TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA NGỮ VĂN
KHÓA LUẬN
TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Đề tài:
“Nhân vật lịch sử và dã sử trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp”
Giảng viên hướng dẫn: TS. HÀ THANH VÂN
Sinh viên thực hiện
Lớp
: LÊ THỊ THU HẰNG
: D11NV01
Khóa : 2011-2015
Hệ
: Chính quy
Bình Dương, tháng 6/2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA NGỮ VĂN
KHÓA LUẬN
TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Đề tài:
“Nhân vật lịch sử và dã sử trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp”
Sinh viên thực hiện
Lớp
: LÊ THỊ THU HẰNG
: D11NV01
Khóa : 2011-2015
Hệ
: Chính quy
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được khóa luận tốt nghiệp với đề tài “Nhân vật lịch sử và dã sử
trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp”, em đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, quan
tâm của quý Thầy Cô, gia đình và bạn bè.
Với lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cám ơn TS. Hà Thanh Vân, người
đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành
khóa luận này.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô trong khoa Ngữ Văn –
Trường Đại Học Thủ Dầu Một đã truyền đạt cho em nhiều kiến thức bổ ích và tạo
mọi điều kiện cho em để hoàn thành khóa luận tốt nhất.
Em cũng gửi lời cảm ơn tới gia đình và những người bạn thân đã khích lệ, động
viên em trong suốt khóa học cũng như trong quá trình thực hiện khóa luận tốt
nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn!
Bình Dương, ngày 04 tháng 06 năm 2015
Sinh Viên
Lê Thị Thu Hằng
LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của TS. Hà
Thanh Vân. Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong khóa luận là trung thực và chưa được công bố trong các công trình
khác.
Sinh viên
Lê Thị Thu Hằng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Trang
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu .................................................................................................... 2
3. Lịch sử vấn đề ............................................................................................................. 2
4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................................. 8
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................. 9
6. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................ 9
7. Cấu trúc khóa luận ..................................................................................................... 10
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .................................................................. 11
1.1. NHÀ VĂN NGUYỄN HUY THIỆP VÀ QUÁ TRÌNH SÁNG TÁC ................... 11
1.1.1. Cuộc đời............................................................................................................ 11
1.1.2. Quá trình sáng tác .............................................................................................. 12
1.2. HỆ THỐNG KHÁI NIỆM ................................................................................... 16
1.2.1. Khái niệm “truyện ngắn”................................................................................... 16
1.2.2. Khái niệm “nhân vật” ........................................................................................ 17
1.2.3. Khái niệm “nhân vật lịch sử”............................................................................. 19
1.2.4. Khái niệm “nhân vật dã sử”............................................................................... 19
* Tiểu kết ..................................................................................................................... 20
CHƯƠNG 2. CÁC KIỂU NHÂN VẬT LỊCH SỬ VÀ DÃ SỬ TRONG TRUYỆN
NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP .................................................................................. 21
2.1. NHÂN VẬT LỊCH SỬ VÀ DÃ SỬ TRONG BỐI CẢNH THỜI ĐẠI ................ 21
2.1.1. Nhân vật lịch sử trong bối cảnh thời đại ........................................................ 21
2.1.1.1. Nhân vật là vua ............................................................................................ 21
2.1.1.2. Nhân vật là tướng ......................................................................................... 29
2.1.1.3. Nhân vật là nhà thơ ...................................................................................... 32
2.1.2. Nhân vật dã sử trong bối cảnh thời đại .......................................................... 35
2.1.2.1. Nhân vật là tướng ......................................................................................... 35
2.1.2.2. Nhân vật là nữ nhi ........................................................................................ 43
2.1.2.3. Nhân vật là cầu nối lịch sử ........................................................................... 46
2.2. NHÂN VẬT LỊCH SỬ VÀ DÃ SỬ TRONG BỐI CẢNH VĂN HỌC ................ 48
2.2.1. Nhân vật lịch sử trong bối cảnh văn học ........................................................ 48
2.2.1.1. Nhân vật là nhà thơ ...................................................................................... 48
2.2.1.2. Nhân vật là nhà văn ...................................................................................... 67
2.2.2. Nhân vật dã sử trong bối cảnh văn học .......................................................... 71
2.2.2.1. Nhân vật là nữ .............................................................................................. 71
2.2.2.1. Nhân vật là thi sĩ .......................................................................................... 74
* Tiểu kết ..................................................................................................................... 75
CHƯƠNG 3. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT LỊCH SỬ VÀ DÃ SỬ
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP .................................................. 77
3.1. XÂY DỰNG NHÂN VẬT QUA NGOẠI HÌNH .................................................. 77
3.2. XÂY DỰNG NHÂN VẬT QUA HÀNH ĐỘNG .................................................. 80
3.3. XÂY DỰNG NHÂN VẬT QUA NGÔN NGỮ ..................................................... 85
3.3.1. Ngôn ngữ đối thoại.......................................................................................... 85
3.3.2. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm ............................................................................ 94
* Tiểu kết ................................................................................................................... 101
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 103
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 105
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nguyễn Huy Thiệp được xem là một hiện tượng tiêu biểu của văn học Việt Nam
cuối thế kỷ XX. Sáng tác của ông bao gồm nhiều thể loại như: Kịch, truyện ngắn,
tiểu thuyết. Nhưng sở trường đặc biệt của Nguyễn Huy Thiệp là sáng tác theo thể
loại truyện ngắn. Với những góc nhìn mới đầy táo bạo, tác phẩm của ông đã khiến
cho dư luận trong nước cũng như dư luận nước ngoài trở nên sôi nổi. Ý kiến về
truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp khen chê đều có cả, nhưng dù ngợi khen hay
phê bình thì “phần lớn mọi người đều nhận xét ông là một tài năng độc đáo”[18;
131]. Đánh dấu cho thành công ở thể loại này ông đã giành được một số giải thưởng
quan trọng:
- Ngày 9 tháng 7 năm 2007, ông được đại sứ Pháp ở Việt Nam trao tặng Huân
chương Văn học Nghệ thuật của Pháp;
- Ngày 23 tháng 01 năm 2008, ông nhận giải thưởng Premio Nonino, Italy;
Ngoài ra truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp còn được dịch sang nhiều ngôn ngữ
như Pháp, Anh, Italy, Thụy Điển, Đan Mạch, Hà Lan, Đức, Hàn Quốc, Nhật Bản…,
Chính những thành tựu trên là minh chứng rõ ràng nhất cho tầm ảnh hưởng rộng lớn
của tác phẩm văn chương Nguyễn Huy Thiệp đối với độc giả trong nước và trên thế
giới.
Kinh nghiệm sống phong phú của Nguyễn Huy Thiệp có được chủ yếu là nhờ đã
từng : “… trải nghiệm nhiều cuộc sống, đi liền với các nghề nghiệp: dạy học, làm
viên chức, vẽ tranh, bán quán ăn đặc sản, làm gốm…. Muốn mình phải trải qua
những vật lộn sinh tồn của mỗi nghề… để có vốn sống thực đầy ắp cho nghề
viết”[31]. Nhờ làm đủ nghề để có vốn sống phục vụ cho việc viết văn, nên tài năng
của ông càng được mài dũa sắc bén. Với lối viết mang nhiều yếu tố mới, phong phú,
đa dạng nên truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp thể hiện được nguồn nội lực lớn
GVHD: TS. Hà Thanh Vân
SVTH: Lê Thị Thu Hằng
2
lao về tư duy nghệ thuật trong những tìm tòi, thể nghiệm nhằm tạo ra những tác
phẩm có tính khai phá, đặc biệt là thể loại văn học sử. Tuy còn nhiều ý kiến trái
chiều về cách viết như muốn “đảo lộn lịch sử” của ông, nhưng theo cảm nhận riêng,
người viết lại có một cảm giác rất thú vị và bị lôi cuốn khi đọc về mảng truyện ngắn
lịch sử này.
Chính bằng sự yêu thích đối với tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp đã thôi thúc
người viết quyết định đi sâu nghiên cứu và tìm hiểu về truyện ngắn của ông, với đề
tài “Nhân vật lịch sử và dã sử trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp” để viết khóa
luận tốt nghiệp. Hy vọng với đề tài này, con đường Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp sẽ có
thêm một dấu chân mới.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Khóa luận tập trung tìm hiểu những tuyến nhân vật chủ yếu trong “Nhân vật lịch
sử và dã sử trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp” một cách tương đối hệ thống,
toàn diện, qua đó khẳng định cái nhìn đa chiều, mới mẻ, táo bạo của Nguyễn Huy
Thiệp về con người thông qua hệ thống nhân vật phong phú, đa dạng.
Thông qua nghệ thuật xây dựng nhân vật tiêu biểu của ông, người viết sẽ nhấn
mạnh một lần nữa tài năng của “ông vua” truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
Qua khóa luận này, người viết mong muốn sẽ đem đến một cái nhìn bao quát về
các sáng tác truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, những đóng góp của ông cho nền
văn học nước nhà đồng thời làm nổi bật lên tuyến nhân vật lịch sử và dã sử được
hiện lên rất sáng tạo, hấp dẫn dưới ngòi bút của ông. Người viết hy vọng, luận văn
này sẽ góp phần làm cho bức tranh về Nguyễn Huy Thiệp được hoàn chỉnh hơn và
sinh động hơn.
3. Lịch sử vấn đề
Hai mươi năm trước, vào thời kỳ đổi mới, thời kỳ đã làm hồi sinh đất nước, hồi
sinh con người và văn học cũng từ đó mà hồi sinh với tất cả sự sâu sắc, phức tạp,
GVHD: TS. Hà Thanh Vân
SVTH: Lê Thị Thu Hằng
3
toàn diện, đa dạng, phong phú của nó đã kết tinh nên “hiện tượng” Nguyễn Huy
Thiệp.
Sự xuất hiện của ông trên văn đàn đã gây chấn động lớn trong giới văn chương
và người đọc, nhất là khi ông in Tướng về hưu, Nguyễn Khải đã phải kêu lên rằng
“Nó đã viết đến thế này thì mình còn gì để viết nữa đây?”[39], khi dư luận vẫn đang
còn xôn xao, bàn tán về truyện ngắn này thì liên tiếp ông trình làng Những ngọn gió
Hua Tát, Con gái thủy thần, Không có vua, Giọt máu, Vàng lửa, Kiếm sắc, Phẩm
tiết… . Không chỉ viết truyện ngắn, Nguyễn Huy Thiệp còn viết: Kịch, tiểu thuyết
và tiểu luận văn chương. Dư luận lúc bấy giờ thực sự sôi sục khi tranh nhau tìm đọc
truyện của ông, đọc rồi thì lại đưa ra bàn tán, bình phẩm. Cũng không quá khi nói
chính Nguyễn Huy Thiệp là người “nạp điện” cho nền văn học lúc bấy giờ, khi giới
văn đàn đã thực sự khởi sắc hẳn sau khi ông xuất hiện. Các ý kiến xung quanh “hiện
tượng” Nguyễn Huy Thiệp từ lúc đó tới nay đã trải qua hơn hai thập kỉ thực sự rất
nhiều, phải tính đến con số hàng trăm, đó còn chưa kể đến một lượng các luận văn
đại học, sau đại học trực tiếp lấy sáng tác của ông làm để tài nghiên cứu và chắc hẳn
con số này sẽ còn tăng nhiều hơn.
Các ý kiến xung quanh Nguyễn Huy Thiệp cũng như truyện ngắn của ông được
đăng rất nhiều trên báo chí khắp nơi gần hai mươi năm qua. Người viết đã dựa vào
cuốn sách Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp của Phạm Xuân Nguyên sưu tầm và biên soạn
(đây là cuốn sách tập hợp khá nhiều bài viết về Nguyễn Huy Thiệp, ước tính là một
phần ba bài viết đã đăng trên báo chí) để liệt kê ra phần lớn những nhận định, ý kiến
có liên quan đến “Nhân vật lịch sử và dã sử” của ông, còn lại thì sẽ lấy từ những tư
liệu bên ngoài.
3.1. Ý kiến, nhận định về nội dung, hình thức có liên quan đến nhân vật lịch
sử và dã sử trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
Trong “Bàn thêm về truyện ngắn Vàng Lửa của Nguyễn Huy Thiệp”, Văn Giá
nhận định: “…nhân vật của anh là những ẩn dụ đa nghĩa. Đặng Phú Lân (Kiếm sắc),
GVHD: TS. Hà Thanh Vân
SVTH: Lê Thị Thu Hằng
4
Phăng (Vàng lửa)… đều theo tinh thần ấy. Đó chính là mạch ngầm của những ý
tưởng. Đó cũng chính là những giả định - biểu hiện của những sự nghiền ngẫm chưa
xong - mà tác giả có ý đồ tung ra trước bạn đọc”[18; 206]. Theo nhận định của Văn
Giá, mỗi nhân vật dã sử của Nguyễn Huy Thiệp đều ẩn chứa nhiều tầng ý nghĩa,
thông qua đó nhà văn muốn gửi đến cho độc giả những suy tư và cảm nghĩ chủ quan
của mình.
Đào Duy Hiệp đã nhận định về Hồ Xuân Hương trong “Đọc Chút Thoáng Xuân
Hương”: “Hồ Xuân Hương hoàn toàn vắng bóng với tư cách là hình tượng nhân
vật. Bà chỉ bắt đầu xuất hiện trong suy nghĩ so sánh của Tổng Cóc, trước các đồ vật
mang nhiều dấu vết từ con người cũng như từ bàn tay nàng làm ra…., xuất hiện qua
cái nhìn ngắm của Tổng Cóc”[18; 76, 79]. Như vậy trong truyện ngắn Chút thoáng
Xuân Hương, Hồ Xuân Hương không xuất hiện trực tiếp mà sẽ xuất hiện thông qua
cái nhìn của Tổng Cóc, từ đó người đọc sẽ nhìn thấy nàng Hương qua cái nhìn của
người khác sẽ như thế nào, từ đó rút ra được cảm nhận của bản thân về nhân cách
của cả hai nhân vật.
Trong “Có nghệ thuật Ba-Rốc trong các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp
hay không?” Thái Hòa, giảng viên Đại học Sư phạm Hà Nội đã nhận định rằng:
“Tất cả những trò bàn luận của lũ chúng ta đều vô nghĩa hết. Thiên nhiên không hề
dối trá” (Chút thoáng Xuân Hương). Suy cho cùng đó là chân lý, bởi vì thiên nhiên
chứa trong mình nó toàn bộ các quy luật, trong đó có những quy luật sinh tồn của
con người…”. Thái Hòa còn nhận thấy nhân vật trong truyện ngắn lịch sử của
Nguyễn Huy Thiệp rất lương thiện, rất đẹp về tâm hồn, đại diện là Nguyễn Du và
Hồ Xuân Hương: “Nguyễn Du giàu lòng thương người, nhưng lòng thương ấy
phỏng có ích gì cho cộng đồng, ngoài bộ mặt nhàu nát như chính bầu tâm sự nhàu
nát tả tơi của ông…, cái Đẹp lắng sâu vào bên trong tâm hồn, hòa vào cái tự
nhiên… những tâm hồn đẹp của những người đã từng lăn lộn quằn quại trong cuộc
đời như Xuân Hương, Nguyễn Du. Dưới ngòi bút của nhà văn thì chỉ có hai hạng
người đẹp, đó là những người ngây thơ rất gần gũi với bản sắc tự nhiên, chưa hề bị
GVHD: TS. Hà Thanh Vân
SVTH: Lê Thị Thu Hằng
5
những bụi bặm của cuộc đời làm cho vẩn đục, còn loại người thứ hai đã từng nếm
trải những thất bại đau đớn trong đời người, được cuộc đời rửa sạch trở nên trong
trẻo, thanh cao. Và trên hết cả là cái đẹp của thiên nhiên, một thiên nhiên hài hòa
rộng lượng… trong cảnh rừng mùa xuân, trong suối êm dịu, ánh trăng lộng lẫy
trong vườn chè của tri phủ Vĩnh Tường”[18; 100, 101, 102].
Hai nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Mai Xuân và Trương Hồng Quang đã chỉ ra
kết cấu truyện ngắn Vàng lửa trong “Vàng lửa của Nguyễn Huy Thiệp “triết học
lịch sử” hay là “văn xuôi nghệ thuật”?”: “Kết cấu truyện ngắn Vàng lửa trên đại
thể theo chúng tôi gồm có bốn phần: Phần một, có thể gọi là phần dẫn chuyện, thuật
lại việc người kể chuyện ở ngôi thứ nhất đã có được các “tư liệu cổ” ra sao: Chi tiết
đáng lưu ý nhất ở đây là nhận xét của nhân vật Quách Ngọc Minh rằng hình ảnh
“người trẻ tuổi trong quán trong trẻo lạ lùng, tâm hồn sạch như nước núi ra” mà
người kể chuyện ở ngôi thứ nhất đã xây dựng nên một cách tiên nghiệm về Nguyễn
Du là “không ra gì”. Phần hai, phần chiếm một dung lượng khá lớn trong truyện,
bao gồm các trích đoạn bút kí của Phăng. Tuy nhiên phải tới phần ba, phần bút ký
của người Bồ Đào Nha, hành động thực tế của truyện về chủ đề Vàng lửa mới bắt
đầu được triển khai. Phần bốn, phần kết thúc với ba đoạn kết giả định của người kể
chuyện ở ngôi thứ nhất, nói theo một khái niệm thông dụng, chính là sự “mở nút”
của toàn bộ hành động truyện”[18; 210].
Hai nhà nghiên cứu văn học trên đã đồng ý với tác giả bài “Về một cách hiểu
truyện ngắn Vàng lửa” (Văn nghệ, số ra ngày 30/7/1988) rằng : “Nhân vật Phăng
là một thành công của Nguyễn Huy Thiệp”, khi xin được nói phỏng theo Mark là
Phăng đã làm cho tác giả bài “Về truyện ngắn Vàng lửa”… phải “khiêu vũ bằng
giai điệu chính mình”[18; 218]. Điều này có nghĩa là Nguyễn Huy Thiệp đã rất
thành công khi xây dựng nhân vật Phăng và nhân vật này đã truyền tải được nhiều
thông điệp của nhà văn đến cho người đọc.
PGS.TS Đặng Anh Đào với bài viết về “Kiếp luân hồi của Nguyễn Trãi qua
Nguyễn Thị Lộ” đã nói lên được nỗi cô đơn trong bản thân nhân vật lịch sử và dã
GVHD: TS. Hà Thanh Vân
SVTH: Lê Thị Thu Hằng
6
sử của Nguyễn Huy Thiệp: “… mối ám ảnh về sự cô đơn của bản thân nhân vật.
Nguyễn Trãi, nhân vật lịch sử, có thể đã đơn độc từ trước đây hơn 500 năm: Nếu
không, ông không bị hãm hại một cách bi thảm như vậy. Nhưng với Nguyễn Thị Lộ
lần đầu tiên Nguyễn Trãi được tái sinh như một con người hiện tại, bởi ý thức về sự
cô đơn chỉ phát hiện đầy đủ với con người hiện đại, đặc biệt ở Việt Nam. Ý thức về
cá nhân, về sự khác biệt với “bầy đàn” làm phát sinh cảm giác cô đơn ở Nguyễn
Trãi đã nhập ông vào thế kỷ chúng ta”[18; 271]. Như vậy, đọc Nguyễn Thị Lộ
chúng ta sẽ nhận ra được cái cô đơn của nhân vật Nguyễn Trãi, ông luôn cô đơn
ngay khi ở giữa đồng loại của mình. Dùng chuyện ngày xưa để nói chuyện ngày nay
là cách mà nhà văn Nguyễn Huy Thiệp truyền tải những suy nghĩ của mình đến cho
người đọc, tư duy “bầy đàn” ở đây mang ý nghĩa là con người chúng ta không dám
sống theo cách của mình, không dám sống cho mình mà chỉ chăm chăm nhìn những
người xung quanh để sống cho giống với họ, bởi chúng ta sợ bị chú ý, sợ bị xăm
xoi. Từ đó nhà văn muốn người đọc hiểu rằng: Mỗi con người là một cá thể khác
biệt, tư duy và ước muốn cũng khác nhau, chính vì thế hãy sống cho bản thân mình
chứ đừng sống cho thiên hạ, đồng thời cũng đừng xăm xoi chỉ trích những người có
suy nghĩ khác với mình, bởi họ cũng giống như bạn đều có chính kiến riêng của bản
thân mà thôi.
Nghiên cứu sinh Nguyễn Thị Tuyết Nhung, khoa Việt Nam học (Đại Học Sư
Phạm Hà Nội) trong “Nguyễn Huy Thiệp - hợp lưu giữa nguồn mạch dân gian và
tinh thần hiện đại” đã viết: “Những nhân vật lịch sử như Quang Trung, Nguyễn
Du, Nguyễn Ánh, Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Đề Thám… hiện lên dưới ngòi
bút nhà văn cũng không phải theo những chuẩn mực, những quy ước thẩm mĩ
truyền thống. Họ xuất hiện thuần nhất với tư cách số phận của một con người, một
cá thể cô đơn được lịch sử “chọn lựa” và bị cuốn vào vòng quay của định mệnh
nghiệt ngã. Qua những nhân vật đó, dường như tác giả muốn đặt ra những câu hỏi
về “tính người” chân chính, về thân phận con người trong mối quan hệ với lịch sử,
về quyền lực trong mối quan hệ với Tình yêu và cái Đẹp…”[32]. Từ nhận định của
Nghiên cứu sinh Nguyễn Thị Tuyết Nhung, người viết rút ra được: Nhân vật lịch sử
GVHD: TS. Hà Thanh Vân
SVTH: Lê Thị Thu Hằng
7
trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp không còn đóng vai trò lịch sử của họ
nữa, mà hiện tại họ được đưa vào làm nhân vật trong tác phẩm văn học với tư cách
là một con người bình thường, sau đó nhà văn cho họ sống để hành động với những
cảm xúc của con người bằng da bằng thịt. Rồi thông qua những nhân vật đó, nhà
văn sẽ truyền đạt những suy nghĩ của mình về “tính người” chân chính, về thân
phận con người trong mối quan hệ với lịch sử, về quyền lực trong mối quan hệ với
tình yêu và cái đẹp.
3.2. Ý kiến, nhận định về nghệ thuật có liên quan đến nhân vật lịch sử và dã
sử trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
Trong “Có nghệ thuật Ba-Rốc trong các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp
hay không?”, Thái Hòa, giảng viên Đại học Sư phạm Hà Nội có phân tích: “Cấu
trúc nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp dựa trên hai mảng thực và ảo,
theo tỷ lệ phân phối không đồng đều, xen kẽ nhau, chuyển hóa đột ngột, bất ngờ,
nhiều ý nghĩa…, có những chi tiết chuyển hóa từ thực đến ảo, rồi từ ảo đến thực:
cảnh bốc mộ Vinh Hoa (Phẩm tiết)…, có những chi tiết được sắp xếp trong mạch
ngầm của văn bản và sự liên kết… đã phát động một trường liên tưởng rộng lớn về
một con người, một xã hội xưa (Chút thoáng Xuân Hương)”[18; 97]. Như vậy,
trong cảnh bốc mộ Vinh Hoa (Phẩm tiết), người đọc có thể cảm nhận được những
chi tiết ảo mà như thực, bởi Vinh Hoa là nhân vật ảo, còn cảnh bốc mộ lại được nhà
văn miêu tả rất thực. Hay khi đọc Chút thoáng Xuân Hương, người đọc sẽ cảm nhận
được không khí tù đọng của làng quê cũng như cuộc sống của những con người
trong xã hội phong kiến.
Trương Hồng Quang đã tập hợp “Mười lời bình về truyện ngắn “Phẩm tiết”
của Nguyễn Huy Thiệp”, trong những lời bình đó có lời bình về ngôn ngữ của vua
Gia Long rằng: “Ngôn ngữ của Gia Long, thứ ngôn ngữ dã sử, phi chính trường,
khác hẳn với ngôn ngữ mang tính cách điệu, được mô phỏng theo ngôn ngữ lưu
truyền trong chính sử (ví dụ ý “ta xuất thân áo vải, cờ đào… là trích từ Chiếu lên
ngôi, hay với câu mắng Ngô Khải “Mày nhờ phúc tổ, có ít của chìm, như cái đuôi
GVHD: TS. Hà Thanh Vân
SVTH: Lê Thị Thu Hằng
8
khô, tháng ba ngày tám mang ra gặm, tưởng xênh xang ư?” người đọc hiện đại
không thể không mỉm cười về chất biền ngẫu trong đó)”[18; 263]. Đọc truyện ngắn
của Nguyễn Huy Thiệp chúng ta sẽ nhận ra ngôn ngữ mà nhà văn cho nhân vật của
mình sử dụng rất bình dân, đôi khi còn thô tục. Nhưng chính điều đó đã làm nên sự
khác biệt giữa truyện ngắn của ông với các nhà văn cùng thời, bởi ngôn ngữ mà
nhân vật của ông sử dụng vô cùng gần gũi và chân thật.
Luận văn thạc sĩ ngữ văn của Phan Thanh Bình ở đại học Thái Nguyên đã viết về
“Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp” [8], ở đây
Phan Thanh Bình đã làm rất rõ ràng và có hệ thống những nét chủ yếu trong nghệ
thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, khẳng định được cái
mới mẻ, táo bạo của Nguyễn Huy Thiệp về con người qua cách xây dựng nhân vật
đồng thời khẳng định được tài năng của ông qua luận văn của mình.
Trên đây là những ý kiến, nhận định, những bài luận của các nhà phê bình,
nghiên cứu nói về những vấn đề có liên quan đến nhân vật lịch sử và dã sử trong
truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp mà người viết tìm được. Theo chúng ta thấy thì vấn
đề về “nhân vật lịch sử và dã sử” trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp đã được
các nhà nghiên cứu, phê bình bàn đến, nhưng chủ yếu nằm rải rác trong các nhận
định, đánh giá nên vẫn chưa được hệ thống và toàn diện. Chính vì vậy, trên cơ sở
gợi mở của những nhà nghiên cứu phê bình đi trước, người viết muốn làm rõ vấn đề
hơn, nhằm đánh bật lên được cái thế giới nhân vật mang màu sắc lịch sử cũng như
là dã sử dưới ngòi bút của Nguyễn Huy Thiệp, nhằm lý giải được sức hấp dẫn trong
nghệ thuật viết của “ông vua” truyện ngắn này.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu sẽ bắt đầu từ khái quát về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của
Nguyễn Huy Thiệp, sau đó sẽ đi vào phần chính đó là nhân vật lịch sử và dã sử
trong truyện ngắn của ông. Sau đó người viết sẽ đi tìm hiểu về nghệ thuật xây dựng
nhân vật của ông và cuối cùng sẽ đưa ra những kết luận mang tính khái quát nhất.
GVHD: TS. Hà Thanh Vân
SVTH: Lê Thị Thu Hằng
9
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp thống kê, hệ thống
Trên cơ sở dữ liệu về truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, người viết sẽ thống kê
các nhân vật và hệ thống lại vào từng tuyến nhân vật tương đương.
5.2. Phương pháp phân tích và tổng hợp
Dựa vào kết cấu đề cương ở trên, người viết sẽ đi tìm hiểu lần lượt cụ thể từng
truyện ngắn, phân tích những chi tiết cần thiết để làm sáng rõ nội dung đề tài. Sau
đó tách những cái riêng và tổng hợp ra những cái chung để hoàn thành bài luận tốt
nhất.
5.3. Phương pháp văn hóa lịch sử
Người viết sẽ dựa vào bối cảnh thời đại mà Nguyễn Huy Thiệp dựng nên để
làm sáng rõ phong cách viết truyện ngắn cũng như tuyến nhân vật đặc trưng giúp
ông lấy cảm hứng để viết tác phẩm.
5.4. Phương pháp so sánh
Tìm hiểu chung về các nhà văn có những sáng tác về nhân vật lịch sử và dã sử,
để làm rõ thêm nét phong cách viết đặc trưng của Nguyễn Huy Thiệp.
6. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
6.1. Đối tượng nghiên cứu
Nhân vật lịch sử và dã sử trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
6.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi luận văn, người viết không tham vọng tìm hiểu toàn bộ các tác
phẩm của Nguyễn Huy Thiệp mà chỉ tập trung khảo sát ở những truyện ngắn có
nhân vật đặc trưng cho từng mảng đề tài riêng biệt nằm trong cuốn “Truyện ngắn
GVHD: TS. Hà Thanh Vân
SVTH: Lê Thị Thu Hằng
10
Nguyễn Huy Thiệp” do Đỗ Thủy Tiên hiệu đính được Nhà xuất bản Văn hóa Sài
Gòn xuất bản năm 2007.
7. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo, phần nội dung được
triển khai thành 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung
Chương 2: Các kiểu nhân vật lịch sử và dã sử trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật lịch sử và dã sử trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp
GVHD: TS. Hà Thanh Vân
SVTH: Lê Thị Thu Hằng
11
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp và quá trình sáng tác
1.1.1. Cuộc đời
Nguyễn Huy Thiệp sinh ngày 29 tháng 4 năm 1950 tại Thanh Trì, Hà Nội.
Thuở nhỏ ông cùng gia đình lưu lạc khắp nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, từ Thái
Nguyên qua Phú Thọ, Vĩnh Phúc. Theo câu trả lời của ông trên báo Văn nghệ Thái
Nguyên thì nhà văn của chúng ta được sinh ra ở dọc đường, bởi khi ấy mẹ ông mang
bầu sắp đến ngày sinh mà vẫn phải đi buôn để mưu sinh. Với ông, nông thôn chính
là nơi lưu giữ những ký ức, là hồn cốt văn hóa dân tộc Việt Nam. Sống và trải
nghiệm với nó, ông nhận ra giá trị của mình và của các tầng lớp khác trong xã hội.
Chính vì thế mà những ấn tượng về đồng quê và người lao động đã để lại dấu ấn
đậm nét trong nhiều sáng tác của ông, như trong truyện ngắn Những bài học nông
thôn tác giả đã viết rằng: “Mẹ tôi là nông dân, còn tôi sinh ở nông thôn” [1; 140].
Nguyễn Huy Thiệp chịu ảnh hưởng giáo dục chủ yếu của ông ngoại, vốn là người
am hiểu nho học và mẹ, vốn là người sùng đạo Phật.
Năm 1960, ông cùng gia đình định cư ở xóm Cò, làng Khương Hạ, Hà Nội.
Năm 1970, ông tốt nghiệp khoa Sử Trường Đại học Sư phạm Hà Nội và lên
dạy học tại Tây Bắc đến năm 1980. Ký ức mười năm dạy học tại Sơn La đã để lại
trong tâm trí ông những dấu ấn rất đặc biệt nhưng cũng vô cùng giản dị và hồn
nhiên. Chính từ việc khắc phục khó khăn trong đi lại, sinh hoạt thường ngày kể cả
cái đói để hoàn thành tốt nhiệm vụ dạy học đã mang đến cho ông những trải
nghiệm, vốn sống mà sau này đã trở thành chất liệu rất đậm nét trong những trang
văn được mọi người yêu thích.
Năm 1980, ông trở về Hà Nội và đã có vợ. Vợ ông tên là Trang, là một cô giáo
dạy bộ môn lịch sử, cùng nghề nghiệp với chồng. Khi hai người cưới nhau, vợ ông
GVHD: TS. Hà Thanh Vân
SVTH: Lê Thị Thu Hằng
12
còn dạy học ở Bắc Ninh, ông thì vẫn đang ở tít tận miền rừng núi của Sơn La. Con
trai đầu lòng lên 3 tuổi Nguyễn Huy Thiệp từ rừng núi trở về, ông bỏ nghề dạy học,
phiêu bạt cùng số phận với nhiều công việc khác nhau như làm công chức ở Cục
xuất bản Bộ Giáo dục, Công ty Sách và Thiết bị Giáo dục. Sau đó, ông làm việc tại
Công ty Kỹ thuật trắc địa bản đồ, Cục Bản đồ cho đến khi về hưu.
Sự nghiệp cầm bút của ông bắt đầu khi nền văn học nước nhà đang chuyển
mình đổi mới. Ông cho ra mắt độc giả tác phẩm đầu tiên khi đã 36 tuổi, lúc này ông
đã có với vợ hai mặt con, người con trưởng đã hơn mười tuổi. Sáng tác của ông
gồm nhiều thể loại như truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch, thơ, tiểu luận, phê bình văn
học. Đến nay ông vẫn sống cùng gia đình tại căn nhà số 71 Bùi Xương Trạch,
Khương Đình, Hà Nội.
Sau 30 năm cầm bút cống hiến cho sự nghiệp văn chương, Nguyễn Huy Thiệp
đã quyết định dừng bút vào cuối năm 2014.
1.1.2. Quá trình sáng tác
Nguyễn Huy Thiệp bắt đầu sự nghiệp sáng tác khá muộn. Mở đầu là một vài
truyện ngắn được đăng trên báo Văn nghệ năm 1986, lúc bấy giờ tác phẩm của ông
chưa gây được tiếng vang trong dư luận. Chỉ đến khi Tướng về hưu được ra mắt bạn
đọc năm 1987, và sau đó chùm truyện Kiếm sắc – Vàng lửa – Phẩm tiết liên tiếp
được xuất hiện vào tháng 4 năm 1988 thì Nguyễn Huy Thiệp mới thực sự là cái tên
“nổi đình đám” trong làng văn chương lúc bấy giờ.
Gần 40 tuổi Nguyễn Huy Thiệp mới cho in truyện ngắn đầu tiên, nhưng chỉ
sau vài năm ông đã trở thành một “hiện tượng” khiến văn đàn phải xôn xao. Ngay
cả một nhà văn tầm cỡ như Nguyễn Khải, sau khi đọc Tướng về hưu còn hoảng sợ
nói rằng: “Tôi cầm bút cả đời, nhưng may ra tôi viết được một phần ba truyện như
vậy” [36].
GVHD: TS. Hà Thanh Vân
SVTH: Lê Thị Thu Hằng
13
Sở trường của Nguyễn Huy Thiệp là viết truyện ngắn. Mảng đề tài mà ông viết
rất đa dạng gồm: Lịch sử và văn học, hơi hướng huyền thoại và cổ tích, xã hội Việt
Nam đương đại, xã hội làng quê và những người lao động. Hơn 40 truyện ngắn của
ông chủ yếu được in trong các tập: Những ngọn gió Hua Tát (Văn Hóa, Hà Nội,
1989), Con gái thủy thần (Hội Nhà Văn, Hà Nội, 1993), Xuân Hồng (Tân Thư,
California, 1994), Như những ngọn gió (Văn Học, Hà Nội, 1995), Truyện ngắn
chọn lọc Nguyễn Huy Thiệp (Hội Nhà Văn, Hà Nội, 1995), Thương cả cho đời bạc
(Văn Hóa - Thông Tin, Hà Nội, 2000), Mưa Nhã Nam (Văn Học, Hà Nội, 2001),
Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp (Phụ Nữ, Hà Nội, 2001), Truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp (Nxb Trẻ, 2003), Những truyện huyền thoại và lịch sử (Nxb Hội
nhà văn, 2004), Những truyện thành thị (Nxb Hội nhà văn, 2004), Những truyện
nông thôn (Nxb Hội nhà văn, 2004), Những truyện danh nhân (Nxb Hội nhà văn,
2004), Những truyện tình yêu (Nxb Hội nhà văn, 2004), Cánh buồm nâu thuở ấy
(Hội nhà văn, 2005), Tình yêu, tội ác và trừng phạt (Tp.HCM, 2012), Hạc vừa bay
vừa kêu thảng thốt (Tp. HCM, 2013).
Ngoài sáng tác truyện ngắn, tác giả “Tướng về hưu” còn viết tiểu thuyết và
thơ. Tiểu thuyết của ông viết số lượng còn ít và cũng chưa nổi trội bằng mảng
truyện ngắn, gồm một số tác phẩm như: Tiểu Long Nữ (Nhà xuất bản Công an nhân
dân, 1996), Tuổi hai mươi yêu dấu (Nhà xuất bản E’ditions de l’Aube, 2002), Gạ
tình lấy điểm (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2007). Kịch của Nguyễn Huy Thiệp được
tập trung trong các tập: Suối nhỏ êm dịu (Báo Văn nghệ, California, 2001), Mổ nhà
văn (Trang mạng Talawas, Thích Thiện Ngân), Tuyển tập kịch Nguyễn Huy Thiệp
(Nxb Trẻ, 2003) với những vở tiêu biểu như: Xuân hồng, Còn lại tình yêu, Gia đình,
Nhà tiên tri, Hoa Sen nở ngày 29 tháng 4. Trong cuốn kịch bản chèo Vong Bướm
(Nxb Nhã Nam, 2012) gồm có hai tác phẩm là: Vong Bướm và Truyền thuyết tìm
vua, đây là cuốn kịch bản chèo đầu tiên mà Nguyễn Huy Thiệp viết.
Nguyễn Huy Thiệp sáng tác thơ nhiều, tuy chưa có tập thơ nào được xuất bản
nhưng thơ xuất hiện khá nhiều trong những truyện ngắn của ông. Một số tác phẩm
GVHD: TS. Hà Thanh Vân
SVTH: Lê Thị Thu Hằng
- Xem thêm -