Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Kiểm soát xung đột lợi ích trong pháp luật phòng, chống tham nhũng ở việt nam hi...

Tài liệu Kiểm soát xung đột lợi ích trong pháp luật phòng, chống tham nhũng ở việt nam hiện nay

.PDF
107
10
93

Mô tả:

MỤC LỤC Trang LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1 Chương 1: LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT XUNG ĐỘT LỢI ÍCH TRONG PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG ..........................................................................................9 1.1. Khái quát về xung đột lợi ích ..........................................................................9 1.1.1. Khái niệm xung đột lợi ích ...............................................................................9 1.1.2. Đặc điểm của xung đột lợi ích .......................................................................12 1.2. Kiểm soát xung đột lợi ích và vai trò của kiểm soát xung đột lợi ích trong phòng, chống tham nhũng ......................................................................................17 1.2.1. Khái quát về kiểm soát xung đột lợi ích.........................................................17 1.2.2. Vai trò của kiểm soát xung đột lợi ích ...........................................................18 1.3. Kiểm soát xung đột lợi ích trong pháp luật quốc tế và pháp luật của một số quốc gia trên thế giới và gợi mở cho Việt Nam ................................................20 1.3.1.Pháp luật quốc tế và pháp luật của một số quốc gia về kiểm soát xung đột lợi ích ..............................................................................................................................20 1.3.2. Một số gợi mở cho Việt Nam .........................................................................28 Chương 2: LỊCH SỬ, NỘI DUNG VÀ THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT XUNG ĐỘT LỢI ÍCH TRONG PHÁP LUẬT PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM ..............................................................................................................31 2.1. Khái lược lịch sử pháp luật phòng, chống tham nhũng về kiểm soát xung đột lợi ích ở Việt Nam .............................................................................................31 2.1.1. Giai đoạn trước năm 1945 ..............................................................................31 2.1.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến nay .....................................................................35 2.2. Thực trạng pháp luật phòng, chống tham nhũng về kiểm soát xung đột lợi ích ở Việt Nam .........................................................................................................41 2.2.1. Nội dung pháp luật phòng, chống tham nhũng về kiểm soát xung đột lợi ích ...41 2.2.2. Ưu điểm của pháp luật phòng, chống tham nhũng về kiểm soát xung đột lợi ích ở Việt Nam ..........................................................................................................65 2.2.3. Hạn chế của pháp luật phòng, chống tham nhũng về kiểm soát xung đột lợi ích ở Việt Nam ..........................................................................................................68 2.3. Thực tiễn thi hành pháp luật phòng, chống tham nhũng về kiểm soát xung đột lợi ích ở Việt Nam .............................................................................................73 Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÁP LUẬT PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG VỀ KIỂM SOÁT XUNG ĐỘT LỢI ÍCH Ở VIỆT NAM ....................................79 3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật phòng, chống tham nhũng về kiểm soát xung đột lợi ích ........................................................................................................79 3.1.1. Đảm bảo phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước............80 3.1.2. Đảm bảo hiệu quả kiểm soát xung đột lợi ích trên thực tế, lấy phòng ngừa là trọng yếu ...............................................................................................................82 3.1.3. Đảm bảo phù hợp với pháp luật quốc tế ........................................................83 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật phòng, chống tham nhũng về kiểm soát xung đột lợi ích ........................................................................................................85 3.2.1. Bổ sung, hướng dẫn chi tiết các quy định về kiểm soát xung đột lợi ích ......85 3.2.2. Mở rộng đối tượng kiểm soát xung đột lợi ích ..............................................89 3.2.3. Quy định một đơn vị chuyên trách về kiểm soát xung đột lợi ích .................91 3.3. Kiến nghị nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật phòng, chống tham nhũng về kiểm soát xung đột lợi ích ......................................................................92 3.3.1. Nâng cao ý thức và nhận thức pháp luật của người có chức vụ, quyền hạn về xung đột lợi ích và kiểm soát xung đột lợi ích ..........................................................92 3.3.2. Nâng cao vai trò của xã hội trong kiểm soát xung đột lợi ích .......................95 3.3.3. Quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý trong kiểm soát xung đột lợi ích97 3.3.4.