Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học phổ thông Kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi ngữ văn 6...

Tài liệu Kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi ngữ văn 6

.DOC
16
97
81

Mô tả:

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc SÁNG KIẾN “KINH NGHIỆM BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI NGỮ VĂN 6” Quảng Bình, tháng 10 năm 2018 1 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc SÁNG KIẾN “KINH NGHIỆM BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI NGỮ VĂN 6” Họ và tên: Nguyễn Hà Phương Chức vụ: Tổ trưởng - Giáo viên Đơn vị công tác: Trường THCS Tân Ninh Quảng Bình, tháng 10 năm 2018 2 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn sáng kiến: “Dựng nước lấy việc học làm đầu. Muốn thịnh trị lấy nhân tài làm gốc” Ngay từ xa xưa ông cha ta đã khẳng định vai trò rất to lớn của giáo dục nói chung và nhân tài nói riêng. Nhận thức tầm quan trọng đó, trong nhà trường luôn chú trọng đến công tác bồi dưỡng học sinh giỏi và lấy chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi làm mũi nhọn. Tuy nhiên, thực trạng nhiều năm qua công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn 6 còn nhiều nan giải. Thực tế cho thấy mặc dù kết quả sau mỗi kì thi dù có đạt giải nhưng chất lượng giải chưa cao, chưa thể nằm trong tốp đầu của Huyện. Càng lên những lớp sau thì càng giảm sút về chất lượng giải nên số lượng học sinh dự thi Tỉnh bộ môn Văn ở trường rất hạn chế. Đây chính là vấn đề quan trọng khiến tôi trăn trở đi tìm giải pháp . Qua nhiều năm đảm nhận công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, bản thân tôi thấy rằng: từ việc chọn đội tuyển, chương trình, thời gian bồi dưỡng… nếu không có phương pháp thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Và sẽ khó khăn hơn nữa nếu giáo viên dạy bồi dưỡng chưa thực sự tâm huyết với nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó, học sinh lớp 6 là lớp đầu cấp nên còn nhiều hạn chế trong việc học bộ môn và khi tham gia bồi dưỡng thì còn bỡ ngỡ. Không chỉ vậy, hiện nay đa số phụ huynh còn không muốn con em theo học các môn xã hội. Vì họ cho rằng theo học ngành xã hội khó có thể xin được việc làm. Từ quan niệm đó, ngay từ lớp 6 phụ huynh đã hướng con em theo học các môn như Toán, Tiếng Anh… Là một giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn, bản thân tôi luôn suy nghĩ rất nhiều. Phải làm sao để lôi cuốn học sinh tham gia bồi dưỡng đúng sở thích, làm sao để chất lượng giải bồi dưỡng được nâng cao? Chính sự trăn trở đó đã thôi thúc tôi luôn suy nghĩ, tìm giải pháp để làm tốt nhiệm vụ bồi dưỡng học sinh giỏi mà Nhà trường đã tin tưởng giao cho. Và quan trọng hơn là để bộ môn Ngữ văn được “sống” đúng nghĩa của nó : “ Văn học là nhân học”. Trong quá trình công tác, tôi được phân công nhiệm vụ bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ Văn 6. Tôi luôn nhận thức được vai trò, ý nghĩa , tầm quan trọng của việc bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước. Với mong muốn góp phần vào việc nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường nên tôi đã đúc rút từ kinh nghiệm bản thân để đưa ra sáng kiến: “ Kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi Ngữ văn 6”. Với mong muốn sẻ chia cùng đồng nghiệp để cùng nhau phấn đấu vì mục tiêu chung là nâng cao chất lượng mũi nhọn trong nhà trường. Và đích đến cuối cùng là nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo nguồn nhân tài cho đất nước. 1.2. Điểm mới của sáng kiến: - Cũng có nhiều bài viết, nghiên cứu có chủ đề tương tự. Tuy nhiên, đa số là trình bày trên lý thuyết, chưa phù hợp với tình hình thực tế hiện nay ở nhà trường và bộ môn. 3 - Đây là những kinh nghiệm từ thực tiễn giảng dạy, bồi dưỡng của bản thân đã được áp dụng, chắt lọc trong các năm học nên phù hợp với những khó khăn trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi bộ môn Ngữ văn ở ngôi trường mà tôi đang công tác. - Sáng kiến là kết quả công tác, nghiên cứu, trăn trở của bản thân để nhằm đạt mục tiêu đào tạo nguồn nhân tài. Tôi rất mong muốn được đóng góp một phần trách nhiệm vào việc thực hiện “nhiệm vụ đột phá” mà nhà trường và Phòng giáo dục giao cho. Chính vì lẽ đó tôi đã suy nghĩ, chắt lọc và đi sâu vào những giải pháp trọng tâm từ khâu tuyển chọn học sinh như thế nào, giáo viên phải giành tâm huyết ra sao đến các kinh nghiệm giảng dạy nên sáng kiến khá gần gũi, thiết thực phù hợp chia sẻ cùng đồng nghiệp. 2. PHẦN NỘI DUNG 2.1. Thực trạng bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn 6: Những năm qua, với bộ môn Ngữ văn 6 công tác bồi dưỡng còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại. Trong quá trình quản lý tổ chuyên môn và trực tiếp bồi dưỡng tôi nhận thấy thực trạng nan giải đầu tiên là về phía giáo viên. Qua công tác chỉ đạo, theo dõi chất lượng bồi dưỡng các đội tuyển tôi thấy một số giáo viên được giao nhiệm vụ bồi dưỡng chưa thật mặn mà với công việc. Nhiều lúc còn chưa thực sự tâm huyết và nhiệt tình. Bên cạnh những giáo viên hết sức tâm huyết chủ động tăng buổi bồi dưỡng thậm chí là giành mọi thời gian để bồi dưỡng thì còn nhiều giáo viên thoái thác công việc, giao phó cho học sinh đề, bài tập mà chưa quan tâm, hỗ trợ kịp thời cho các em. Cũng có một số trường hợp giáo viên bồi dưỡng cùng kiêm nhiệm nhiều công việc nên khó có thể toàn tâm, toàn sức cho công tác bồi dưỡng. Trong phương pháp giảng dạy cũng còn khá nhiều hạn chế. Bước đầu tiên là khâu biên soạn chương trình. Không giống như dạy đại trà, dạy bồi dưỡng học sinh giỏi để bao quát toàn bộ chương trình đòi hỏi giáo viên phải có kĩ năng. Trong quá trình biên soạn chương trình, một số giáo viên còn chưa biết phân chia kiến thức cơ bản và kiến thức trọng tâm. Chính vì vậy còn dạy dàn trải, thích đâu dạy đó. Ngoài ra, để dạy bồi dưỡng Ngữ văn 6 giáo viên phải có những phương pháp thực sự phù hợp đặc trưng của bộ môn. Về phía học sinh, lớp 6 là lớp đầu cấp, học sinh còn nhiều lúng túng. Các em còn bỡ ngỡ cả về nhận thức lẫn thực tiễn. Vấn đề nan giải đó là chữ viết và phương pháp học bộ môn. Lên THCS các em được tiếp nhận khối lượng kiến thức nhiều hơn, do đó việc tiếp thu và ghi chép khá khó khăn, dẫn đến chữ viết chưa đáp ứng được.Và chưa làm quen với phương pháp học tập bộ môn. Bên cạnh các em học sinh còn có một bộ phận phụ huynh đang xem nhẹ bộ môn Ngữ văn. Các phụ huynh còn quan niệm đầu tư môn Toán, Tiếng Anh… hướng cho con em theo ngành tự nhiên bởi lẽ “dễ” xin việc làm. Tuy nhiên, các bậc phụ huynh và các em chưa hiểu rằng Ngữ văn là môn học công cụ dẫn dắt các em đến với những môn học khác. Đặc biệt, với xu thế xã hội hiện nay đòi 4 hỏi con người phải phát triển toàn diện. Không chỉ có đủ tài mà còn phải hoàn thiện về đức như Bác Hồ đã răn dạy chúng ta, và môn Ngữ văn chính là chìa khóa nhân cách. Một vấn đề khá quan trọng nữa là thời gian để các em đầu tư bộ môn còn hạn chế. Bởi lẽ, các em còn phải học tập cùng lúc nhiều môn học, không thể trọng môn này mà xem nhẹ môn kia. Ngoài việc học bồi dưỡng các em còn phải tham gia khá nhiều hoạt động tập thể, thi đua giữa các lớp. Nên sắp xếp thời gian phù hợp rất khó. Do đó, giáo viên phải biết tận dụng thời gian hợp lí, hài hòa làm sao để tạo điều kiện tốt nhất cho các em. Kết hợp nhiều yếu tố từ phía giáo viên và học sinh dẫn đến thực trạng giải bồi dưỡng Ngữ văn 6 nhiều năm trước dù có giải nhưng chất lượng chưa cao. Chưa thể nằm trong tốp đầu của Huyện và càng lên những lớp cao thì càng tụt dốc, không đủ điều kiện dự thi cấp Tỉnh. Đó cũng là những vấn đề nan giải thôi thúc bản thân tìm tòi những giải pháp hữu hiệu nhất. Và tôi luôn tâm niệm rằng đã kết duyên với nghề thì phải thực sự yêu nghề, yêu trẻ. Chính vì vậy tôi mong muốn mang tất cả những gì đã được học, đã tích luỹ dần qua các năm để truyền đạt lại cho học sinh. Với hi vọng giúp các em có năng khiếu trở thành những học sinh giỏi Văn, bồi dưỡng những con người vừa đức vừa tài cho đất nước. Qua đây tôi cũng muốn chia sẻ với đồng nghiệp để học tập kinh nghiệm lẫn nhau vì đích đến cuối cùng là nâng cao chất lượng giáo dục. Đặc biệt là làm tròn “nhiệm vụ đột phá” mà nhà trường và Phòng GD hiện nay đang quyết tâm hướng đến. 2.2. Nội dung sáng kiến: Qua quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi Ngữ văn với nhiều năm làm nhiệm vụ bồi dưỡng học sinh giỏi, mà đặc biệt là Ngữ văn 6 bản thân tôi càng dạn dày hơn để rút ra những bài học kinh nghiệm và mong muốn được chia sẻ cùng đồng nghiệp. Tôi xin mạnh dạn đưa ra những giải pháp mà mình đã vận dụng có hiệu quả như sau: 2.2.1. Có tâm huyết, có lòng nhiệt tình và luôn định hướng tư tưởng cho học sinh: Bản thân tôi quan niệm rằng: “Thành công của học sinh cũng chính là thành công của mình trong sự nghiệp trồng người” . Chính vì thế với tôi “tâm huyết và lòng nhiệt tình” chính là yếu tố quyết định thành công của công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. Chỉ cần chúng ta thật sự dồn tâm sức hết lòng ít nhiều sẽ thu nhận thành quả. Một giáo viên linh hoạt, sáng tạo và chu đáo sẽ biết được đặc điểm riêng của từng đối tượng học sinh, từng kiểu đề bài để từ đó có phương pháp giảng dạy hợp lí. Nếu thực sự tâm huyết, chúng ta nên quan tâm, rèn nắn cho học sinh đến từng câu văn, nét chữ.., đưa các em đi thi, nhắc nhở các em chuẩn bị bút mực trước khi vào phòng thi…Những cử chỉ, hành động sự quan tâm tưởng chừng như nhỏ nhoi, đời thường ấy thực ra lại có sức lan tỏa rất lớn, là động lực giúp các em có được kết quả như mong muốn. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần gây hứng thú học tập bộ môn. Từ những buổi đầu lên lớp phải thể hiện sự nghiêm túc, nhiệt tình trong công việc, giao nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng, tạo cho học sinh thói quen, động cơ học tập đúng đắn. Hình thành cho học sinh tính tự giác. Thường xuyên trau dồi kiến 5 thức, học tập đồng nghiệp và chọn lọc tài liệu, đề trên Internet. Phải chuẩn bị nội dung chu đáo trước khi lên lớp. Sau mỗi chuyên đề, giáo viên cần kiểm tra, đánh giá, phân loại đúng đối tượng học sinh. Chúng ta có thể biểu hiện sự quan tâm, sẻ chia những khó khăn cùng học sinh như: động viên tâm lí, sức khỏe, chế độ dinh dưỡng và những kinh nghiệm khi làm bài. Sức mạnh của công tác tư tưởng là hết sức cần thiết. Giáo viên phải khơi dậy ở các em lòng đam mê và nhiệt tình theo đuổi môn học ở lứa tuổi lớp 6 hồn nhiên, thơ dại. Bởi nếu các em không biết mình đi thi học sinh giỏi sẽ có gì, được gì trong khi thời gian và các môn học chính khóa, hoạt động tập thể thậm chí là công việc ở nhà với các em đã là một gánh nặng. Do đó công tác giáo dục định hướng tư tưởng là hết sức cần thiết và phải thường xuyên cùng với việc ôn luyện kiến thức. Để làm tốt công tác này cũng “xuất phát từ tâm huyết” Chúng ta có thể cho các em biết tham gia đội tuyển học sinh giỏi và đạt giải sẽ có gì, được gì. Ví dụ: về kiến thức chắc chắn sẽ hỗ trợ các em rất nhiều trong các bậc học tiếp theo, về danh hiệu thì thật vinh dự và tự hào cho cả gia đình nếu chúng ta được mọi người biết đến đây là phần thưởng vô cùng quý giá và tuyệt vời. Về quyền lợi các em sẽ được thưởng từ phía cô, nhà trường, hội khuyến học, phòng, huyện… Những phần quà nhỏ trao cho các em qua các đợt khảo sát chất lượng, hay trích kinh phí từ bản thân để trao thưởng cho các em, giúp những em đạt kết quả cao, đứng tốp đầu hoặc những em gia cảnh khó khăn là việc làm thiết thực mà tôi đã áp dụng và thấy hiệu quả. Những ví dụ trên chỉ là công tác tư tưởng ban đầu định hướng cho học sinh động cơ học tập và phấn đấu đạt giải. Ngoài ra, việc động viên khích lệ về tư tưởng phải được tiến hành thường xuyên trong từng tiết học bằng những hành động như: lời khen ngợi, khích lệ, phần quà nhỏ…sẽ giúp các em nỗ lực học tập. Có thể nói, nếu có tâm huyết và lòng nhiệt tình nhất là làm tốt công tác tư tưởng thì chúng ta đã thành công một nửa chặng đường. 2.2.2. Công tác phát hiện, tuyển chọn học sinh và phối hợp với phụ huynh: Khâu phát hiện và tuyển chọn học sinh cũng đóng vai trò quan trọng. Học sinh giỏi phải là người có tố chất, năng khiếu, sự sáng tạo, vốn kiến thức cơ bản vững chắc và đặc biệt là niềm đam mê. Năng khiếu là không thể thiếu nhưng quyết định vẫn là niềm đam mê. Chỉ có yêu thích, đam mê thì các em mới có thể gắn bó lâu dài được. Khi yêu thích môn học các em sẽ cần cù và sáng tạo và tự giác trong học tập. Tất cả yếu tố cần và đủ đó thể hiện qua quá trình học tập của các em ngay từ những buổi đầu ở lớp. Phải lựa chọn kĩ những em thực sự có năng lực và tố chất và niềm đam mê. Khi đã phát hiện và tuyển chọn được đội tuyển tôi thường rèn cho học sinh kĩ năng viết và cách trình bày khoa học. Hướng dẫn các em sưu tầm tài liệu., khuyên các em mạnh dạn trao đổi vấn đề với cô, bạn bè. Một điều khá thú vị là tôi thường tạo không gian thoải mái cho học sinh học tập: có thể là trong lớp, ngoài ghế đá, đi bộ dạo mát kết hợp dò bài cùng bạn…Khi học một mình thì nên kết hợp đọc viết để khắc sâu hơn. Hay là ôn bài lúc sáng sớm… 6 Với các bậc phụ huynh, tôi thường phối hợp bằng nhiều hình thức. Liên lạc để trao đổi tình hình học tập, thăm nhà để động viên các em và trao đổi biện pháp quản lí các em học ở nhà. Cùng phụ huynh đưa học sinh đi thi. 2.2.3. Phương pháp bồi dưỡng: Một nửa còn lại quyết định thành công với tôi là nhờ các phương pháp được vận dụng trong quá trình bồi dưỡng. Thứ nhất là lên kế hoạch, chương trình để chủ động bồi dưỡng. Việc làm này được tiến hành ngay từ đầu năm học. Bởi công tác mũi nhọn thì phải xuyên suốt. Phải có kế hoạch tuyển chọn, lên khung chương trình đảm bảo kiến thức cơ bản có nâng cao và kết hợp thực hành. Dạy có trọng tâm chứ không dạy tràn lan. Khung chương trình Ngữ Văn 6 tôi áp dụng như sau: KHUNG CHƯƠNG TRÌNH BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI MÔN : NGỮ VĂN – LỚP 6 Phân môn Tiếng Việt Nội dung Kiến thức cơ bản chọn lọc 1.Hệ thống các từ - Từ loại, cụm từ. loại Tiếng Việt. (20 tiết) 2. Cụm từ. 3.Từ đơn, từ phức Kiến thức nâng cao - Sử dụng từ loại, cụm từ để đặt câu, viết đoạn, bài văn. - Xác định cụm từ. - Cấu tạo cụm từ. - Từ đơn - Giá trị biểu đạt từ láy - Từ phức 4.Nghĩa của từ, dùng từ đặt câu. - Cách giải thích - Dùng từ đặt câu, dựng đoạn. nghĩa của từ. 5. Biện pháp tu từ - So sánh - Nhân hóa - Ẩn dụ - Hoán dụ - Phân tích hiệu quả thẩm mỹ của một số biện pháp tu từ: so sánh, nhân hoá, ẩn dụ, hoán dụ trong những đoạn thơ, văn tiêu biểu. - Sử dụng các biện pháp tu từ để viết đoạn, bài văn . 6. Chữa lỗi dùng từ, - Lỗi dùng từ dấu câu, thành phần câu. Câu. - Dấu câu - Thành phần câu - Làm bài tập chữa lỗi dùng từ. - Điền dấu câu. - Xác định thành phần câu. - Câu: 7 Phân môn Nội dung Kiến thức cơ bản chọn lọc - Câu Kiến thức nâng cao Câu miêu tả, câu tồn tại. Câu trần thuật đơn có từ là. Câu ghép. Khảo sát chất lượng 1.Văn tự sự : Phương pháp làm các dạng bài tự sự : - Kể chuyện tưởng tượng. - Kể chuyện sáng tạo. - Kể chuyện tưởng tượng - Kể chuyện đời thường. Khảo sát chất lượng 2. Văn miêu tả : Tập làm văn - Rèn kỹ năng làm - Miêu tả sáng tạo văn miêu tả với các dạng : + Tả cảnh, (40 tiết) + Tả người, + Tả cảnh trong tả người, tả người Khảo sát chất lượng trong tả cảnh. 3. Cảm thụ thơ, văn: - Cảm thụ giá trị nội dung , nghệ thuật, cảm nghĩ về một số đoạn văn bản tiêu biểu trong chương trình. 4. Tập làm thơ 4 chữ, - Đặc điểm thơ 4 5 chữ. chữ, 5 chữ Văn học 1.Văn học dân gian: (30 tiết) - Cảm thụ một số bài thơ, bài văn giàu ý nghĩa ngoài chương trình. - Làm thơ theo chủ đề. - Khái niệm, thể - Phương pháp phân tích loại, bản chất, đặc truyện dân gian trưng của một số - Đặc điểm, ý nghĩa giáo 8 Phân môn Kiến thức cơ bản chọn lọc Nội dung thể loại VHDG. Kiến thức nâng cao dục của truyện ngụ ngôn. - Các kiểu nhân vật trong truyện cổ tích Việt Nam - Đất nước, con người Việt Nam qua truyền thuyết, cổ tích. - Chứng minh giá trị của văn học dân gian. 2. Văn học trung đại : - Khái niệm về - Ý nghĩa nhân văn trong truyện trung đại. truyện trung đại VN. Khảo sát chất lượng 3. Văn học hiện đại Việt Nam : - Nghệ thuật miêu tả của nhà văn Tô Hoài trong "Dế Mèn phiêu lưu kí" - Nét đặc sắc trong miêu tả cảnh của Đoàn Giỏi qua văn bản "Sông nước Cà Mau". - Lòng nhân ái trong tác phẩm "Bức tranh của em gái tôi" - Yếu tố tự sự và nghệ thuật kết hợp các yếu tố tự sự với trữ tình trong các bài thơ : Đêm nay Bác không ngủ , Lượm - Nghệ thuật miêu tả trong bài kí “Cô Tô” của Nguyễn Tuân. - Thiên nhiên và con người trong văn bản “Vượt thác”. - Vấn đề đặt ra cho toàn nhân loại trong văn bản “ Bức thư của thủ lĩnh da đỏ” Khảo sát chất lượng 4. Văn dụng: bản nhật Khảo sát chất lượng 9 Phân môn Nội dung Kiến thức cơ bản chọn lọc Kiến thức nâng cao + Hiện thực đời sống, lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, khát vọng chinh phục thiên nhiên qua các truyền thuyết: Sơn Tinh – Thủy Tinh, Thánh Gióng… + Khát vọng về chiến thắng của cái thiện, về công bằng, hạnh phúc của nhân dân thông qua các truyện như: Thạch Sanh, Em bé thông minh. + Phẩm chất và năng lực kỳ diệu của một số kiểu nhân vật. + Nghệ thuật kỳ ảo, kết thúc có hậu trong truyện cổ dân gian *Một số chuyên + Cách ghi chép sự việc tái hiện sự kiện trong truyện trung đại. đề tham + Quan điểm sống vì mọi người và ý thức tự phê qua các văn bản khảo – Bài học đường đời đầu tiên; Bức tranh em gái tôi. Luyện + Tình yêu thiên nhiên, đất nước; (Sông nước Cà Mau; Vượt thác) đề + Hình tượng Bác và lòng tôn kính Bác; (Đêm nay Bác không ngủ) 30T + Hình tượng người thiếu niên dũng cảm: Lượm + Nghệ thuật tả cảnh thiên nhiên qua ngôn ngữ thơ. + Cảm thụ một số tác phẩm thơ, văn ngoài chương trình giàu ý nghĩa. + Những vấn đề tiêu biểu của xã hội. Qua thời sự, sách báo, trang mạng… Khảo sát chất lượng Thứ hai là khi bồi dưỡng Ngữ văn 6 phải rèn cho học sinh chữ viết và trau dồi vốn từ. Bởi lẽ, đa phần học sinh lớp 6 vừa chuyển cấp nên chữ viết chưa đẹp, viết còn chậm và đặc biệt là vốn từ ngữ còn hạn chế. Bài văn hay thì phải có vốn từ dồi dào và được sử dụng từ ngữ một cách chính xác. Từ đó các em mới có thể lựa chọn và sử dụng từ ngữ để gây ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Ví dụ: Nhà văn Nguyễn Tuân khi tả cảnh mặt trời mọc trên đảo Cô Tô đã dùng hình ảnh và từ ngữ đặc sắc: “Quả trứng hồng hào, thăm thẳm và đường bệ. Đường kính mâm rộng bằng cả chân trời màu ngọc trai nước biển hửng hồng…” Chỉ có vốn từ ngữ phong phú thì nhà văn mới viết được như thế. Đó là điều mà giáo viên cần hướng dẫn các em. Để giúp cho các em có vốn từ ngữ phong phú, giáo viên mở rộng, nâng cao vốn từ vựng của người học sinh qua các tiết học, qua sách báo, tục ngữ, ca dao, qua từ điển tiếng Việt, trong giao tiếp hàng ngày. Song song với việc mở rộng vốn từ, chúng ta rèn luyện chữ viết cho học sinh. Rèn luyện cách đặt câu, dựng đoạn linh hoạt. Thứ ba là dạy cho học sinh cách sử dụng hình ảnh so sánh văn học hay các biện pháp nhân hóa, ẩn dụ, hoán dụ. Bởi vì chỉ dùng hình ảnh mới dựng lên được những bức tranh cụ thể, sinh động, giúp người đọc cảm nhận được cuộc sống, con người, sự vật, sự việc trong tác phẩm, trong bài văn. Trong khi làm 10 văn người viết cần phải vận dụng so sánh văn học như để làm nổi bật vấn đề, làm cho bài văn phong phú, sinh động, giàu hình ảnh, hấp dẫn người đọc. Vận dụng biện pháp so sánh văn học, một mặt để làm sáng tỏ được vấn đề, mặt khác chứng tỏ người viết có kiến thức phong phú, rộng rãi. Ví dụ: So sánh giữa nghệ thuật tả cảnh sông nước của nhà văn Đoàn Giỏi và Võ Quảng . Hay hình ảnh so sánh của Nhà văn Tô Hoài khi nói về Dế Choắt : “ cái chàng dế Choắt người gầy gò và dài lêu nghêu như một gã nghiện thuốc phiện…”. Hay hình ảnh nhân hóa trong bài Mưa của Trần Đăng Khoa: “Ông trời Mặc áo giáp đen Ra trận!” Hoặc hình ảnh ẩn dụ chuyển đổi cảm giác: “Ngoài thềm rơi chiếc lá đa Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng” Và hình ảnh hoán dụ trong bài thơ Lượm của Tố Hữu: “Ngày Huế đổ máu Chú Hà Nội về.” Như vậy có nghĩa là học sinh phải có kiến thức văn học phong phú. Để rèn luyện khả năng này giáo viên bồi dưỡng cho học sinh nhiều tác phẩm khác ngoài chương trình, giúp học sinh tập phân tích, bình giảng... Điều đó cũng có nghĩa là đòi hỏi giáo viên phải có vốn tri thức sâu rộng. Thứ tư là hướng dẫn cho học sinh cách tiếp cận và tích luỹ các nguồn tài liệu, sách báo, sách tham khảo và đặc biệt là ứng dụng công nghệ thông tin để cập nhật những tin tức mới, nóng bỏng của xã hội. Hay cập nhật những dạng đề mới. Hiện nay, việc học đi đôi với hành do đó những đề văn không còn như trước mà đa số là dạng đề nhật dụng, thiết thực với xã hội. Đặc biệt với lớp 6, một dạng đề khá hay đó là đề kể chuyện tưởng tượng. Ví dụ: “Trong giấc mơ, em lạc vào thế giới cổ tích kì diệu. Ở đó, em được gặp chàng dũng sĩ Thạch Sanh và được chàng tặng cho cây đàn thần. Với cây đàn đó, em đã làm được nhiều việc có ích cho cuộc sống. Hãy tưởng tượng và viết lại câu chuyện cổ tích của riêng mình” Một kinh nghiệm của bản thân là tôi thường tìm kiếm sách, tài liệu rồi tích lũy dần qua các năm để trau dồi và cung cấp cho các em khi cần thiết. Nếu không đủ kinh phí, tôi thường đọc ở trên internet rồi truyền đạt cho các em… Thứ năm là rèn cho học sinh cách lập luận chặt chẽ, logích. Để làm tốt được điều này giáo viên cần rèn cho học sinh cách lập luận với những luận điểm, luận cứ rõ ràng, rành mạch. Học sinh phải biết lập luận như một cuộc đối thoại ngầm, lật đi lật lại một vấn đề. Biết sử dụng dẫn chứng kết hợp với lý lẽ trong lập luận giáo viên tự rèn luyện cho học sinh cách lập luận trong những bài làm văn cụ thể và cả trong những giờ văn luyện nói. Kĩ năng này chính là bước đầu rèn luyện cho các em lớp 6 có tiền đề để những năm sau các em dần quen với văn nghị luận, một dạng đề phổ biến. Thứ sáu là trong quá trình giảng dạy, giáo viên phải đặt trọn tình cảm vào quá trình bình giảng, phân tích. Để giúp học sinh thấy được tầm quan trọng của việc thể hiện thái độ tình cảm, tư tưởng của mình trước một vấn đề mình quan 11 tâm phải cho người đọc nhận ra được chúng ta đang tán thành hay phản đối, ca ngợi hay châm biếm, buồn hay vui...Trong quá trình viết văn, giáo viên cần chỉ rõ cho học sinh luôn phải thể hiện tình cảm riêng của mình trước mỗi vấn đề, nhân vật, uốn nắn cho học sinh không nên chỉ dùng một loại thao tác tư duy vì đó là một cách để bài văn có giọng văn sinh động, phong phú. Ngoài ra, sau mỗi buổi học phải có phút lắng đọng, giáo viên phải đúc rút kinh nghiệm, tháo gỡ những thắc mắc của các em. Có sự so sánh, khen ngợi, góp ý cụ thể, giúp các em tiến bộ hơn. Giao những bài tập, hướng dẫn về nhà cũng nên có sự phân loại đối tượng học sinh. 2.2.4. Kết quả: Ý thức tầm quan trọng việc rèn luyện cho học sinh làm được một bài văn hay, bản thân tôi và học sinh đã cùng nhau cố gắng nỗ lực không ngừng. Qua quá trình bồi dưỡng, rèn luyện đội tuyển hàng năm tôi thấy các em đã có nhiều tiến bộ đáng kể. Chất lượng bộ môn Ngữ văn có nhiều khởi sắc. Và nhờ áp dụng những giải pháp trên mà tôi đã gặt hái nhiều thành công. Dù không được giảng dạy ở những trường trọng điểm và học sinh đội tuyển Ngữ văn chưa phải là những học sinh thuộc tốp đầu về năng lực như các môn Toán, Anh văn, tuy nhiên đội tuyển đã giành nhiều thành tích: Năm học Tổng số giải Khối 2014-2015 7 2015-2016 10 2016-2017 2017-2018 7 5 7 8 6 6 6 Cụ thể - 4 giải Ba - 3 giải Khuyến khích. - 3 giải Ba, 2 giải Khuyến khích - 1 giải Nhì, 3 giải Ba, 1 giải Khuyến khích - 4 giải Ba, 3 giải khuyến khích. - 1 giải Nhì, 3 giải Ba, 1 giải Khuyến khích Kết quả trên tuy chưa được mĩ mãn song đó là đích đến chưa trọn vẹn thôi thúc bản thân tôi cần cố gắng hơn nữa trong công tác giảng dạy. 3. PHẦN KẾT LUẬN 3.1. Ý nghĩa của sáng kiến: Thực tế cho thấy, con đường bồi dưỡng học sinh giỏi luôn đầy chông gai, thử thách nhưng cái đích đến thì đầy trái ngọt. Chính lẽ đó, tôi luôn tâm niệm: dạy văn là đang dạy cho học sinh cách làm người. Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi Ngữ văn là góp phần đào tạo những con người có vừa có tài vừa có đức. Muốn có được điều đó, người giáo viên làm công tác bồi dưỡng phải giành trọn tâm huyết, nhiệt tình cho công việc. Phải thực sự gần gũi, quan tâm khai sáng tư tưởng cho các em. Để đạt kết quả cao, phải thật nghiêm túc trong quá trình phát hiện và tuyển chọn học sinh. Đồng thời, phải tạo mối liên hệ mật thiết với phụ huynh học sinh. Bởi họ như là những người thầy lúc ở nhà của các em là người theo dõi, nhắc nhở các em học tập. Ngoài ra, giáo viên bồi dưỡng phải có kỹ năng, phương pháp: xây dựng kế hoạch đến chương trình bồi dưỡng; Rèn luyện về chữ viết, vốn từ; Cách sử dụng hình ảnh nghệ thuật; Cách trình bày lập luận; Cách tiếp cận tài liệu và cách bày tỏ thái độ, quan điểm của mình trước một vấn đề… 12 Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ mà bản thân tôi đã đúc rút được trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi Ngữ văn 6 trong những năm qua. Rất mong nhận được sự giúp đỡ chân thành của các quý thầy cô, của đồng nghiệp để chúng ta cùng đi đến mục đích chung cuối cùng là: góp phần đào tạo ra cho xã hội những con người vừa hồng vừa chuyên. Tôi xin chân thành cảm ơn! 3.2. Kiến nghị, đề xuất: - Ban giám hiệu nhà trường cần tổ chức nhiều hơn các buổi trao đổi, bàn luận chia sẻ kinh nghiệm trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. - Nên có các câu lạc bộ các môn học trong nhà trường, tạo sân chơi cho các em, đồng thời để phát huy tài năng của các em. - Nên phân nhóm giáo viên dạy chuyên bồi dưỡng để phân công nhiệm vụ phù hợp, để giáo viên bồi dưỡng có thời gian toàn tâm, toàn lực trong công việc. - Trong quá trình nghiên cứu, thực hiện sáng kiến không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong nhận được sự góp ý, trao đổi cùng đồng nghiệp để sáng kiến được hoàn thiện và được áp dụng rộng rãi hơn. 13 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Sách giáo khoa Ngữ văn 6, Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam [2] Sách Bồi dưỡng học sinh giỏi Ngữ văn 6, Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam 14 XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TRƯỜNG ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………… 15 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan