác: nước đó
có bao nhiêu Nobel về khoa học hay văn chương, hiện có bao
nhiêu nhà làm phim, bao nhiêu nhà nghệ thuật, bao nhiêu nhà trí
thức có tiếng nói ảnh hưởng đến dân chúng, có nhà chính trị kinh
tế nào làm thay đổi vận mệnh của một đất nước?,nhưng để làm
được những điều trên thì thật là thiếu sót nếu không nói đến vai trò
mà nền kinh tế phát triển của đất nước đó “hỗ trợ”.
Ta có thể xem ví dụ sau:
Những cái nhất của Thụy Điển
Thứ Bảy 23, Tháng Sáu 2007
Kinh tế thành công nhất
Hiện nay kinh tế Thụy Điển phát triển tốt nhất châu Âu, tăng trưởng năm
2005 đạt 2,7%; dự tính đến năm 1010 có thể đạt mức 15%. Thụy Điển
được Diễn đàn kinh tế thế giới xếp thứ 3 trong số các nước có sức cạnh
tranh nhất thế giới, chỉ sau Mỹ và Phần Lan.
Xét theo chỉ tiêu do Trung tâm dữ liệu IDC Canada điều tra công bố,
Thụy Điển xếp thứ nhất ba năm liền trong bảng xếp hạng của IDC, vì họ
có nền kinh tế ổn định, thực lực mạnh, nhiều nhân tài cao cấp và cơ sở
hạ tầng rất tốt. Họ rất coi trọng mối quan hệ giữa phát triển công nghiệp
với giáo dục, tỷ lệ đầu tư cho nghiên cứu hàng năm cao nhất thế giới, do
đó nhiều công ty hàng đầu thế giới về thông tin, điện tử đều lập trung
tâm nghiên cứu tại Thụy Điển.
GDP Thụy Điển năm 2005 bằng khoảng hơn 268 tỷ USD, trong đó dịch
vụ chiếm hơn 70%; GDP đầu người 29800 USD. Ngân sách nhà nước:
thu hơn 210 tỷ USD, chi gần 206 tỷ USD. Tỷ lệ thất nghiệp 5,8%, tỷ lệ
lạm phát 0,5%. Bình quân 2 người dân có 1 ô tô, 1 ti vi. 9 triệu dân mà
có gần 6,5 triệu máy điện thoại cố định và hơn 8,4 triệu điện thoại di
động, gần 5,2 triệu người sử dụng Internet.
Tuy giàu có nhưng thủ đô Stockholm của Thụy Điển chẳng phải là nơi
xa hoa phung phí. Trong bảng xếp hạng về chỉ số tiêu dùng sinh hoạt của
141 thành phố lớn công bố đầu năm nay, Stockholm xếp thứ 36, sau thủ
đô các nước Bắc Âu khác như Copenhaghen (8), Oslo (10).
Phúc lợi xã hội tốt nhất
Thụy Điển thi hành chính sách phúc lợi bảo đảm mỗi người dân từ lúc
lọt lòng cho tới lúc chết đều có cuộc sống đầy đủ. Người lao động về
hưu đều có lương hưu đủ sống; người già yếu nếu thích có thể vào viện
dưỡng lão của nhà nước, được chăm sóc y tế miễn phí, điều kiện sống
tương đương khách sạn 3 sao. Người thất nghiệp được định kỳ lĩnh tiền
cứu tế, được nhà nước miễn phí giới thiệu việc làm trong phạm vi toàn
quốc; nếu nơi làm việc mới cách xa chỗ ở, nhà nước có thể giúp một
phần kinh phí dọn nhà. Toàn dân được đi học không mất tiền suốt đời;
luật qui định từ nhà trẻ cho đến bậc trung học, nếu trong lớp có một học
sinh nước ngoài, thì nhà trường phải bố trí một giáo viên biết tiếng mẹ
đẻ của em đó, mỗi tháng phải lên lớp một số giờ bằng tiếng mẹ đẻ cho
em này. Sinh viên tốt nghiệp chưa có việc làm và chưa muốn rời trường
thì có thể học tiếp miễn phí. Phụ nữ được nghỉ đẻ 18 tháng, 12 tháng đầu
hưởng 100% lương, 6 tháng cuối 90%; nếu đến tháng thứ 18 lại có thai
sẽ được nghỉ tiếp hưởng 90% lương; khi sinh con lại được hưởng chế độ
nghỉ đẻ 18 tháng. Nếu vợ làm công việc quan trọng không thể hoặc
không muốn nghỉ đẻ lâu, thì chồng có thể nghỉ thay vợ. Người bị tạm
giam hoặc bị tù được nuôi ăn ở không mất tiền, mỗi tháng được lĩnh một
khoản tiền mặt trợ cấp không nhỏ... Nhờ phúc lợi xã hội tốt, đời sống cơ
bản của mỗi người dân bao giờ cũng đều có sự bảo đảm cần thiết. Vì thế
xã hội yên ổn, trật tự kỷ cương. Tuổi thọ bình quân nam giới đạt 77,3
tuổi; nữ 82,8 tuổi.
Công bằng, bình đẳng, ít tham nhũng nhất
Đây là đặc điểm nổi bật của đất nước rộng gần gấp rưỡi Việt Nam và chỉ
có gần 9 triệu dân này. Tuy rất giàu và có các công ty nổi tiếng như ô tô
Volvo, may mặc H&M (lớn nhất châu Âu), nhưng các nhà tư bản ở đây
không tham lam vơ tiền của vào túi họ mà thực hiện sự phân phối công
bằng nhất thế giới. Truyền thống dân tộc 5000 năm lịch sử và luật pháp
Thụy Điển không cho phép tồn tại bất công và tham nhũng. Cả nước chỉ
có một số cực ít doanh nhân xuất sắc, như Tổng Giám đốc Volvo mới có
thu nhập trên 1 triệu Krona/năm (7,47 Krona = 1 USD). Nhìn chung
chênh lệch về thu nhập thực tế của tuyệt đại đa số là nhỏ. Tiền lương đã
trừ thuế của Thủ tướng chỉ bằng 2-3 lần lương công chức bình thường.
Ngoài lương ra, người lãnh đạo không có bất kỳ phụ cấp nào. 10%
người giàu nhất nước chiếm có 20,1% của cải xã hội (ở Mỹ là 28,5,
Trung Quốc 30,9%). Luật pháp quy định: chỉ Chủ tịch Quốc hội, Thủ
tướng, Bộ trưởng Ngoại giao, Bộ trưởng Quốc phòng mới được cấp ô tô
công vụ, còn tất cả các quan chức khác đều đi lại bằng các phương tiện
giao thông công cộng hoặc xe riêng tự lái; Bộ trưởng chỉ được phép
nhận quà tặng có giá trị không quá 1500 Krona (khoảng 180 USD); cao
hơn thì quà tặng thuộc về nhà nước. Thuế thu nhập lũy tiến có thuế suất
rất cao; thậm chí tới 70% đối với người có thu nhập cao. Nhờ đó nhà
nước nắm được 2/3 thu nhập quốc dân và có nguồn để thực hiện sự phân
phối công bằng trong xã hội.
Diễn đàn kinh tế thế giới năm ngoái bình chọn Thụy Điển là quốc gia
thực hiện nam nữ bình đẳng nhất thế giới – 80% phụ nữ đi làm; nữ
chiếm 40% số nghị viên quốc hội; một nửa thành viên chính phủ là nữ.
Năm nay, một đoàn thể phụ nữ Thụy Điển ra tuyên bố phải “đánh đổ
tình trạng nam giới nắm chính trị”; họ giành được sự ủng hộ của ít nhất
¼ số dân Thụy Điển. Tuy đoàn thể đó cuối cùng phải giải tán vì nội bộ
bất đồng về các chính sách như đề xướng hủy bỏ hôn nhân, sử dụng họ
tên không phân biệt nam nữ, dù sao sự việc này cũng cho thấy trào lưu
tư tưởng bình đẳng ở Thụy Điển rất mạnh. Một nữ giáo sư trường đại
học Stockholm nói: “Trong lịch sử, vì Thụy Điển là một nước nhỏ yếu,
nghèo khổ nên nam nữ đều phải chung sức cố gắng làm việc; mọi người
không để ý tới sự phân biệt nam nữ.”
Sạch nhất
Mới đây chính phủ Thụy Điển tuyên bố: trong vòng 15 năm họ sẽ trở
thành quốc gia đầu tiên trên thế giới không dùng xăng dầu. Trong khi
các nước khác lo ngại trước việc giá dầu mỏ tăng lên thì người Thụy
Điển chẳng có gì phải lo. Năng lượng hạt nhân và thủy điện hiện dùng sẽ
bị thay thế bằng “khí mê tan sinh vật” (biogas) lấy từ phân, rác ... Để
khuyến khích, chính phủ tuyên bố các lọai ô tô dùng biogas được miễn
nộp thuế cầu đường, tiền đỗ xe v.v…. Nhờ đó năm ngoái số xe “sạch” ấy
tăng 4 lần; dự kiến đến cuối năm nay sẽ chiếm 20% tổng số xe bán được.
Tốt bụng nhất
So với các nước khác, Thụy Điển dành tỷ lệ cao nhất trong thu nhập
quốc dân của mình để giúp các nước nghèo; viện trợ chính thức cho
nước ngoài (ODA) năm 1997 đạt 1,7 tỷ USD. Thụy Điển là nước
phương Tây đầu tiên viện trợ cho Việt Nam từ rất sớm, rất vô tư và viện
trợ rất lớn cho tới ngày nay.
Người Thụy Điển có thái độ thân thiện hơn (so với các nước châu Âu
khác) đối với người nhập cư, gọi họ là “người Thụy Điển mới”. Dân
nhập cư từ nước ngoài hiện chiếm 12% số dân nước này, tương đương
mức của Mỹ, cao hơn Anh và Pháp.
Ông Nobel, một nhà phát minh đại tài người Thụy Điển trước khi chết
đã di chúc dùng tiền lãi từ gia tài khổng lồ ông để lại vào việc tặng
thưởng cho bất cứ ai làm lợi nhiều nhất cho nhân loại. Giải thưởng
Nobel được trao cho hàng trăm nhà khoa học và nhà hoạt động xã hội,
văn học trên toàn thế giới suốt từ năm 1911 tới nay là một thí dụ cho
thấy lòng tốt vô tư của người Thụy Điển.
Như vậy , từ những điều trên có thể kết luân nhận định “ Kinh tế lạc hậu
thì văn hóa cũng lạc hậu theo” là hoàn toàn đúng đắn.
Liên hệ ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường ảnh hưởng đến
văn hóa của Việt Nam như thế nào?
Kinh tế thị trường và toàn cầu hóa là những xu thế khách quan, tất yếu
đối với thời đại chúng ta. Là khách quan, tất yếu, nên các xu thế đó đều
có tác động nhiều chiều đối với sự phát triển của xã hội, không chỉ trên
lĩnh vực sản xuất vật chất, mà cả lĩnh vực sản xuất tinh thần.
Với cơ chế kinh tế thị trường, chúng ta đã dần dần xóa bỏ cái tâm lý thụ
động, ỷ lại của người dân đối với Nhà nước và xã hội. Tinh thần dám
nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm là một nét mới trong đạo đức xã
hội do cơ chế kinh tế mới đưa lại. Trước đây, khi chưa mở cửa, sự hiểu
biết của chúng ta về thế giới quá ít ỏi, đã làm nẩy sinh hai khuynh
hướng: hoặc tự kiêu về những thành tựu và giá trị của dân tộc mình, coi
thường các giá trị và thành tựu của các nước, hoặc xu hướng ngược lại,
tự ti, mặc cảm về dân tộc mình. Hai khuynh hướng đó đều để lại những
khuyết tật về đạo đức. Từ khi mở cửa và tham gia hội nhập quốc tế,
chúng ta có các đánh giá khách quan hơn về bản thân chúng ta và về các
nước khác. Cái tâm lý ngờ vực và thù địch lẫn nhau giữa các quốc gia có
chế độ chính trị khác nhau, đã được thay thế bằng thái độ hiểu biết,
thông cảm, hợp tác với nhau. Đó cũng là một bước tiến trong đạo đức xã
hội.
Tuy vậy, trong khi ta chưa chú ý tập trung phát huy những khía cạnh tích
cực về mặt đạo đức mà kinh tế thị trường và toàn cầu hóa có thể mang
lại, thì chúng ta lại chậm nhận thức ra mặt trái của kinh tế thị trường và
của toàn cầu hóa về phương diện sản xuất tinh thần, đặc biệt về đạo đức
và lối sống, do đó chưa có những đối sách cần thiết và hữu hiệu.
Để xây dựng văn hóa đạo đức và lối sống có văn hóa trong điều kiện
hiện nay ở nước ta, cần trở về với những bài học lớn của cha ông ta, mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc kết, khái quát và nâng lên một tầm cao
mới.
Bài học đầu tiên là giải quyết tốt mối quan hệ giữa cá nhân với cộng
đồng
Đây là vấn đề thường xuyên xảy ra trong cuộc sống, bởi vì xã hội là gồm
nhiều người hợp lại. Mỗi người có đời sống riêng, có lợi ích riêng, có sở
thích riêng, nhưng xã hội không phải là bầy ong, vì vậy không phải hành
động, sở thích của ai ai cũng giống nhau. Xã hội cũng không thể bao
gồm những người thích gì thì làm nấy, không hề lo nghĩ đến ai. Về
phương diện này, việc giáo dục tính cộng đồng là một câu trả lời cần
thiết đối với điều kiện sống lúc bấy giờ. Từ tinh thần cộng đồng, làm nảy
sinh sự quan tâm, thương yêu đùm bọc nhau. Nhờ phát huy cao độ tính
cộng đồng truyền thống, ở Việt Nam trước đây, chủ nghĩa cá nhân hầu
như khó xuất hiện. Cố nhiên do sự phát triển của lực lượng sản xuất lúc
đó còn thấp kém, khái niệm cá nhân hầu như không được quan tâm trong
xã hội, thậm chí rất ít người dám khẳng định cái tôi của cá nhân mình.
Tình hình hiện nay thì khác. Không chỉ cái tôi cá nhân được đề cao mà
chủ nghĩa cá nhân đang có nguy cơ trở thành lối sống phổ biến trong xã
hội. Những năm 60 thế kỷ XX trở về trước, lúc Bác Hồ còn sống, tuy
chủ nghĩa tập thể còn được xã hội đề cao, Bác Hồ đã cảnh báo sự xuất
hiện của chủ nghĩa cá nhân trong một số người, đặc biệt trong một số
cán bộ, đảng viên. Bài báo của Người lúc đó có nhan đề “Nâng cao đạo
đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”. Đáng tiếc, chúng ta đã
chưa thực hiện có kết quả lời dạy đó. Tình hình đang diễn ra hiện nay đã
hoàn toàn chứng thực lời cảnh báo của Người. Nếu trước đây, khi bài
báo của Bác ra đời, chủ nghĩa cá nhân mới chỉ là sự tham lam, ích kỷ, sự
kiêu ngạo, sự kèn cựa, đố kỵ… trong một số rất ít cán bộ, đảng viên, thì
ngày nay, trong cơ chế kinh tế thị trường và toàn cầu hóa, nó đang trở
thành một lối sống, một triết lý sống trong một bộ phận xã hội, một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên… Để làm theo lời dạy của Bác, cần
làm trong sạch bộ máy của Đảng, của Nhà nước bằng những cơ chế
chính sách chặt chẽ, nhằm ngăn chặn nguy cơ tha hóa của bộ máy công
quyền. Việc tạo ra những cơ chế, chính sách buộc mỗi cán bộ, đảng viên
phải trở thành hạt nhân trong các phong trào quần chúng, và phải thường
xuyên tiếp nhận sự kiểm tra giám sát của quần chúng, sẽ là biện pháp
hữu hiệu nhằm nâng cao đạo đức cách mạng và quét sạch chủ nghĩa cá
nhân.
Giải quyết tốt mối quan hệ giữa nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh
thần, giữa giá trị vật chất và giá trị tinh thần
Kinh tế thị trường và toàn cầu hóa thôi thúc con người chạy theo những
lợi ích trước mắt, những lợi ích vật chất, từ đó bỏ qua hoặc coi nhẹ các
nhu cầu và lợi ích tinh thần.
Nước ta trong vài chục năm lại đây, xu hướng chạy theo các lợi ích vật
chất, bỏ qua hay coi nhẹ các nhu cầu và lợi ích tinh thần đã diễn ra trong
một bộ phận xã hội, đặc biệt trong thế hệ trẻ. Bậc thang các giá trị xã hội
đang có chiều hướng biến động, và điều đó tác động trực tiếp đến sự
xuống cấp về đạo đức và lối sống. Về phương diện này, những lời dạy và
những tấm gương sáng của cha ông sẽ có sức cảm hóa nếu được khai
thác, phát huy một cách đúng lúc, đúng chỗ. Nhu cầu vật chất hay nhu
cầu tinh thần đều là những nhu cầu thiết yếu của đời sống. Khi đời sống
vật chất nghèo nàn và thiếu thốn thì điều kiện phát triển của con người
sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Tuy vậy, nhu cầu vật chất, theo lẽ thường
tình, thường có giới hạn của nó. Nhu cầu ăn, uống chỉ xuất hiện khi
chúng ta đói và khát. Khi đã đủ no, thì dù ăn cao lương mỹ vị cũng
không thấy ngon miệng. Mặt khác, khi nhu cầu hưởng thụ các giá trị vật
chất vượt quá khả năng lao động và đóng góp của mỗi người cho xã hội,
thì sẽ nảy sinh hàng loạt những thói hư, tật xấu như thói tham lam, sự
giả dối, lừa lọc,… Đến với các nhu cầu và giá trị tinh thần thì khác. Đây
là các nhu cầu hướng tới sự hoàn thiện nhân cách, làm đẹp cho đời. Một
xã hội mà mọi người chỉ nghĩ đến các nhu cầu vật chất, chỉ lo làm giàu,
mà không lo trau dồi đạo đức, lối sống tình nghĩa, thì đó sẽ là một xã hội
bất an, một xã hội chứa đựng những nguy cơ tan vỡ.
Về phương diện này, lịch sử dân tộc để lại cho ta nhiều bài học vô giá.
Từ Nguyễn Trãi đến Hồ Chí Minh, cách nhau hơn 500 năm, thuộc các ý
thức hệ khác nhau, nhưng đều cùng là những đỉnh cao của chung một
cội nguồn văn hóa. Cũng như Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh có một tấm
lòng nhân ái bao la, một tình yêu và niềm tin mãnh liệt vào nhân dân,
một đức hy sinh cao cả. Tất cả sự phong phú cao đẹp về tâm hồn đó
càng được tỏa sáng hơn nhờ lối sống khiêm nhường, giản dị. Từ Nguyễn
Trãi và Hồ Chí Minh đều khẳng định một chân lý:
Sự thật vốn không ưa trang trí
Đời thanh cao quen dáng đơn sơ
(Thơ Tố Hữu)
Khi con người quan tâm nhiều hơn đến ý nghĩa cuộc đời, đến đạo lý làm
người, đến các phạm trù lẽ phải, tình thương và trách nhiệm, thì sự đam
mê những nhu cầu và tiện nghi vật chất chắc chắn sẽ bị đẩy lùi và khắc
phục. Đó sẽ là một bước tiến quan trọng trong quá trình giải phóng con
người khỏi xiềng xích nô lệ vào hàng hóa mà kinh tế thị trường thường
tạo ra.
Tăng cường vai trò của các cơ quan lãnh đạo và quản lý xã hội đối
với việc xây dựng văn hóa đạo đức và lối sống văn hóa
Xây dựng văn hóa đạo đức và lối sống văn hóa là một quá trình có ý
thức, có chủ đích của toàn xã hội, trước hết của những người lãnh đạo và
quản lý xã hội.
Đảng ta đã sớm phát hiện ra vấn đề về quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
và tiến bộ xã hội. Dư luận xã hội cũng góp nhiều ý kiến về một số dự án,
chương trình, mà nếu được triển khai sẽ gây tổn thương về văn hóa và
xã hội (trong đó có vấn đề đạo đức và lối sống).
Luận điểm mà từ Hội nghị Trung ương 10 khóa IX đề ra: gắn nhiệm vụ
trung tâm là phát triển kinh tế, nhiệm vụ then chốt là xây dựng chỉnh
đốn Đảng với xây dựng nền tảng tinh thần là văn hóa, là luận điểm cực
kỳ quan trọng, tạo nên cái thế 3 chân kiềng vững chắc cho sự nghiệp đổi
mới. Cố nhiên cho đến nay, chưa thể nói rằng luận điểm quan trọng đó
đã được triển khai sâu sắc trong toàn xã hội. Việc chạy theo những lợi
ích kinh tế trước mắt mà không suy nghĩ gì đến những hậu quả về văn
hóa, đạo đức, xã hội… hình như đang tồn tại khá sâu sắc trong một số
cán bộ các cấp, các ngành. Vì vậy việc thể chế hóa luận điểm quan trọng
đó bằng các chủ trương, chính sách, bằng luật pháp là điều không thể
thiếu.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: văn hóa không nằm ngoài kinh tế và
chính trị. Đó là một chân lý. Vậy đạo đức lối sống có nằm ngoài kinh tế
và chính trị không? Chắc chắn là không, vì đạo đức, lối sống là những
thành tố cơ bản của văn hóa. Vấn đề đặt ra đối với chúng ta hiện nay là
xây dựng văn hóa đạo đức và lối sống văn hóa trong nền kinh tế thị
trường và hội nhập thế giới như thế nào.
Chuyển sang kinh tế thị trường là đúng quy luật. Nhưng hiểu quy luật
kinh tế thị trường, tính tích cực và tiêu cực của nó đối với các lĩnh vực
sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần, thì không đơn giản. Vì sao CácMác khẳng định: kinh tế thị trường thù nghịch với một số lĩnh vực sản
xuất tinh thần, đặc biệt nghệ thuật, thơ ca. Câu hỏi được đặt ra đối với
nhiều quốc gia hiện nay là: chúng ta điều khiển, quản lý nền kinh tế thị
trường, hay để kinh tế thị trường lôi kéo chúng ta? Bài học về sự khủng
hoảng kinh tế hiện nay có phải cũng là ở chỗ nền tài chính ngân hàng ở
một số nước lớn đã lũng đoạn nền kinh tế đó không? Và bao hệ lụy xã
hội đã được đặt ra. Theo nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài, kinh tế thị
trường hiện đại, giống như con ngựa bất kham. Ngựa chạy nhanh, khỏe,
nhưng người điều khiển phải khéo, giỏi. Nếu không, ngựa sẽ quật đổ
người. Nhà báo nổi tiếng Mỹ T.Friedman đã từng đưa ra hình ảnh: chiếc
xe Lexus (kinh tế thị trường toàn cầu) đi đến đâu thì rừng ôliu (các giá
trị văn hóa của các dân tộc) sẽ bị tàn phá đến đó.
Kinh tế thị trường của nước ta vừa mới hình thành, chưa vươn tới nền
đại thương nghiệp. Những thói hư tật xấu của lối kinh doanh tiểu thương
còn khá phổ biến. Thêm vào đó xu hướng thương mại hóa các lĩnh vực
đời sống tinh thần đang có nguy cơ phát triển. Đó là cơ sở trực tiếp làm
nảy sinh hàng loạt sự xuống cấp về đời sống văn hóa, đặc biệt trên lĩnh
vực đạo đức, lối sống. Việc quản lý tốt nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, mà nội dung cơ bản là xác định những chuẩn
mực văn hóa của nền kinh tế thị trường, là gắn tăng trưởng kinh tế với
phúc lợi xã hội, tiến bộ xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, thu hẹp dần
các khoảng cách về thu nhập, về thụ hưởng các thành quả của công cuộc
đổi mới, giữa các ngành nghề, các vùng miền, sẽ là điều kiện quan trọng
để xây dựng văn hóa đạo đức, lối sống văn hóa ở nước ta hiện nay.
Cùng với việc quản lý tốt nền kinh tế thị trường là quản lý tốt quá trình
hội nhập thế giới. Hội nhập thế giới cũng là xu thế tất yếu của thời đại, ở
đây có cả thời cơ lẫn nguy cơ. Trong số những nguy cơ tác động trực
tiếp tới đạo đức, lối sống của con người (đặc biệt đối với thế hệ trẻ) là
mặt trái của công nghệ thông tin viễn thông. Ai cũng thừa nhận, công
nghệ thông tin viễn thông nhân lên rất nhiều sức mạnh trí tuệ của con
người, có thể giúp con người hiểu biết về nhau, thông cảm với nhau và
hỗ trợ cho nhau. Nhưng sức công phá của công nghệ thông tin cũng thật
ghê gớm. Ngoài những thông tin rác rưởi làm vẩn đục tâm trí con người,
các trò chơi điện tử đang lôi kéo thế hệ trẻ vào thế giới hư ảo, bạo lực,
phi nhân tính. Đã xuất hiện nhiều lời kêu cứu từ các phụ huynh, các thầy
cô giáo và cả các đại biểu trên các diễn đàn Quốc hội, trong các hội thảo,
… Câu hỏi được đặt ra là chúng ta có khả năng kiểm soát các hoạt động
này không? Kiểm soát như thế nào? Và ai sẽ là những người chịu trách
nhiệm chính?
Vai trò to lớn của các cơ quan lãnh đạo và quản lý xã hội còn là ở chỗ tổ
chức bộ máy lãnh đạo và quản lý trong sạch, vừa nâng cao chất lượng và
hiệu quả công tác lãnh đạo và quản lý, vừa nêu gương sáng cho toàn xã
hội. Đảng ta đã coi công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng là công tác then
chốt. Sự tồn tại của một bộ phận không nhỏ các cán bộ, đảng viên, đặc
biệt những người có chức có quyền, bị suy thoái biến chất về đạo đức,
về lối sống, đang làm suy giảm niềm tin của nhân dân, đặc biệt của thế
hệ trẻ, vào những giá trị đạo đức truyền thống của cha ông và của cách
mạng mà Bác Hồ và Đảng đã dầy công vun đắp. Gắn cuộc vận động học
tập và làm theo tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh với công
tác xây dựng chỉnh đốn Đảng, cải cách bộ máy hành chính, thực hiện
nghiêm túc quy chế công chức của Nhà nước… đều mang theo ý nghĩa
giáo dục văn hóa đạo đức, lối sống văn hóa cho toàn xã hội.
Hơn bao giờ hết, sự nghiệp xây dựng đạo đức và lối sống đang đòi hỏi
hành động nêu gương, trước hết từ trong Đảng, trong các cơ quan Nhà
nước, từ những người có trọng trách trong xã hội (bao gồm những người
lãnh đạo quản lý ở mọi cấp mọi ngành, những thầy cô giáo, các bậc cha
mẹ). Nhân dân ta từ lâu đã tổng kết: “Trăm nghe không bằng một thấy”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: một tấm gương sáng còn có giá trị hơn hàng
trăm bài diễn văn hoa mỹ. Những thành tựu trong xây dựng văn hóa đạo
đức và lối sống trước đây, suy đến cùng, đều có liên quan đến sự hình
thành những cá nhân, những lớp người nêu gương sáng. Những đấng
vua hiền tôi sáng, những quan lại thanh liêm, những gia phong trong các
gia đình có truyền thống, trong các thời kỳ phong kiến thịnh trị trước
đây, cũng như tấm gương đạo đức tuyệt vời của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
của đội ngũ các học trò và chiến hữu của Người, đều là những nhân tố
không thể thiếu trong sự nghiệp xây dựng văn hóa đạo đức và lối sống
văn hóa của dân tộc ta qua các thời đại./.
Quá trình xây dựng nếp sống văn minh ở Việt Nam hiện nay
Văn hóa, văn minh, đời sống là hình thức biểu hiện của văn hóa, là
một đặc trưng quan trọng của con người Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay , để xây dựng con người, đất nước thì không thể coi nhẹ
nếp sống văn minh.
Văn minh đô thị
Trong những năm qua việc triển khai thực hiện đề án xây
dựng nếp sống văn hóa-văn minh ở Việt Nam luôn được
chính quyền các cấp và người dân thành phố quan tâm với
mong muốn góp sức mình xây dựng thành phố văn minh hiện
đại xanh-sạch-đẹp. Tất nhiên vấn đề xây dựng nếp sống văn
minh là 1 câu chuyện lâu dài cần phải duy trì thường xuyên
và phải làm quyết liệt.
Có thể lấy thủ đô hà Nội làm ví dụ. Với sự chỉ đạo sát sao
của lãnh đạo thành phố, sự quan tâm phối hợp của các ban
ngành địa phương và được nhân dân hưởng ứng mạnh mẽ.
Như vậy nó đã phản ánh những hiệu quả đạt được khá cao
tạo bước chuyển về những chiều sâu và có chất lượng. Điều
dẽ nhìn thấy nhất là sự thay đổi về điều kiện sống của người
dân như: nhà ở, giao thông đi lại, các dịch vụ điện nước, vệ
sinh môi trường, điều kiện học tập, vui chơi giải trí và khám
chữa bệnh. Đặc biệt ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ
công nhân viên được nâng lên rõ rệt. Điều đó thể hiện qua
cách ứng xử, giao tiếp nơi công sở, trên xe bus... Tuân thủ
quy định của nhà nước trong xây dựng và chỉnh trang đô thị,
giữ gìn vệ sinh môi trường. Đây được xem là những điều cơ
bản, cốt lõi ban đầu để xây dựng nếp sống văn minh đô thị.
Tuy nhiên vẫn tồn tại nhiều mặt hạn chế. Thực tế nhiều nơi
chưa vận động được người dân, tích cực tham gia vệ sinh môi
trường, làm đẹp đô thị. Công tác tuyên truyền, giáo dục được
tổ chức với nhiều hình thức phong phú đa dạng nhưng ý
thức, nhận thức của người dân chưa thực sự đổi mới. Nhiều
mong trào mang nặng tính hình thức, chiều sâu. Nhiều khu
phố vẫn còn hiện tượng lấn chiếm vỉa hè, lòng đường, đất
công để buôn bán nhỏ, bán hàng rong, đỗ xe ko đúng nơi quy
định.
- Văn minh nông thôn
Ở vùng nông thôn cơ bản, các địa phương đã xây dựng bản
quy ước nông thôn. Công tác vệ sinh môi trường được chú
trọng, thành lập các đội thu gom và tập kết rác thải. Xây dựng
đời sống văn hóa thực hiện theo pháp luật và hiến pháp nhà
nước. Đời sống vật chất tinh thần của người dân ngày càng nâng
lên. Cảnh quan đường làng ngõ xóm khang trang, các thôn đã
cứng hóa đường giao thông, xây dựng mối quan hệ tình làng
nghĩa xóm đoàn kết, xây dựng đời sống tiến bộ văn minh, xây
dựng trường học đạt tiêu chuẩn quốc gia. Thành lập câu lạc bộ
vui khỏe có ích: câu lạc bộ xe đạp, cầu lông, cờ vua... Việc cưới
xin luôn tuân thủ luật hôn nhân và gia đình, duy trì thực hiện
theo quy ước làng văn hóa. Đám ma chay luôn được sự giúp đỡ
tận tình của ban tang lễ, thôn xóm cùng gia đình tổ chức chu
đáo, trang nghiêm, không tổ chức linh đình, tốn kém, không
thuê không mướn. Tổ chức lễ hội trang trọng, đảm bảo được
thuần phong mỹ tục của làng quê, không còn hiện tượng mê tín
dị đoan, không còn buôn bán thần thánh trong các lễ hội nữa.
Để cổ vũ, khích lệ tinh thần con cháu tiếp tục phát huy truyền
thống và nêu rõ trách nhiệm của mỗi gia đình trong việc giáo
dục con cái, địa phương tổ chức phong trào khuyến học rất nhiệt
tình và hiệu quả.
Việc thực hiện phong trào nếp sống văn minh đạt được nhiều
kết quả đáng khích lệ. Góp phần tích cực, phát triển mọi mặt đời
sống xã hội, đẩy lùi tệ nạn xã hội, thúc đấy tăng trưởng kinh tế,
phát huy truyền thống văn hóa của quê hương đến từng bước
đem lại cho con người cuộc sống ấm no hạnh phúc, tiến bộ và
văn minh.
- Xem thêm -