Đảm bảo hiệu quả kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn ..........................................................................................................................98 KẾT LUẬN .................................................................................................. 100 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................102 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT CB, CC, VC: Cán bộ, công chức, viên chức Luật PCTN 2018: Luật Phòng, chống tham nhũng số 36/2018/QH14 ngày 20 tháng 11 năm 2018 của Quốc hội Nghị định 59: Nghị định số 59/2019/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2019 của Chính Phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp phòng, chống tham nhũng PCTN: Phòng, chống tham nhũng TTCP: Thanh tra Chính phủ XĐLI: Xung đột lợi ích MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu Tham nhũng hiện nay là cụm từ rất phổ biến hiện hữu trong suy nghĩ của người dân khi nhắc đến nhà nước. Thực tế, tình trạng tham nhũng xuất hiện không chỉ ở khu vực nhà nước mà còn ở cả khu vực ngoài nhà nước, nhưng đặc biệt hơn cả vẫn là trong khu vực nhà nước. Người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng, lạm dụng việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn để vụ lợi cho bản thân, gia đình diễn ra ngày càng phổ biến. Một trong các nguyên nhân dẫn đến tình trạng nêu trên là việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của người có thẩm quyền tác động đến chính quyền lợi của họ hay người thân thích của họ. Tình huống như vậy được coi là “Xung đột lợi ích” và đã được quy định cụ thể trong Luật PCTN 2018. Rõ ràng XĐLI luôn tồn tại trong các cơ quan nhà nước, thậm chí ngay trong các doanh nghiệp hay tổ chức có liên quan đến nguồn lực. XĐLI là một trong những yếu tố xã hội có nguy cơ đe dọa nghiêm trọng đến tính liêm chính của quyền lực Nhà nước và tiềm ẩn môi trường thuận lợi của hành vi tham nhũng. Những tác động tiêu cực của XĐLI đến sự tồn tại và phát triển của Nhà nước đã được nhận thức từ xa xưa trong lịch sử. Từ thời kỳ phong kiến các vua, chúa đã nhận thức được nguy cơ các quan hệ XĐLI đe dọa đến công minh, chính trực của quan lại nên đặt ra những quy định kiểm soát các tình huống XĐLI của quan lại. Ngày nay, việc kiểm soát XĐLI trong xã hội nói chung được đặc biệt đề cao. Đa số các quốc gia cũng như các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đều đặt ra các quy định để kiểm soát XĐLI của CB, CC, VC và người lao động trong quá trình thực hiện các quyền, nghĩa vụ được giao và xây dựng các cơ chế pháp lý để thực thi hiệu quả hoạt động này. Pháp luật kiểm soát XĐLI trở thành lĩnh vực pháp luật quan trọng trong hệ thống pháp luật quốc gia. Quy phạm pháp luật về kiểm soát XĐLI không chỉ là những quy phạm pháp luật thông thường mà còn được ghi nhận trong Hiến pháp, đồng thời là những chuẩn mực đạo đức tối thiểu mà cán bộ, công chức và mỗi cá nhân, tổ chức phải tuân thủ trong quá trình hoạt động; các quy định kiểm soát XĐLI trở thành bộ phận quan trọng của pháp luật PCTN nói riêng, pháp luật bảo vệ tính liêm chính, vô tư và khách quan của quyền lực Nhà nước nói chung. Các tổ chức 1 quốc tế cũng khuyến cáo các quốc gia mong muốn PCTN hiệu quả thì trước hết phải xây dựng đầy đủ và thực hiện hiệu quả kiểm soát XĐLI. Như vậy, vấn đề kiểm soát XĐLI nhằm mục tiêu chính là phòng ngừa, góp phần tham gia thực hiện cơ chế không thể tham nhũng và là một trong các vấn đề cấp thiết để PCTN hiện nay. Khung pháp lý chung ở nước ta trước kia đã có quy định nhằm kiểm soát XĐLI trong hoạt động công vụ. Các quy định này nằm rải rác trong pháp luật về cán bộ, công chức; pháp luật về PCTN; pháp luật trong hoạt động kinh doanh; pháp luật thanh tra, kiểm toán… Tuy nhiên tới nay, khái niệm XĐLI và cách thức kiểm soát XĐLI mới chính thức được quy định tại Luật PCTN 2018 cùng với đó là các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật PCTN. Bởi vậy, đây là một điểm mới cần được nghiên cứu để có những phân tích, đánh giá chuyên sâu và toàn diện hơn, qua đó đưa ra khuyến nghị giúp nâng cao hiệu quả của pháp luật về kiểm soát XĐLI. Với các lý do trên, tác giả đã lựa chọn vấn đề “Kiểm soát xung đột lợi ích trong pháp luật phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu cho Luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Xung đột lợi ích là vấn đề đã được con người nhận thức từ xa xưa. Tới nay, vấn đề XĐLI lại đang càng nhận được sự quan tâm của nhiều chuyên gia, nhà nghiên cứu. Tính tới thời điểm hiện tại, đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về vấn đề XĐLI tại Việt Nam. Tuy nhiên những nghiên cứu khoa học về vấn đề này chủ yếu là về XĐLI trong lĩnh vực công và trong thời kỳ trước khi có Luật PCTN 2018 – khi cụm từ “XĐLI” chính thức được đưa vào hệ thống pháp luật Việt Nam. Với sự nhận thức từ rất sớm về XĐLI, các công trình nghiên cứu trước đây về XĐLI đều chứa đựng những vấn đề bản chất và lý luận có giá trị khoa học pháp lý cao nên vẫn là một trong những công cụ hữu hiệu để tìm hiểu, nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật XĐLI trong PCTN ở Việt Nam hiện nay. Các công trình nghiên cứu về XĐLI đã được thực hiện tiêu biểu như: - “Kiểm soát xung đột lợi ích trong khu vực công. Quy định và thực tiễn ở Việt Nam”, do Ngân hàng Thế giới và Thanh tra Chính phủ ban hành, NXB Hồng Đức, năm 2016; 2 - “Quản lý xung đột lợi ích trong dịch vụ công, hướng dẫn và khái quát của OECD”, do Thanh tra Chính phủ biên soạn, NXB Lao Động, năm 2016; - Đề tài khoa học cấp bộ: “Kiểm soát xung đột lợi ích trong hoạt động công vụ tại Việt Nam – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, do TS. Phạm Thị Huệ chủ nhiệm đề tài, Viện Khoa học Thanh tra – Thanh tra Chính phủ, năm 2016-2017; - “Lý thuyết về kiểm soát xung đột lợi ích trong hoạt động công vụ nhằm phòng ngừa tham nhũng” của ThS. Lê Thị Thúy, trong Sách tham khảo: Các lý thuyết, mô hình, cách tiếp cận về quản trị nhà nước và phòng, chống tham nhũng, do PGS.TS. Nguyễn Thị Quế Anh - PGS.TS. Vũ Công Giao - PGS.TS. Nguyễn Hoàng Anh đồng chủ biên, NXB Hồng Đức, năm 2018, tr. 491-510; - “Xung đột lợi ích và Thanh tra Chính phủ. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của NCS. Đinh Thị Hương Giang, trong Sách tham khảo: Các lý thuyết, mô hình, cách tiếp cận về quản trị nhà nước và phòng, chống tham nhũng, do PGS.TS. Nguyễn Thị Quế Anh - PGS.TS. Vũ Công Giao - PGS.TS. Nguyễn Hoàng Anh đồng chủ biên, NXB Hồng Đức, năm 2018, tr. 511- 519; - “Một số vấn đề về tham nhũng và những nội dung cơ bản của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018”, do TS. Đinh Văn Minh chủ biên, NXB Lao Động, năm 2019; - “Nhận diện mối quan hệ giữa "Xung đột lợi ích" và tham nhũng hiện nay”, của ThS. Lê Quang Kiệm, Tạp chí Thanh tra năm 2019 - Số 6, tr. 14–17; - “Hoàn thiện pháp luật về kiểm soát xung đột lợi ích trong hoạt động công vụ ở Việt Nam hiện nay”, của ThS. Lê Quang Kiệm, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật. năm 2019 - Số 8, tr. 16-20; - “Kiểm soát xung đột lợi ích trong hoạt động công vụ tại Việt Nam hiện nay”, của TS. Phạm Thị Huệ, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, năm 2019 - Số 23 (399), tr. 11-15; - “Những điều kiện bảo đảm cho việc kiểm soát xung đột lợi ích trong hoạt động công vụ ở Việt Nam hiện nay”, của ThS. Lê Thị Thúy, Tạp chí Thanh Tra năm 2018- Số 4, tr. 30 – 33; 3 - “Hoàn thiện chế định kiểm soát xung đột lợi ích công trong Dự thảo Luật Phòng, chống tham nhũng sửa đổi, bổ sung”, TS. Đặng Công Cường, Tạp chí Tòa án nhân dân, Số 10/2017, tr. 4-6. - “Kiểm soát xung đột lợi ích nhằm phòng ngừa tham nhũng”, của TS. Đinh Văn Minh, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, năm 2016 - số 24(328), tr. 28 – 33; - “Giảm thiểu các xung đột lợi ích trong thể chế hiện đại ở Việt Nam”, của PGS.TS. Đặng Văn Thanh, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, năm 2011- số 18 (203), tr. 40 – 43; - “Hoàn thiện pháp luật về kiểm soát xung đột lợi ích trong hoạt động công vụ ở Việt Nam” Luận án tiến sĩ của Đinh Thị Hương Giang, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2019; Ngoài ra còn nhiều công trình, tài liệu nghiên cứu khác về lĩnh vực kiểm soát XĐLI trong PCTN đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành như tạp chí Nhà nước và Pháp luật, tạp chí Dân chủ và Pháp luật, tạp chí Thanh Tra, tạp chí Tòa án nhân dân, tạp chí Lý luận Chính trị, tạp chí Kiểm sát, các tham luận tại Hội thảo chuyên đề PCTN,… Các công trình nghiên cứu về XĐLI thời gian qua chủ yếu được tiến hành nghiên cứu trong phạm vi hoạt động công vụ, đối tượng là các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân trong khu vực nhà nước và phần lớn được triển khai nghiên cứu trước khi Luật PCTN 2018 được ban hành. Do đó, tác giả thực hiện luận văn mới mục đích đưa ra những phân tích, nghiên cứu mang tính tổng hợp về XĐLI trong cả khu vực nhà nước và khu vực nhà nước, cùng với đó là cách thức kiểm soát XĐLI nhằm PCTN theo Luật PCTN 2018. Các công trình trên đã cung cấp nhiều kiến thức về lý luận và thực tiễn, là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho tác giả trong quá trình nghiên cứu, thực hiện luận văn này. 3. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến XĐLI, kiểm soát XĐLI và phân tích thực trạng pháp luật cũng như thực tiễn thi hành pháp luật kiểm soát XĐLI ở Việt Nam đặc biệt trong mục tiêu phòng, ngừa tham nhũng; từ đó đưa ra, đề xuất quan điểm nhằm hoàn thiện pháp luật kiểm soát XĐLI ở Việt Nam. 4 4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 4.1. Khách thể Khách thể nghiên cứu của đề tài là những chủ thể mang lợi ích – người có chức vụ, quyền hạn. 4.2. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định về kiểm soát XĐLI trong khuôn khổ pháp luật PCTN ở Việt Nam. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu Nhằm đạt được mục đích nghiên cứu đã nêu, đề tài có các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau đây: Thứ nhất, hệ thống hoá những vấn đề lý luận liên quan tới vấn đề XĐLI và kiểm soát XĐLI: khái niệm, đặc điểm của XĐLI; vai trò và nhiệm vụ kiểm soát XĐLI; Thứ hai, phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về kiểm soát XĐLI trong phòng, ngừa tham nhũng, đồng thời nêu ra những ưu điểm và bất cập trong các quy định của pháp luật hiện hành về kiểm soát XĐLI; Thứ ba, phân tích thực tiễn thi hành các quy định về kiểm soát XĐLI trong pháp luật PCTN ở Việt Nam trong thời gian qua; Thứ tư, đề xuất quan điểm nhằm hoàn thiện các quy định về kiểm soát XĐLI trong pháp luật PCTN ở Việt Nam. 6. Phạm vi nghiên cứu XĐLI có thể được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau như góc độ luật học, triết học, khoa học quản lý và chính trị học,…Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, vấn đề XĐLI được tác giả phân tích dưới góc độ luật học. Luận văn chủ yếu đề cập và phân tích khía cạnh pháp lý, sự tổn hại, xâm phạm đến lợi ích chính đáng khác trong một mối quan hệ nhất định; mà không đi sâu nghiên cứu các khía cạnh tâm lý, kinh tế,…của vấn đề. Đối với vấn đề kiểm soát XĐLI, luận văn xem xét sự kiểm soát bằng pháp luật trên các khía cạnh: phòng ngừa XĐLI; phát hiện XĐLI và xử lý XĐLI. Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu các quy định của Luật PCTN 2018 và Nghị định 59 điều chỉnh vấn đề kiểm soát XĐLI ở Việt Nam hiện nay. Ngoài ra, tác 5 giả cũng tham khảo nội dung các quy định pháp luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam hay các bài nghiên cứu, đánh giá của các cơ quan, tổ chức, chuyên gia trong lĩnh vực PCTN nói chung và kiểm soát XĐLI nói riêng. 7. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, chủ trương, đường lối của Đảng và nhà nước ta về phòng chống XĐLI trong PCTN. Để giải quyết những nhiệm vụ cụ thể do đề tài đặt ra, tác giả sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu khác nhau như: - Phương pháp phân tích, tổng hợp: phân chia các vấn đề lớn, phức tạp thành những vấn đề nhỏ, chi tiết, cụ thể hơn. Sau khi phân tích sẽ tổng hợp lại và khái quát để đưa tới sự nhận thức tổng thể về vấn đề kiểm soát XĐLI trong PCTN ở Việt Nam; - Phương pháp quy nạp và diễn dịch: đề tài đi từ những vấn đề chung đến những vấn đề riêng, từ những hiện tượng riêng lẻ đến những cái chung; - Phương pháp thống kê: đây là phương thức quan trọng, được sử dụng xuyên suốt đề tài. Đề tài tập hợp những văn bản pháp luật liên quan đến vấn đề XĐLI và kiểm soát XĐLI và thực tiễn thi hành pháp luật làm cơ sở khoa học, lý luận để nghiên cứu làm rõ mục đích nghiên cứu của đề tài. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả cũng sử dụng phương pháp so sánh pháp luật, hệ thống, mô hình hoá và tham khảo những báo cáo tham luận của một số tác giả về vấn đề nghiên cứu. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các kết quả của các cơ quan quản lý nhà nước về PCTN (Thanh tra Chính Phủ, Ban Nội chính Trung ương,…), các chuyên gia độc lập,… 8. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Xung đột lợi ích vẫn luôn tồn tại từ lâu, tuy nhiên khái niệm này chỉ mới xuất hiện lần đầu tiên trong Luật PCTN 2018 và sự hiểu biết của mọi người với khái niệm này dường như vẫn còn rất hạn chế. Rõ ràng XĐLI luôn tồn tại trong các cơ quan nhà nước, thậm chí ngay trong các doanh nghiệp hay tổ chức có liên quan đến 6 nguồn lực. XĐLI là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới tham nhũng, do đó kiểm soát XĐLI để phòng, ngừa tham nhũng là điều bắt buộc phải thực hiện. Hiểu sâu khái niệm XĐLI để nhận diện và có những biện pháp ngăn cản XĐLI tạo ra tham nhũng rất quan trọng. Việc này không chỉ giúp cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân tuân thủ Luật PCTN mà còn góp phần xây dựng văn hóa liêm chính, minh bạch và công khai về các mâu thuẫn lợi ích trong hoạt động công quyền cũng như kinh tế. Theo tác giả, để kiểm soát XĐLI, góp phần phòng ngừa có hiệu quả những biểu hiện tiêu cực, tham nhũng trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị, trước hết cần phải tổ chức việc nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện các quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến XĐLI và thực trạng kiểm soát XĐLI hiện nay; tăng cường các hoạt động nhằm nâng cao nhận thức của mỗi cá nhân, nhất là đối với CB, CC, VC về XĐLI; phải có phương pháp tiếp cận đa ngành, liên ngành trong kiểm soát XĐLI; chú trọng tìm hiểu kinh nghiệm quốc tế phù hợp để áp dụng cho Việt Nam. Đây là ý nghĩa mà tác giả muốn hướng tới khi nghiên cứu chuyên sâu về kiểm soát XĐLI để góp phần cùng Nhà nước thực thi hiệu quả Luật PCTN. Tác giả mong rằng kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần nào vào củng cố, hoàn thiện cơ sở lý luận khoa học cho việc hoàn thiện các quy định về kiểm soát XĐLI trong pháp luật phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam. Luận văn đã đưa ra khái niệm, xác định các đặc điểm, đồng thời phân tích và chỉ ra vai trò, nội dung và những yêu cầu đặt ra với việc hoàn thiện pháp luật về kiểm soát XĐLI. Luận văn đã hệ thống hóa những nội dung cơ bản của pháp luật về kiểm soát XĐLI qua các giai đoạn phát triển, chỉ ra những ưu điểm cũng như những hạn chế của pháp luật về kiểm soát XĐLI và đề xuất những giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế đó. 9. Bố cục luận văn Luận văn gồm 3 chương với các nội dung cơ bản như sau: Chương 1: Lý luận về kiểm soát XĐLI trong PCTN Thứ nhất, trình bày cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu: một là, về XĐLI, cụ thể đề cập đến những vấn đề lý luận chung như: khái niệm, đặc điểm nhận diện, hệ quả; hai là, về kiểm soát XĐLI, cụ thể đề cập đến khái niệm, nguyên nhân, phương hướng thực hiện; 7 Thứ hai, khái lược cách thức kiểm soát XĐLI của một số quốc gia trên thế giới và gợi mở cho Việt Nam Chương 2. Lịch sử, nội dung và thực trạng kiểm soát XĐLI trong pháp luật PCTN ở Việt Nam Thứ nhất, trình bày quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về kiểm soát XĐLI ở Việt Nam từ thời phong kiến đến nay, đặc biệt trong pháp luật PCTN. Khái quát và đánh giá các qu định về kiểm soát xung đột trong pháp luật phòng, chống tham nhũng tại Việt Nam qua từng thời kỳ; Thứ hai, trình bày nội dung điều chỉnh của pháp luật về kiểm soát XĐLI trong PCTN, cụ thể về khái niệm và trường hợp xảy ra XĐLI, cách thức kiểm soát và xử lý XĐLI; từ đó có những phân tích và đánh giá điểm tích cực và hạn chế của pháp luật hiện hành; Thứ ba, dựa trên các quy định của pháp luật PCTN về kiểm soát XĐLI, khái quát và đánh giá thực tiễn thi hành tại Việt Nam. Chương 3. Quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về kiểm soát XĐLI trong PCTN Căn cứ những nghiên cứu, đánh giá về vấn đề XĐLI, kiểm soát XĐLI và pháp luật điều chỉnh các vấn đề này, đặc biệt là những điểm hạn chế còn tồn tại, tác giả đưa ra quan điểm nhằm hoàn thiện pháp luật về kiểm soát XĐLI, từ đó đề xuất các biện pháp cụ thể để kiểm soát vấn đề XĐLI hiệu quả hơn phục vụ cho mục đích phòng, ngừa tham nhũng tại Việt Nam. 8 Chương 1 LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT XUNG ĐỘT LỢI ÍCH TRONG PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG 1.1. Khái quát về xung đột lợi ích 1.1.1. Khái niệm xung đột lợi ích Xung đột là sự đối đầu phát sinh từ sự không thống nhất giữa các chủ thể trong một mối quan hệ nhất định, do có sự khác nhau, đối lập về thái độ, sở thích, niềm tin, quan điểm, nhận thức, giá trị, mục tiêu,... Khởi nguồn của xung đột là những khuynh hướng đối nghịch, không tương thích cùng xuất hiện trong một thời kì, một quan hệ. Xung đột thường xuất phát từ trong chính suy nghĩ, nhận thức của con người, để rồi được thể hiện ra bằng hành động. Suy nghĩ, quan điểm của mỗi người là không thể hoàn toàn đồng nhất, hay trong chính bản thân mỗi cá nhân tại các thời điểm khác nhau cũng sẽ có tư tưởng, nhận thức khác khau nên các tình huống xung đột là điều không thể tránh khỏi. Vậy nên, xung đột là yếu tố tất yếu, luôn tiềm ẩn trong xã hội và xảy ra ở nhiều mức độ từ nhỏ tới lớn. Lợi ích là kết quả theo hướng có lợi, là sự thỏa mãn những nhu cầu, mong muốn của con người. Lợi ích là nguyên nhân, là động lực thúc đẩy cho suy nghĩ, hành động của con người. Lợi ích là một trong các mục đích hoạt động của cá nhân, tổ chức. Từ đó, lợi ích quyết định đến tính chất của mối quan hệ giữa các chủ thể trong cộng đồng: đồng thuận, hợp tác hay đối lập, cạnh tranh. Xung đột lợi ích là gì? Xung đột lợi ích (conflict of interest) là nói đến tình huống xung đột trong quan hệ lợi ích, là mâu thuẫn về lợi ích của chủ thể này với chủ thể khác hay mẫu thuẫn giữa các lợi ích của cùng một chủ thể. Với mỗi quan hệ cụ thể, các lợi ích này có thể có quan hệ tương sinh hoặc ngược lại có thể là quan hệ đấu tranh, tương khắc. Các chủ thể mang lợi ích thường có xu hướng gia tăng, củng cố lợi ích của mình với các cách thức khác nhau và cũng chính điều đó sẽ đồng thời làm giảm sút lợi ích của chủ thể còn lại trong quan hệ đó. Dưới góc độ luật học, “Xung đột lợi ích 9 được hiểu là sự vi phạm, xâm phạm hoặc làm tổn hại lẫn nhau giữa các lợi ích trong một quan hệ nhất định” [21]. Hiện nay, khái niệm “Xung đột lợi ích” đều đã được các quốc gia, tổ chức quốc tế và giới nghiên cứu đưa ra, tuy không hoàn toàn đồng nhất, nhưng về cơ bản cũng đã đi đến sự thống nhất chung. Theo Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD): Xung đột lợi ích là “mâu thuẫn giữa chức trách nhà nước và lợi ích cá nhân của công chức, trong đó công chức có những lợi ích ở phương diện cá nhân có thể gây ảnh hưởng không phù hợp đến kết quả thực hiện các nghĩa vụ, trách nhiệm công chức của mình” [34, tr24]. Ủy ban Độc lập chống tham nhũng (ICAC) cho rằng: “Xung đột lợi ích xảy ra khi một công chức ở vào một vị trí bị ảnh hưởng hoặc xảy ra ảnh hưởng bởi lợi ích cá nhân của mình khi thực thi công vụ” [32, tr4]. Theo Tổ chức Minh bạch quốc tế (TI), xung đột lợi ích là “... tình huống trong đó một cá nhân hoặc tổ chức nơi họ làm việc, có thể là chính phủ, doanh nghiệp, hãng truyền thông hoặc tổ chức xã hội dân sự, phải đối mặt với việc lựa chọn giữa trách nhiệm và yêu cầu xuất phát từ vị trí công việc của họ với những lợi ích cá nhân của chính họ” [31, tr1]. Theo Từ điển pháp luật Anh-Việt, xung đột lợi ích là “... sự mâu thuẫn quyền lợi, sự không tương xứng giữa địa vị chức tước với quyền lợi cá nhân của người giữ chức vụ đó, việc sử dụng chức vụ để mưu lợi ích cá nhân” [28, tr318]. Theo từ điển Luật học tiếng Anh của Black, “Xung đột lợi ích là tình huống ảnh hưởng đến quyết định vì có xung đột giữa lợi ích của cá nhân và lợi ích công” [29]. Theo từ điển tiếng Anh của Cambridge, “Xung đột lợi ích là tình huống mà một người không thể đưa ra quyết định công bằng, vì bị chi phối bởi lợi ích cá nhân” [30]. TS Hoàng Văn Luân cho rằng: “Xung đột lợi ích được hiểu là sự vi phạm, xâm phạm hoặc làm tổn hại lẫn nhau giữa các lợi ích trong một quan hệ nhất định” [21]. Tác giả Trần Văn Long cho rằng: “Xung đột lợi ích được hiểu là bất kỳ một tình huống nào trong đó cá nhân hay tổ chức được ủy thác trách nhiệm (được trao quyền) có những lợi ích riêng hay chung đủ lớn để ảnh hưởng (hay có thể ảnh hưởng) đến việc thi hành các trách nhiệm được ủy thác một cách khách quan, đúng đắn” [18]. Theo tác giả Vũ Công Giao và Đỗ Thu Huyền, xung đột lợi ích “là khả 10 năng một cá nhân hoặc tổ chức được giao quyền lực công sử dụng vị trí công tác một cách không thích đáng để tư lợi” [10]. Hiện nay, Luật PCTN 2018 đã có định nghĩa cụ thể về XĐLI tại Khoản 9, Điều 3: “Xung đột lợi ích là tình huống mà trong đó lợi ích của người có chức vụ, quyền hạn hoặc người thân thích của họ tác động hoặc sẽ tác động không đúng đến việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ”. Khái niệm này cơ bản đã thống nhất với cách hiểu hiện nay trên bình diện quốc tế. Cụ thể, khái niệm này đã bám sát khái niệm về XĐLI được nêu trong Công ước về chống hối lộ công chức nước ngoài trong giao dịch quốc tế của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (Organization for Economic Cooperation and Development – OECD) đã được nhiều nước trên thế giới thừa nhận. Quy định về XĐLI trong Luật PCTN sẽ đảm bảo sự thống nhất trong cách hiểu, biện pháp áp dụng và tổ chức thực hiện việc kiểm soát, xử lý vi phạm về XĐLI. Từ những khái niệm và phân tích nêu trên, có thể thấy bất kỳ một lợi ích bất thường nào xuất hiện cũng có thể khiến cho người có chức vụ, quyền hạn phân tâm và có xu hướng lựa chọn cách thức thực hiện nhiệm vụ, công vụ không đúng với đạo đức, với quy định của pháp luật. Đây là những lợi ích không chính đáng. Như vậy, XĐLI được xác định ngay khi xuất hiện một lợi ích bất thường cho cá nhân hay cho người thân của người có chức vụ, quyền hạn. Bởi chính lợi ích này sẽ phần nào ảnh hưởng không đúng đến quá trình thực hiện nhiệm vụ, công vụ của người có chức vụ, quyền hạn. Về bản chất, XĐLI là tình huống có xu hướng tạo ra sự xung đột giữa lợi ích cá nhân của người có chức vụ, quyền hạn hay người thân của họ với lợi ích công hay lợi ích chung. Khi đó, để gia tăng lợi ích cá nhân đồng thời sẽ làm tổn hại đến lợi ích chung. Đặc điểm nhận diện của XĐLI chính là tồn tại một lợi ích bất chính của người có quyền hoặc người thân thích của họ khiến người đó có thể bị chi phối dẫn tới thực hiện nhiệm vụ, công vụ một cách không phù hợp với yêu cầu của tổ chức, đơn vị đã giao ban đầu. Kết quả của XĐLI là xuất hiện xung đột giữa hai lợi ích: một là, lợi ích đạt được khi người có chức vụ, quyền hạn thực hiện đúng nhiệm vụ, công vụ (lợi ích công); hai là, lợi ích khi người có chức vụ, quyền hạn thực hiện không đúng 11 nhiệm vụ, công vụ (lợi ích cá nhân). Cụ thể, khi người có chức vụ quyền hạn thực hiện đúng nhiệm vụ, công vụ là đem lại lợi ích cho tổ chức, đơn vị, nhà nước (gọi chung là tập thể) hay cho cá nhân có quyền được hưởng lợi ích chính đáng; còn khi người có chức vụ, quyền hạn thực hiện không đúng nhiệm vụ, công vụ là để đem lại lợi ích cho riêng bản thân mình hoặc cho người thân của mình – cá nhân được hưởng lợi ích không chính đáng. 1.1.2. Đặc điểm của xung đột lợi ích Xung đột lợi ích là tình huống người có chức vụ, quyền hạn dễ dàng gặp phải trong quá trình ra quyết định hay hành động thực hiện công vụ, nhiệm vụ của mình. XĐLI là hiện tượng xã hội mang tính tất yếu khách quan và phổ biến. Xã hội càng phát triển thì mối quan hệ lợi ích trong xã hội ngày càng đa dạng, phong phú. Kéo theo đó, XĐLI cũng ngày càng đa dạng với nhiều hình thức biểu hiện khác nhau. Từ đó, đặt ra yêu cầu phải nhận diện, phân loại XĐLI thông qua các đặc điểm dưới đây để tìm ra những giải pháp kiểm soát XĐLI một cách hiệu quả: Chủ thể của tình huống XĐLI là cá nhân - người có chức vụ, quyền hạn. Người có chức vụ, quyền hạn là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do tuyển dụng, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó. Như vậy, dựa vào chủ thể của XĐLI có thể thấy XĐLI tồn tại không chỉ trong khu vực công, mà còn xảy ra ở khu vực tư (ví dụ như trong môi trường doanh nghiệp) Khách thể của XĐLI là lợi ích của người có chức vụ, quyền hạn hoặc người thân thích của họ. Các lợi ích này có thể là lợi ích vật chất (tiền, tài sản,…) hay lợi ích phi vật chất (tình cảm, mối quan hệ, sự thăng tiến trong công việc,…). Chính các lợi ích này tác động hoặc sẽ tác động không đúng đến quá trình thực hiện nhiệm vụ, công vụ của người có chức vụ, quyền hạn. Con người luôn có xu hướng đề cao lợi ích bản thân, nên khi có cơ hội gia tăng lợi ích riêng xuất hiện thì con người sẽ có phương án tận dụng. Tất nhiên, nếu việc gia tăng lợi ích bản thân mà không vi phạm pháp luật, không gây tổn hại và kìm hãm sự phát triển của chủ thể khác thì 12 đây là việc nên làm. Và ngược lại, khi một cá nhân để nâng cao lợi ích riêng cho bản thân mà thực hiện không đúng nhiệm vụ, công vụ của mình là hành động cần phải bài trừ. Chính lợi ích riêng của bản thân người có chức vụ, quyền hạn hay người thân của họ có thể tác động gây ảnh hưởng tới sự vô tư, khách quan cần phải có trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, công vụ. Xung đột lợi ích đề cập đến tình huống mà trong đó cùng lúc có thể có hai hay nhiều lợi ích không đồng nhất của một hay nhiều chủ thể khác nhau. Các lợi ích khi ấy không thể tồn tại song song, mà đối nghịch nhau, tiêu diệt nhau. Để đạt được một lợi ích có thể chủ thể của lợi ích ấy phải gây tổn hại đến lợi ích còn lại. Do đó, chủ thể của XĐLI phải lựa chọn một trong số các lợi ích đó và lợi ích được ưu tiên đạt được phải là lợi ích chính đáng, hợp pháp, cụ thể là lợi ích đạt được khi người có chức vụ, quyền hạn thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ của mình, hay chính là lợi ích của nhà nước, cơ quan, tổ chức, đơn vị chứ không phải lợi ích của riêng cá nhân người có chức vụ, quyền hạn. Phân loại xung đột lợi ích Có thể phân loại XĐLI dựa trên hình thức tồn tại của XĐLI (cách phân loại phổ biến hiện nay), bao gồm: XĐLI tiềm ẩn và XĐLI hiện hữu. XĐLI tiềm ẩn là XĐLI chưa xảy ra, nhưng đã có khả năng xảy ra – XĐLI có nguy cơ xảy ra. XĐLI tiềm ẩn là tình huống mà người có chức vụ, quyền hạn có thể bị tác động bởi lợi ích của cá nhân hay của người thân dẫn đến thực hiện không đúng chức tránh, nhiệm vụ. XĐLI hiện hữu là XĐLI đang xảy ra – XĐLI đã xảy ra trong thực tế, là tình huống người có chức vụ, quyền hạn đang bị tác động bởi lợi ích cá nhân trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, công vụ. XĐLI tiềm ẩn và hiện hữu cũng có thể coi là các cấp độ của XĐLI từ khi chuẩn bị - XĐLI tiềm ẩn đến khi xảy ra – XĐLI hiện hữu. Ngoài ra, có thể phân loại XĐLI dựa trên bản chất của nguyên nhân gây ra XĐLI. Theo cách này, XĐLI được chia thành XĐLI do nguyên nhân chủ quan và XĐLI do nguyên nhân khách quan. XĐLI do nguyên nhân chủ quan là XĐLI xuất hiện phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người có chức vụ, quyền hạn; XĐLI nảy sinh do người có chức vụ, quyền hạn cố ý sắp xếp, tổ chức tạo dựng tình huống – Người 13 có chức vụ, quyền hạn chủ động tham gia vào tình huống XĐLI. Ví dụ: Thủ trưởng cơ quan bổ nhiệm, quyết định cho người thân – con ruột của mình giữ chức vụ thủ quỹ của cơ quan. Tình huống này do thủ trưởng cơ quan đã cố ý sắp xếp cho người thân của mình giữ vị trí quan trọng, nắm giữ vai trò quản lý tài chính của cơ quan do mình làm thủ trưởng; mà đáng lẽ người có chức vụ, quyền hạn hoàn toàn có đủ khả năng để ngăn ngừa XĐLI xảy ra nhưng đã không làm. XĐLI do nguyên nhân khách quan là XĐLI xuất hiện không phụ thuộc vào ý chí, hành động của người có chức vụ, quyền hạn; tức là người có chức vụ, quyền hạn ở thế bị động khi rơi vào tình huống XĐLI. Ví dụ: một công chức thuế được phân công quản lý các doanh nghiệp hoạt động tại một địa phương nhất định, trong đó có doanh nghiệp thuộc sở hữu của anh trai công chức thuế đó – XĐLI đã xảy ra nhưng hoàn toàn không phải do ý chí của công chức thuế, mà do sự phân công, sắp xếp của thủ trưởng cơ quan thuế dựa trên nội dung cơ cấu tổ chức và hoạt động trong lĩnh vực thuế. Dù không mong muốn, nhưng công chức thuế đã vô tình trở thành chủ thể của XĐLI. Trong tình huống này XĐLI không thể phòng ngừa, bởi XĐLI nảy sinh một cách khách quan, không phải do mong muốn của bất kỳ cá nhân nào. Với XĐLI do nguyên nhân khách quan cần tìm cách xử lý, khắc phục để đảm bảo hậu quả tiêu cực không xảy ra, đảm bảo tính liêm chính, đúng đắn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, công vụ. Tiến trình, diễn biến XĐLI Xung đột lợi ích là một tình huống có tiến trình, diễn biến như sau: (1) Giai đoạn xuất hiện XĐLI; (2) Nhận thức XĐLI: khi đó người có chức vụ, quyền hạn cân nhắc lợi ích cá nhân với lợi ích công để chọn phương án xử lý cho tình huống xung đột; (3) Xử lý XĐLI: Cá nhân khi rơi vào tình huống XĐLI sẽ lựa chọn cách xử lý sau khi đã có sự phân tích, nhận tích từ giai đoạn 2: nếu lựa chọn lợi ích cá nhân, chủ thể của XĐLI có thể sẽ đón nhận, hợp tác,… để tạo ra lợi ích cho riêng mình hay người thân của mình, và ngược lại né tránh, bài trừ, tố cáo,… để bảo vệ lợi ích công; (4) Kết quả XĐLI: cá nhân xử lý XĐLI theo hướng đem lại lợi ích cá nhân tạo ra kết quả là tham nhũng hay một hành vi vi phạm khác, trường hợp còn lại là khi có XĐLI mà cá nhân vẫn chọn bảo vệ lợi ích công thực hiện đúng nhiệm 14 vụ, công vụ là tuân thủ pháp luật và đạo đức, là bảo đảm tính liêm chính, đúng đắn của nhà nước, tổ chức, đơn vị nơi mình được trao chức vụ, quyền hạn. Mối quan hệ giữa xung đột lợi ích và tham nhũng Từ đây có thể thấy đã xuất hiện mối liên quan giữa tham nhũng và XĐLI, hai khái niệm tương đối gần gũi và dễ bị nhầm lẫn. Theo quy định tại Điều 3 Luật PCTN 2018: “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi” và “Vụ lợi là việc người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn nhằm đạt được lợi ích vật chất hoặc lợi ích phi vật chất không chính đáng”. Như vậy, với quy định của pháp luật hiện hành, có thể hiểu: tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn nhằm đạt được lợi ích không chính đáng. Còn khái niệm XĐLI như đã nêu là tình huống mà trong đó lợi ích của người có chức vụ, quyền hạn hoặc người thân thích của họ tác động hoặc sẽ tác động không đúng đến việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ. Có thể thấy cả hai khái niệm đều nhắc tới “lợi ích” và “người có chức vụ, quyền hạn”, chính điều này đã tạo ra lầm tưởng về sự trùng khớp giữa XĐLI và tham nhũng. Do đó, tác giả xin được làm rõ hai khái niệm này như sau: XĐLI và tham nhũng có chủ thể đồng nhất, đó là người có chức vụ, quyền hạn. Phải là người có chức vụ, quyền hạn mới có thể rơi vào XĐLI và thực hiện tham nhũng. Khác biệt rõ ràng nhất giữa XĐLI và Tham nhũng là về bản chất, cụ thể: XĐLI là tình huống, có thể là chủ quan (do ý chí, hành động của con người) và đôi khi là khách quan, là điều không tránh khỏi, không thể lựa chọn (nảy sinh từ chức năng, nhiệm vụ, mục tiêu, quy định, cơ chế hoạt động của cơ quan, tổ chức); còn tham nhũng là hành vi, mang tính chủ quan, do con người lựa chọn thực hiện (nảy sinh từ nhận thức, suy nghĩ, hành vi của con người). Khi xuất hiện “tình huống”, “hành vi” có thể xảy ra hoặc không, tùy vào sự lựa chọn của chủ thể. Và như đã nêu ở phần tiến trình, diễn biến của XĐLI bên trên, XĐLI khi được xử lý theo hướng tiêu cực là cá nhân thực hiện không đúng nhiệm vụ, công vụ để vun vén lợi ích cho cá nhân hay người thân thích, lúc này tham nhũng có thể xuất hiện. Như vậy, XĐLI là một trong những nguyên nhân dẫn tới tham nhũng, tham nhũng là một trong những kết quả có thể xảy ra khi có XĐLI. Không phải mọi trường hợp có XĐLI đều dẫn tới tham nhũng, 15 mà chỉ khi gặp XĐLI mà người có chức vụ, quyền hạn lựa chọn làm đúng với nhiệm vụ, quyền hạn của mình sẽ không tạo ra tham nhũng. Ví dụ 1: Tặng quà, cụ thể: giữa người ra quyết định và người chịu ảnh hưởng bởi quyết định có mối quan hệ với nhau thông qua việc tặng quà – nhận quà. Trong trường hợp này, tham nhũng xuất hiện đồng thời với XĐLI. XĐLI nảy sinh trong trường hợp này là lợi ích từ quà tặng có thể tác động tới người có quyền ra quyết định, khiến họ đưa ra quyết định không đúng với nhiệm vụ. Tham nhũng biểu hiện bằng hành vi tặng quà – đưa hối lộ của người chịu ảnh hưởng bởi quyết định, dù người có quyền ra quyết định có nhận quà hay không, có vì quà tặng đó mà thực hiện không đúng với nhiệm vụ, quyền hạn của mình hay không thì vẫn tồn tại hành vi tham nhũng từ người đưa hối lộ. Trong trường hợp này, XĐLI và tham nhũng đều xuất hiện ngay từ thời điểm người chịu ảnh hưởng bởi quyết định tặng quà người có quyền ra quyết định. Ví dụ 2: Mối quan hệ đặc biệt, cụ thể: giữa người chịu ảnh hưởng bởi quyết định với người ra quyết định có mối quan hệ đặc biệt, ngoài hoạt động công vụ, nhiệm vụ (họ hàng, người quen, phụ huynh – giáo viên,…). XĐLI đã xuất hiện, chính mối quan hệ thân thích, quen biết là yếu tố có thể khiến người có quyền ra quyết định đưa ra quyết định không đúng với nhiệm vụ, công vụ để đem lại lợi ích cho người chịu ảnh hưởng bởi quyết định (người quen, người họ hàng). Tham nhũng chỉ xuất hiện sau khi người ra quyết định lựa chọn thực hiện không đúng với nhiệm vụ, quyền hạn của mình để đem lại lợi ích không chính đáng cho người thân, người quen của mình. Trong trường hợp này, XĐLI xuất hiện trước, còn tham nhũng có thể tồn tại hoặc không, và nếu có thì sẽ xuất hiện sau XĐLI. Trên đây là hai ví dụ cơ bản mà tác giả đề cập để phần nào minh chứng cho mối quan hệ giữa tham nhũng và XĐLI. Một lần nữa, khẳng định lại XĐLI và tham nhũng là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau, nhưng có mối liên hệ với nhau, bao gồm ba trạng thái: (1) XĐLI và tham nhũng xuất hiện và tồn tại đồng thời; (2) XĐLI là nguyên nhân, khởi nguồn dẫn đến tham nhũng; (3) Chỉ xuất hiện XĐLI, không xuất hiện tham nhũng. 16 Xung đột lợi ích là tình huống khiến con người dễ bị tha hóa, dẫn tới có những hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến xã hội, tổ chức, cá nhân khác. Do đó cần phải tính tới kiểm soát XĐLI để tạo môi trường phù hợp, điều kiện thuận lợi nhất cho người có chức vụ, quyền hạn thực hiện đúng đắn nhiệm vụ, quyền hạn của mình; góp phần duy trì và phát huy vai trò là nguồn động lực của lợi ích và các quan hệ lợi ích trong xã hội. 1.2. Kiểm soát xung đột lợi ích và vai trò của kiểm soát xung đột lợi ích trong phòng, chống tham nhũng 1.2.1. Khái quát về kiểm soát xung đột lợi ích Theo kết quả nghiên cứu của Ngân hàng thế giới, “tình huống XĐLI diễn ra khá phổ biến, đa dạng và nguy cơ trở thành “thông lệ” trong quan hệ công vụ” [8, tr65]. XĐLI tác động đến quá trình thực hiện công vụ, nhiệm vụ, từ đó gây mất niềm tin của công chúng vào chính những người thực hiện công vụ, nhiệm vụ và cao hơn là niềm tin vào nhà nước, xã hội. Như vậy, việc kiểm soát XĐLI là nhiệm vụ quan trọng, cần thiết để đảm bảo niềm tin của công chúng đối với các cá nhân, tổ chức có chức vụ, quyền hạn; kiểm soát XĐLI trở thành một đòi hỏi, một yêu cầu của xã hội. Theo Từ điển tiếng Việt “kiểm soát là xem xét để phát hiện sai sót, giữ cho mọi việc diễn ra đúng đắn” [27]. Theo đó, kiểm soát chính là quản lý, theo dõi, luôn đặt đối tượng được kiểm soát trong khuôn khổ nhất định và có hướng giải quyết khi đối tượng vượt ngoài khuôn khổ ấy để ngăn chặn hậu quả xảy ra. Kiểm soát XĐLI bao gồm nhận diện, theo dõi và đưa ra những can thiệp cần thiết để hạn chế hậu quả do xung đột đó gây ra. Khi đứng trước yêu cầu giải quyết xung đột giữa các lợi ích cần lựa chọn: hoặc hy sinh hẳn một lợi ích (có bồi thường thỏa đáng) để bảo toàn lợi ích còn lại; hoặc dung hòa bằng cách cắt giảm mỗi lợi ích một chút, để cả hai tiếp tục cùng tồn tại hòa bình trong một ngôi nhà chung. Để lựa chọn giữa hai phương án đó cần xem xét đến tính hợp pháp, hợp lý của từng lợi ích. Kiểm soát XĐLI là việc ngăn ngừa sự xuất hiện của các tình huống XĐLI và không để các XĐLI đã tồn tại chuyển hóa thành tham nhũng nhằm đảm bảo tính 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan