CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN
CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Tổng quan về tài sản của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm, phân loại doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn
định được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện
các hoạt động kinh doanh.
Theo Luật doanh nghiệp 2005, kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc
tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung
ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Như vậy doanh nghiệp là tổ chức
kinh tế vị lợi, mặc dù thực tế một số tổ chức doanh nghiệp có các hoạt động không
hoàn toàn nhằm mục tiêu lợi nhuận.
1.1.1.2. Phân loại doanh nghiệp
Căn cứ vào Luật doanh nghiệp 2005 thì hình thức pháp lý của các loại hình
doanh nghiệp ở Việt Nam bao gồm:
Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) (bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên): là doanh nghiệp
mà các thành viên trong công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản
khác của công ty trong phạm vi vốn điều lệ của công ty.
-
-
-
Công ty có tối đa 50 thành viên trong suốt quá trình hoạt động.
Công ty có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp chứng nhận đăng kí kinh
doanh. Chủ sở hữu công ty và công ty là hai thực thể pháp lý riêng biệt. Trước
pháp luật, công ty là pháp nhân, chủ sở hữu công ty là thể nhân với các quyền
và nghĩa vụ tương ứng với quyền sở hữu công ty.
Thành viên của công ty TNHH chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ
tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn cam kết góp vào doanh
nghiệp.
Công ty TNHH không được quyền phát hành cổ phần để huy động vốn.
Các thành viên công ty TNHH khi muốn chuyển nhượng vốn góp trước hết phải
ưu tiên cho các thành viên khác của công ty.
Trên bảng hiệu hóa đơn chứng từ và các giấy tờ giao dịch khách của công ty
phải ghi rõ tên công ty kèm theo cụm từ “trách nhiệm hữu hạn”.
Công ty TNHH gồm hai loại hình:
1
Công ty TNHH một thành viên là tổ chức kinh doanh do một (cá nhận) hoặc
một tổ chức làm chủ sở hữu. Chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm hữu hạn về các
khoản nợ và nghĩa vụ tài sản của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty.
Công ty TNHH 1 thành viên không được quyền phát hành cổ phần ra công
chúng để tăng vốn điều lệ. Đối với công ty TNHH một thành viên là tổ chức kinh
doanh do cá nhân làm chủ sở hữu và tự chịu trách nhiệm bằng các khoản nợ và nghĩa
vụ tài sản của công ty bằng số vốn điều lệ. Công ty TNHH một thành viên là tổ chức
kinh doanh do một tổ chức khác làm chủ sở hữu và chịu trách nhiệm các khoản nợ,
nghĩa vụ tài sản của công ty bằng số vốn điều lệ.
Công ty TNHH hai thành viên trở lên là loại hình công ty TNHH mà thành viên
công ty có từ hai người trở lên, số lượng thành viên không quá 50 người.
Công ty cổ phần là doanh nghiệp mà vốn điều lệ của công ty được chia thành
nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cá nhân hay tổ chức sở hữu cổ phần của doanh
nghiệp được gọi là cổ đông và chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài
sản khách trong phạm vi số vố đã góp vào doanh nghiệp
Nguyên tắc cơ cấu:
Công ty cổ phần là một thể chế kinh doanh, một loại hình doanh nghiệp hình
thành, tồn tại và phát triển bởi sự góp vốn của nhiều cổ đông. Trong công ty cổ phần,
số vốn điều lệ của công ty được chia nhỏ thành các phần bằng nhau gọi là cổ phần.
Các cá nhân hay tổ chức sở hữu cổ phần được gọi là cổ đông. Cổ đông được cấp một
giấy chứng nhận sở hữu cổ phần gọi là cổ phiếu. Chỉ có công ty cổ phần mới được
phát hành cổ phiếu. Như vậy, cổ phiếu chính là một bằng chứng xác nhận quyền sở
hữu của một cổ đông đối với một Công ty Cổ phần và cổ đông là người có cổ phần thể
hiện bằng cổ phiếu. Công ty cổ phần là một trong loại hình công ty căn bản tồn tại trên
thị trường và nhất là để niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Bộ máy các công ty cổ phần được cơ cấu theo luật pháp và điều lệ công ty với
nguyên tắc cơ cấu nhằm đảm bảo tính chuẩn mực, minh bạch và hoạt động có hiệu quả.
Công ty Cổ phần phải có Đại hội đồng Cổ đông, Hội đồng Quản trị và Ban
Điều hành. Đối với công ty cổ phần có trên mười một cổ đông là cá nhân hoặc tổ chức
sở hữu trên 50% tổng số cổ phần của công ty phải có Ban Kiểm soát.
Cơ cấu thể chế:
Khái niệm công ty cổ phần được xem đồng nghĩa với công ty đại chúng bởi cấu
trúc, mục tiêu và tính chất của nó. Quy định trong một số bộ luật, trong đó có Luật
Việt Nam ghi rõ công ty cổ phần cần có tối thiểu 3 cổ đông, bất kể đó là pháp
nhân hay thể nhân. Tuy nhiên, các quy định đối với một công ty niêm yết thường yêu
2
Thang Long University Library
cầu công ty phải có số cổ đông lớn hơn nhiều. Các quy định cụ thể của cả 6 sàn chứng
khoán Hoa Kỳ đều cho thấy điều này, từ các sàn sơ khai như Pink
Sheet, OTCBB,NASDAQ, NYSE; trong đó OTCBB yêu cầu công ty ít nhất có 40 cổ
đông, còn NYSE lại yêu cầu công ty phải có ít nhất 2.000 cổ đông.
Cơ quan tối cao của các công ty cổ phần là Đại hội đồng Cổ đông. Các cổ đông
sẽ tiến hành bầu ra Hội đồng Quản trị với Chủ tịch Hội đồng Quản trị, các Phó Chủ
tịch và thành viên (kiêm nhiệm và không kiêm nhiệm). Sau đó, Hội đồng quản trị sẽ
tiến hành thuê, bổ nhiệm Giám đốc (Tổng giám đốc) và/ hoặc Giám đốc điều hành.
Hội đồng này cũng có thể tiến hành thuê, bổ nhiệm các Phó Giám đốc (Phó Tổng
Giám đốc) hoặc ủy quyền cho Ban Giám đốc (công ty) làm việc này.
Quan hệ giữa Hội đồng Quản trị và Ban giám đốc là quan hệ quản trị công ty.
Quan hệ giữa Ban giám đốc và cấp dưới, người lao động nói chung là quan hệ quản lý.
Xung quanh vấn đề quan hệ giữa các chủ sở hữu là cổ đông của công ty và
những người quản lý thông thường cần được tách bạch và kể cả các đại cổ đông cũng
không nhất nhất là được hay có thể tham gia quản lý công ty. Để đảm bảo khách quan,
nhiều công ty đã quy định chặt chẽ về điều này.
Ưu điểm:
-
-
Nhà đầu tư chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn tương ứng với tỷ lệ góp vốn trong
công ty;
Quy mô hoạt động lớn và khả năng mở rộng kinh doanh dễ dàng từ việc huy
động vốn cổ phần;
Nhà đầu tư có khả năng điều chuyển vốn đầu tư từ nơi này sang nơi khác, từ
lĩnh vực này sang lĩnh vực khác dễ dàng thông qua hình thức chuyển nhượng,
mua bán cổ phần;
Việc hoạt động của công ty đạt hiệu quả cao do tính độc lập giữa quản lý và sở
hữu.
Nhược điểm:
-
-
Mức thuế tương đối cao vì ngoài thuế mà công ty phải thực hiện nghĩa vụ với
ngân sách nhà nước, các cổ đông còn phải chịu thuế thu nhập bổ sung từ nguồn
cổ tức và lãi cổ phần theo quy định của luật pháp;
Chi phí cho việc thành lập doanh nghiệp khá tốn kém;
Khả năng bảo mật kinh doanh và tài chính bị hạn chế do công ty phải công khai
và báo cáo với các cổ đông;
Khả năng thay đổi phạm vi lĩnh vực kinh doanh cũng như trong hoạt động kinh
doanh không linh hoạt do phải tuân thủ theo những qui định trong Điều lệ của
3
công ty, ví dụ có trường hợp phải do Đại hội đồng Cổ đông của Công ty Cổ
phần quyết định.
Công ty hợp danh là doanh nghiệp trong đó có ít nhất hai thành viên là chủ sở
hữu của công ty, cùng kinh doanh dưới một cái tên chung (gọi là thành viên hợp danh).
Thành viên hợp danh phải là cá nhân và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của
mình về các nghĩa vụ của công ty. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các
khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
Tư cách pháp nhân của công ty hợp danh có kể từ ngày được cấp giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh.
Công ty hợp danh không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào. Như vậy
bản chất của công ty hợp danh là công ty trách nhiệm vô hạn. Chính vì vậy, luật pháp
hạn chế việc huy động vốn trong thị trường dưới hình thức phát hành các chứng khoán
(công cụ nợ).
Các thành viên hợp danh có quyền đại diện theo pháp luật và tổ chức điều hành
hoạt động kinh doanh hằng ngày của công ty. Mọi hạn chế đối với thành viên hợp
danh trong thực hiện công việc kinh doanh hằng ngày của công ty chỉ có hiệu lực đối
với bên thứ ba khi người đó được biết về hạn chế đó.
Trong điều hành hoạt động kinh doanh của công ty, thành viên hợp danh phân
công nhau đảm nhiệm các chức danh quản lý và kiểm soát công ty.
Công ty có thể mở một hoặc một số tài khoản tại ngân hàng. Hội đồng thành
viên chỉ định thành viên được ủy quyền gửi và rút tiền từ các tài khoản đó.
Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Mỗi cá
nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân.
Chủ doanh nghiệp tư nhân là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Chủ
doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định đối với tất cả hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp đồng thời có toàn quyền quyết định việc sử dụng lợi nhuận sau khi
đã nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật.
Chủ doanh nghiệp tư nhân có thể thuê người khác làm giám đốc để quản lý,
điều hành hoạt động kinh doanh.
4
Thang Long University Library
Doanh nghiệp tư nhân vẫn có mã số thuế, con dấu tròn doanh nghiệp và vẫn
được quyền in và phát hành các loại hóa đơn, thực hiện các chế độ kế toán hiện hành
theo luật doanh nghiệp.
Doanh nghiệp tư nhân không có điều lệ công ty.
Ưu điểm:
Doanh nghiệp tư nhân chỉ có một chủ sở hữu duy nhất nên người chủ sở hữu
này hoàn toàn chủ động trong việc quyết định bất cứ vấn đề liên quan đến hoạt động
kinh doanh.
Chế độ trách nhiệm vô hạn của chủ doanh nghiệp tư nhân tạo sự tin tưởng cho
đối tác, khách hàng và giúp cho doanh nghiệp ít chịu sự ràng buộc chặt chẽ bởi pháp
luật như các loại hình doanh nghiệp khác, các loại hình có quy mô lớn hơn.
Khuyết điểm:
Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân.
Do không có tư cách pháp nhân nên mức độ rủi ro của chủ doanh tư nhân cao,
chủ doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của doanh nghiệp
và của chủ doanh nghiệp chứ không giới hạn số vốn mà chủ doanh nghiệp đã đầu tư
vào doanh nghiệp.
Chủ doanh nghiệp tư nhân có thể trực tiếp hoặc thuê người khác quản lý, điều
hành hoạt động kinh doanh. Trường hợp thuê người khác làm Giám đốc quản lý doanh
nghiệp thì chủ doanh nghiệp tư nhân phải đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh và
vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.2 Tài sản của doanh nghiệp
1.1.2.1 Khái niệm tài sản của doanh nghiệp
Tài sản của doanh nghiệp là tất cả các nguồn lực có thực, hữu hình hoặc vô hình
gồm các vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản của doanh nghiệp tại một thời
điểm nhất định, có khả năng mang lại lợi ích cho doanh nghiệp đó.
1.1.2.2 Phân loại tài sản của doanh nghiệp
Tài sản của doanh nghiệp thường được chia thành hai loại: tài sản ngắn hạn và
tài sản dài hạn.
5
Tài sản ngắn hạn:
Tài sản ngắn hạn là những tài sản mà thời gian sử dụng, thu hồi luân chuyển
trong một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh. Tài sản ngắn hạn bao gồm:
Tiền và các khoản tương đương tiền. Tiền được hiểu là tiền mặt, tiền gửi ngân
hàng và tiền đang chuyển. Các khoản tương đương tiền là các khoản đầu tư ngắn hạn
không quá ba tháng, có khả năng chuyển đổi dễ dàng thành tiền và không có nhiều rủi
ro trong chuyển đổi thành tiền.
Tài sản tài chính ngắn hạn: bao gồm các khoản đầu tư chứng khoán có thời hạn
thu hồi dưới một năm hoặc trong một chu kỳ kinh doanh (tín phiếu kho bạc, kỳ phiếu
ngân hàng…) hoặc chứng khoản mua vào bán ra (cổ phiếu, trái phiếu) để kiếm lời và
các loại đầu tư tài chính khách không quá một năm.
Các khoản phải thu ngắn hạn: là các khoản phải thu ngắn hạn của khách hàng,
phải thu nội bộ ngắn hạn và các khoản phải thu ngắn hạn khác có thời hạn thu hồi hoặc
thanh toán dưới một năm.
Tồn kho: bao gồm vật tư, hàng hóa, sản phẩm, sản phẩm dở dang.
Tài sản ngắn hạn khác: bao gồm chi phí trả trước ngắn hạn, thuế GTGT được
khấu trừ, thuế và các khoản phải thu Nhà nước, tài sản ngắn hạn khác.
Tài sản dài hạn:
Tất cả các tài sản khách ngoài tài sản ngắn hạn được xếp vào loại tài sản dài
hạn. Tài sản dài hạn bao gồm các khoản phải thu dài hạn, tài sản cố định, bất động sản
đầu tư, các khoản tài sản chính dài hạn và các tài sản dài hạn khác.
Các khoản phải thu dài hạn: là các khoản phải thu dài hạn của khách hàng, phải
thu nội bộ dài hạn và các khoản phải thu dài hạn khách có thời hạn thu hồi hoặc thanh
toán trên một năm.
Bất động sản đầu tư: là những bất động sản, gồm: quyền sử dụng đất. nhà hoặc
một phần của nhà hoặc cả nhà và đất, cơ sở hạ tầng do người chủ sở hữu hoặc người đi
thuê tài sản theo hợp đồng thuê tài chính nắm giữ, nhằm mục đích thu lợi từ việc cho
thuê hoặc chờ tăng giá mà không phải để sử dụng trong sản xuất, cung cấp hàng hóa,
dịch vụ hay cho các mục đích quản lý hoặc bán trong kỳ hoạt động kinh doanh thông
thường.
6
Thang Long University Library
Một bất động sản đầu tư được ghi nhận là tài sản phải thỏa mãn đồng thời hai
điều kiện sau: chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai, và nguyên giá của bất
động sản đầu tư phải được xác định một cách đáng tin cậy.
Nguyên giá của bất động sản đầu tư bao gồm giá mua và các chi phí liên quan
trực tiếp như: phí dịch vụ tư vấn luật pháp liên quan, thuế trước bạ và các chi phí giao
dịch liên quan khác.
Tài sản cố định: là những tài sản có giá trị lớn, có thời gian sử dụng dài cho các
hoạt động của doanh nghiệp và phải thỏa mãn đồng thời tất cả các tiêu chuẩn sau:
-
Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản đó.
Có thời gian sử dụng từ 1 năm trở lên.
Có giá trị từ 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) trở lên.
Các doanh nghiệp đều cố gắng sao cho tài sản được đưa vào sử dụng hợp lý để
kiếm lợi cao nhất đồng thời luôn tìm các nguồn tài trợ, tang tài sản cố định hiện có là
một cách để mở rộng sản xuất kinh doanh cả về chất và lượng, đảm bảo các mục tiêu
mà doanh nghiệp đề ra. Tài sản cố định là tư liệu lao động quan trọng để tạo ra sản
phẩm sản xuất, đặc biệt là trong thời kỳ khoa học kỹ thuật công nghệ tiến bộ như ngày
nay, máy móc đang dần thay thế cho rất nhiều công việc mà trước đây cần có sức lao
động của con người. Điều này cho thấy việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định
sẽ góp phần đáng kể đem lại hiệu quả kinh tế cao cho các doanh nghiệp.
-
Trước hết nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ sẽ góp phần làm tăng doanh thu
cũng đồng thời tăng lợi nhuận. Do nâng cao hiệu quả sử dụng hiệu quả máy
móc thiết bị tức là máy móc thiết bị đã được tận dụng năng lực, TSCĐ được
trang bị hiện đại phù hợp đúng mục đích đã làm cho số lượng sản phẩm sản
xuất ra nhiều hơn, phong phú hơn như vậy doanh thu của doanh nghiệp sẽ tăng
theo. Doanh thu tăng lên kết hợp với chi phí sản xuất giảm do tiết kiệm được
nguyên, nhiên vật liệu và các chi phí quản lý khác đã làm cho lợi nhuận của
doanh nghiệp tăng lên so với trước kia.
-
Nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ sẽ nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn của doanh
nghiệp: Muốn có TSCĐ thì doanh nghiệp cần có vốn. Khi hiệu quả sử dụng
TSCĐ cao thì có nghĩa là doanh nghiệp đã làm cho đồng vốn đầu tư sử dụng có
hiệu quả và sẽ tạo cho doanh nghiệp một uy tín tốt để huy động vốn. Bên cạnh
đó khi hiệu qur sử dụng TSCĐ cao thì nhu cầu vốn cố định sẽ giảm đi, do đó sẽ
cần ít vốn hơn để đáp ứng nhu cầu kinh doanh nhất định, kế đó sẽ làm giảm chi
phí cho sử dụng nguồn vốn, tăng lợi thế cạnh tranh về chi phí. Việc tiết kiệm về
7
vốn nói chung và vốn cố định nói riêng là rất ý nghĩa trong điều kiện thiếu vốn
như hiện nay.
-
TSCĐ được sử dụng hiệu quả sẽ giúp cho doanh nghiệp bảo toàn và phát huy
vốn tốt nhất (đây là nghĩa vụ của doanh nghiệp để bảo vệ lợi ích của nhà nước
về vốn đã đầu tư, là điều kiện để doanh nghiệp tồn tại và phát triển, tăng thu
nhập cho người lao động và làm nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước) do tận dụng
được công suất máy móc, sắp xếp dây chuyền sản xuất hợp lý hơn, vấn đề khấu
hao TSCĐ, trích lập quỹ khấu hao... được tiến hành đúng đắn, chính xác.
-
Ngoài ra việc nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ còn tăng sức cạnh tranh cho
doanh nghiệp trên thị trường. Sức cạnh tranh của doanh nghiệp phụ thuộc vào
lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp trong đó có lợi thế về chi phí và tính khác
biệt của sản phẩm.
-
TSCĐ được sử dụng có hiệu quả làm cho khối lượng sản phẩm tạo ra tăng lên,
chất lượng sản phẩm cũng tăng do máy móc thiết bị có công nghệ hiện đại, sản
phẩm nhiều chủng loại đa dạng, phong phú đồng thời chi phí của doanh nghiệp
cũng giảm và như vậy tạo nên lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp.
TSCĐ được phân loại dựa trên các tiêu thức nhất định nhằm phục vụ cho những
yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. Có một số cách phân loại như:
-
Phân loại TSCĐ theo hình thái biểu hiện: Khi phân chia theo phương pháp này
thì toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành hai loại là TSCĐ hữu hình
và TSCĐ vô hình.
+ TSCĐ hữu hình là những tư liệu lao động chủ yếu có hình thái vật chất (từng
đơn vị tài sản có kết cấu độc lập hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài
sản liên kết với nhau để thực hiện một hay một số chức năng nhất định) thoả
mãn các tiêu chuẩn của TSCĐ hữu hình, tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh
nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu như nhà cửa, vật kiến trúc,
máy móc, thiết bị.. có thể thay đổi hình dạng, giá trị, bản chất trong quá trình
nâng cấp, sửa chữa, hay hao mòn dần theo thời gian.
+ TSCĐ vô hình là những tài sản không có hình thái vật chất, thể hiện một
lượng giá trị đã được đầu tư thoả mãn các tiêu chuẩn của tài sản cố định vô hình,
tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh, như một số chi phí liên quan trực tiếp
tới đất sử dụng; chi phí về quyền phát hành, bằng phát minh, bằng sáng chế,
bản quyền tác giả...
Phương pháp phân loại này giúp cho doanh nghiệp thấy được cơ cấu đầu tư vào
tài sản cố định theo hình thái biểu hiện. Phương pháp này cũng là căn cứ để quyết định
8
Thang Long University Library
đầu tư dài hạn hoặc điều chỉnh cơ cấu đầu tư cho phù hợp và có biện pháp quản lý phù
hợp với mỗi loại tài sản cố định.
-
Phân loại tài sản cố định theo mục đích sử dụng: Khi phân chia theo phương
pháp này thì toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành hai loại là TSCĐ
dùng cho mục đích kinh doanh và TSCĐ dùng cho mục đích phúc lợi, sự
nghiệp, an ninh, quốc phòng.
+ TSCĐ dùng cho mục đích kinh doanh là những tài sản cố định đang dùng trong
hoạt động sản xuất kinh doanh cơ bản và hoạt động sản xuất kinh doanh phụ
của doanh nghiệp.
+ TSCĐ dùng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp, an ninh, quốc phòng là những tài
sản cố định không mang tính chất sản xuất do doanh nghiệp quản lý và sử dụng
cho các hoạt động phúc lợi, sự nghiệp và các hoạt động đảm bảo an ninh, quốc
phòng.
Phương pháp phân loại này giúp cho doanh nghiệp thấy được kết cấu tài sản cố
định theo mục đích sử dụng. Từ đó tạo điều kiện thuận cho việc quản lý và tính khấu
hao TSCĐ có tính chất sản xuất, có biện pháp quản lý phù hợp với mỗi loại tài sản cố
định.
-
Phân loại TSCĐ theo tình hình sử dụng:
+ TSCĐ đang dùng
+ TSCĐ chưa cần dùng
+ TSCĐ không cần dùng và chờ thanh lý
Phương pháp phân loại này giúp cho doanh nghiệp nắm được tình hình tổng
quát của việc sử dụng TSCĐ trong doanh nghiệp. Trên cơ sở đó đề ra các biện pháp sử
dụng tối đa các TSCĐ hiện có trong doanh nghiệp, giải phóng nhanh các TSCĐ không
cần dùng và chờ thanh lý để thu hồi vốn.
1.2 Phân tích hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp
1.2.1 Khái niệm hiệu quả sử dụng tài sản
Hiệu quả được coi là một thuật ngữ để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện
các mục tiêu của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để có kết quả đó trong điều kiện
nhất định. Như vậy, hiệu quả phản ánh kết quả thực hiện các mục tiêu hành động trong
quan hệ với chi phí bỏ ra và hiệu quả được xem xét trong bối cảnh hay điều kiện nhất
định, đồng thời cũng được xem xét dưới quan điểm đánh giá của chủ thể nghiên cứu.
9
Các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường cạnh tranh như hiện nay
đều phải quan tâm tới hiệu quả kinh tế. Đó là cơ sở để doanh nghiệp có thể tồn tại và
phát triển.
Hiệu quả kinh tế được hiểu là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng
các nguồn lực của doanh nghiệp để đạt được các mục tiêu xác định trong quá trình sản
xuất – kinh doanh.
Mỗi doanh nghiệp tồn tại và phát triển vì nhiều mục tiêu khác nhau như: Tối đa
hoá lợi nhuận, tối đa hoá doanh thu, tối đa hoá hoạt động hữu ích của các nhà lãnh đạo
doanh nghiệp,… song tất cả các mục tiêu cụ thể đó đều nhằm mục tiêu bao trùm nhất
là tối đa hoá giá trị tài sản cho các chủ sở hữu. Để đạt được mục tiêu này, tất cả các
doanh nghiệp đều phải nỗ lực khai thác triệt để và sử dụng có hiệu quả tài sản của
mình.
Như vậy, hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp phản ánh trình độ, năng
lực khai thác và sử dụng tài sản của doanh nghiệp sao cho quá trình sản xuất - kinh
doanh tiến hành bình thường với hiệu quả kinh tế cao nhất.
1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản
-Hiệu suất sử dụng tổng tài sản:
Doanh thu thuần
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản =
=
Tổng tài sản bình quân trong kỳ
Trong đó: Tổng tài sản bình quân trong kỳ là bình quân số học của tổng tài sản
có ở đầu kỳ và cuối kỳ.
Chỉ tiêu này cho biết một đơn vị tài sản tạo ra được bao nhiêu đơn vị doanh thu
thuần. Chỉ tiêu này càng lớn hiệu quả sử dụng tài sản càng cao.
- Hệ số sinh lợi tổng tài sản:
Lợi nhuận trước thuế và lãi vay
Hệ số sinh lợi tổng tài sản (ROA) =
Tổng tài sản bình quân trong kỳ
Hệ số sinh lợi tổng tài sản phản ánh một đơn vị tài sản tạo ra bao nhiêu đơn vị
lợi nhuận trước thuế và lãi vay. Chỉ tiêu này được sử dụng để đo hiệu quả của việc tài
10
Thang Long University Library
trợ cho các nhu cầu về tài sản của doanh nghiệp bằng vốn chủ sở hữu và vốn vay. Nếu
chỉ tiêu này lớn hơn chi phí nợ thì đầu tư bằng nợ có lợi cho doanh nghiệp hơn đầu tư
bằng vốn chủ.
- Hiệu suất sử dụng tài sản ngắn hạn
Doanh thu thuần
Hiệu suất sử dụng TSNH =
TSNH bình quân trong kỳ
Trong đó: TSNH bình quân trong kỳ là bình quân số học của TSNH có ở đầu kỳ
và cuối kỳ.
Chỉ tiêu này cho biết mỗi đơn vị giá trị TSNH sử dụng trong kỳ đem lại bao
nhiêu đơn vị doanh thu thuần. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng TSNH
càng cao.
- Hệ số sinh lợi tài sản ngắn hạn
Lợi nhuận sau thuế
Hệ số sinh lợi TSNH =
TSNH bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lợi của TSNH. Nó cho biết mỗi đơn vị giá
trị TSNH có trong kỳ đem lại bao nhiêu đơn vị lợi nhuận sau thuế.
- Hiệu suất sử dụng tài sản dài hạn
Doanh thu thuần
Hiệu suất sử dụng TSDH =
TSDH bình quân trong kỳ
Trong đó: TSDH bình quân trong kỳ là bình quân số học của TSDH có ở đầu kỳ
và cuối kỳ.
Chỉ tiêu này cho biết một đơn vị giá trị TSDH trong kỳ tạo ra bao nhiêu đơn vị
doanh thu. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng TSDH càng cao.
11
- Hệ số sinh lợi tài sản dài hạn
Lợi nhuận sau thuế
Hệ số sinh lợi TSDH =
TSDH bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lợi của TSDH. Nó cho biết mỗi đơn vị giá
trị TSDH có trong kỳ đem lại bao nhiêu đơn vị lợi nhuận sau thuế.
1.3 Các nhân tố ảnh hƣởng đến hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp
Để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản, ngoài việc tính toán và phân tích các
chỉ tiêu trên, doanh nghiệp cũng cần hiểu rõ các nhân tố tác động tới hiệu quả sử
dụng tài sản. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp sẽ đưa ra các chiến lược và kế hoạch phù
hợp với từng giai đoạn để có thể phát huy hiệu quả sử dụng tài sản một cách tối đa
giúp cho doanh nghiệp đạt được những mục tiêu đã đề ra.
1.3.1 Các nhân tố chủ quan
1.3.1.1 Trình độ cán bộ quản lý và nhân viên
Nhân tố con người là nhân tố quan trọng trong bất cứ hoạt động nào. Ngoài ra,
nhân tố con người còn đóng vai trò quyết định đến hiệu quả hoạt động nói chung và
hiệu quả sử dụng tài sản nói riêng, đặc biệt là trình độ cán bộ quản lý và nhân viên.
Về trình độ cán bộ quản lý:
Các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường, trình độ của cán bộ quản
lý doanh nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển doanh
nghiệp. Nhiệm vụ đầu tiên của cán bộ quản lý doanh nghiệp là xây dựng cho doanh
nghiệp một chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp. Nếu xây dựng được một
chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp hợp lý (phù hợp với môi trường kinh
doanh, phù hợp với khả năng của doanh nghiệp) sẽ là cơ sở là định hướng tốt để doanh
nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Ngoài ra, cán bộ quản lý còn phải xây dựng các kế hoạch kinh doanh, các
phương án kinh doanh và kế hoạch hoá các hoạt động của doanh nghiệp trên cơ sở
chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp đã xây dựng. Đồng thời tổ chức thực
hiện các kế hoạch, các phương án và các hoạt động sản xuất kinh doanh đã đề ra, kèm
theo tổ chức kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh các quá trình trên.
Với chức năng và nhiệm vụ vô cùng quan trọng trên, có thể thấy trình độ cán bộ
quản lý quyết định rất lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu
trình độ cán bộ quản lý tốt thì sẽ thực hiện tốt nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, gọn nhẹ linh hoạt, có sự phân chia nhiệm vụ chức năng rõ ràng, có cơ chế phối
12
Thang Long University Library
hợp hành động hợp lý, với một đội ngũ cán bộ quản lý có năng lực và tinh thần trách
nhiệm cao sẽ đảm bảo cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đạt
hiệu quả cao. Nếu trình độ cán bộ quản lý kém, chức năng nhiệm vụ chồng chéo và
không rõ ràng hoặc là phải kiểm nhiệm quá nhiều, sự phối hợp trong hoạt động không
chặt chẽ, cán bộ quản lý thì thiếu năng lực và tinh thần trách nhiệm sẽ dẫn đến hiệu
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không cao.
Về trình độ nhân viên:
Nhân viên là một trong các yếu tố đầu vào quan trọng, họ tham gia vào mọi
hoạt động, mọi giai đoạn, mọi quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trình
độ, năng lực và tinh thần trách nhiệm của nhân viên tác động trực tiếp đến tất cả các
giai đoạn, các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh, tác động trực tiếp đến năng suất,
chất lượng sản phẩm, tác động tới tốc độ tiêu thụ sản phẩm. Do đó trình độ nhân viên
ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra,
việc bố trí nhân viên hợp lý giữa các bộ phận sản xuất, sử dụng người đúng việc sao
cho phát huy tốt nhất năng lực của nhân viên là một việc quan trọng, nhằm đưa các
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả cao. Đối với nhân viên có trình độ
cao, có khả năng tiếp thu công nghệ mới, phát huy được tính sáng tạo, tự chủ trong
công việc, có ý thức giữ gìn và bảo quản tài sản trong quá trình vận hành thì tài sản sẽ
được sử dụng hiệu quả hơn đồng thời sẽ tạo ra sản phẩm, dịch vụ chất lượng cao, hạ
giá thành góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp. Ngược lại, nếu
trình độ của nhân viên thấp, không nắm bắt được các thao tác kỹ thuật, ý thức bảo
quản máy móc kém sẽ dẫn đến tình trạng sử dụng lãng phí nguyên vật liệu, giảm tuổi
thọ của máy móc làm tăng giá thành, giảm chất lượng sản phẩm. Điều đó có thể làm
giảm doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp dẫn đến hiệu quả sử dụng tài sản giảm.
1.3.1.2 Tổ chức sản xuất – kinh doanh
Một quy trình sản xuất – kinh doanh hợp lý sẽ khắc phục được tình trạng
chồng chéo chức năng, nhiệm vụ giữa các khâu, góp phần tiết kiệm nguồn lực,
tăng năng suất lao động, giảm chi phí bất hợp lý, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao
hiệu quả sử dụng tài sản, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp
có chiến lược kinh doanh tốt, có nhiều giải pháp thực hiện chiến lược phù hợp với điều
kiện hoàn cảnh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ và phù hợp với nhu cầu thị trường
thì hiệu quả sử dụng tài sản sẽ cao.
13
Ngoài ra, trình độ kỹ thuật và trình độ công nghệ sản xuất của doanh nghiệp
ảnh hưởng tới năng suất, chất lượng sản phẩm, mức độ tiết kiệm hay tăng phí nguyên
vật liệu, do đó tác động đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu
doanh nghiệp có trình độ kỹ thuật sản xuất, công nghệ sản xuất tiên tiến và hiện đại sẽ
đảm bảo cho doanh nghiệp sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu, nâng cao năng suất và
chất lượng sản phẩm. Ngược lại, nếu trình độ kỹ thuật sản xuất của doanh nghiệp thấp
kém hoặc công nghệ sản xuất lạc hậu hay thiếu đồng bộ sẽ làm cho năng suất, chất
lượng sản phẩm của doanh nghiệp rất thấp, sử dụng lãng phí nguyên vật liệu.
1.3.1.3 Đặc tính của sản phẩm và công tác tổ chức tiêu thụ sản phẩm
Về đặc tính của sản phẩm:
Hiện nay, chất lượng sản phẩm trở thành một yếu tố cạnh tranh quan trọng của
các doanh nghiệp trên thị trường, nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng về sản
phẩm. Chất lượng sản phẩm càng cao sẽ đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của
người tiêu dùng tốt hơn, và là yếu tố sống còn của mỗi doanh nghiệp. Khi chất lượng
sản phẩm không đáp ứng được những yêu cầu của khách hàng, lập tức khách hàng sẽ
chuyển sang tiêu dùng các sản phẩm khác cùng loại. Vì vậy có thể nói, chất lượng của
sản phẩm góp phần tạo nên uy tín danh tiếng của doanh nghiệp trên thị trường.
Những đặc tính mang hình thức bên ngoài của sản phẩm như : Mẫu mã, bao bì,
nhãn hiệu…trước đây không được coi trọng nhưng ngày nay nó đã trở thành những
yếu tố cạnh tranh quan trọng không thể thiếu được. Thực tế cho thấy, khách hàng
thường lựa chọn các sản phẩm theo trực giác. Vì vậy những loại hàng hoá có mẫu mã
bao bì nhãn hiệu đẹp và phù hợp luôn giành được ưu thế hơn so với các hàng hoá khác
cùng loại.
Các đặc tính của sản phẩm là nhân tố quan trọng quyết định khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp. Những đặc tính này góp phần vào việc tạo uy tín, đẩy nhanh
tốc độ tiêu thụ sản phẩm, làm cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nên
có ảnh hưởng lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Công tác tổ chức tiêu thụ sản phẩm:
Tiêu thụ sản phẩm là một khâu cuối cùng và là khâu quyết định trong quá trình
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm có tiêu thụ
được hay không mới là điều quan trọng nhất. Tốc độ tiêu thụ sản phẩm quyết định tốc
độ sản xuất và nhịp độ cung ứng nguyên vật liệu. Cho nên, nếu doanh nghiệp tổ chức
được mạng lưới tiêu thụ sản phẩm phù hợp với thị trường, có các chính sách tiêu thụ
hợp lý để khuyến khích người tiêu dùng sẽ giúp cho doanh nghiệp mở rộng và chiếm
lĩnh được thị trường. Ngoài ra, điều này còn giúp tăng sức cạnh tranh của doanh
14
Thang Long University Library
nghiệp, đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận, tăng vòng
quay của vốn, góp phần giữ vững và đẩy nhanh nhịp độ sản xuất cũng như cung ứng
các yếu tố đầu vào, nên góp phần vào việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
1.3.1.4 Công tác thẩm định dự án
Công tác thẩm định dự án và đặc biệt là thẩm định tài chính dự án có vai trò rất
quan trọng đối với hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả
sử dụng tài sản của doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp, việc đầu tư vào dự án là một hoạt động nghiệp vụ, là một
phương thức kinh doanh thu lợi nhuận, nhưng hoạt động này cũng tiềm ẩn nhiều rủi
ro. Thông thường, các dự án có thời hạn dài và vốn đầu tư lớn. Vì vậy, việc thẩm định
tài chính cho dự án đầu tư của doanh nghiệp là rất cần thiết. Mục tiêu cuối cùng của
việc thẩm định tài chính là trả lời câu hỏi: dự án có hiệu quả không? Dự án có hiệu quả
thì doanh nghiệp mới đảm bảo được khả năng thu hồi vốn, trả lãi vay, thực hiện được
mục tiêu lợi nhuận và an toàn. Còn nếu như công tác thẩm định tài chính dự án không
hiệu quả sẽ dẫn đến những quyết định đầu tư sai lầm hoặc doanh nghiệp có thể bỏ qua
các cơ hội đầu tư do dự án bị đánh giá sai. Quyết định đầu tư sai lầm sẽ dẫn đến hiệu
quả nghiêm trọng. Nếu đầu tư quá nhiều, không đúng hướng, hoặc đầu tư không đồng
bộ sẽ dẫn đến tình trạng lãng phí vốn, làm giảm hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Nếu đầu tư quá ít không đáp ứng đủ nhu cầu thị trường, từ đó có thể bị mất thị trường,
giảm khả năng cạnh tranh. Tất cả các đều này đều dẫn đến tài sản không được khai
thác một cách triệt để và làm giảm hiệu quả sử dụng tài sản.
1.3.1.5 Khả năng huy động vốn
Vốn là điều kiện không thể thiếu được để một doanh nghiệp được thành lập và
tiến hành các hoạt động sản xuất – kinh doanh. Vốn là nguồn hình thành nên tài sản.
Vì vậy, khả năng huy động vốn cũng như vấn đề cơ cấu vốn sẽ có ảnh hưởng lớn đến
hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp.
Nếu doanh nghiệp có khả năng huy động vốn lớn sẽ là cơ hội để mở rộng quy
mô sản xuất – kinh doanh, đa dạng hoá các hoạt động đầu tư làm tăng doanh thu cho
doanh nghiệp và từ đó làm tăng hiệu suất sử dụng tổng tài sản. Bên cạnh đó, nếu
doanh nghiệp duy trì được cơ cấu vốn hợp lý thì chi phí vốn sẽ giảm, góp phần làm
giảm chi phí kinh doanh, tăng lợi nhuận và do đó hệ số sinh lợi tổng tài sản sẽ tăng.
15
1.3.2 Các nhân tố khách quan
1.3.2.1 Thị trường
Thị trường là nhân tố có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Khi thị trường biến động, giá cả nguyên vật liệu tăng lên sẽ
làm tăng chi phí đầu vào của doanh nghiệp và do đó làm tăng giá bán gây khó khăn
cho việc tiêu thụ sản phẩm. Nếu giá bán không tăng lên theo một tỷ lệ tương ứng với
tỷ lệ tăng của giá cả nguyên vật liệu đầu vào cùng với sự sụt giảm về số lượng sản
phẩm tiêu thụ sẽ làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Nếu thị trường sôi động, nhu
cầu lớn kết hợp với sản phẩm của doanh nghiệp có chất lượng cao, giá bán hợp lý,
khối lượng đáp ứng nhu cầu thị trường thì sẽ làm tăng doanh thu và lợi nhuận cho
doanh nghiệp.
Thị trường tài chính là kênh phân phối vốn từ nơi thừa vốn đến nơi có nhu cầu.
Thị trường tài chính bao gồm thị trường tiền và thị trường vốn. Thị trường tiền là thị
trường tài chính trong đó các công cụ ngắn hạn được mua bán còn thị trường vốn là thị
trường cung cấp vốn trung hạn và dài hạn. Thị trường chứng khoán bao gồm cả thị
trường tiền, là nơi mua bán các chứng khoán ngắn hạn và thị trường vốn, nơi mua bán
các chứng khoán trung và dài hạn. Như vậy thị trường tài chính và đặc biệt là thị
trường chứng khoán có vai trò quan trọng trong việc huy động vốn, mở rộng quy mô
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu thị trường chứng khoán hoạt động hiệu
quả sẽ là kênh huy động vốn hữu hiệu cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu các
doanh nghiệp tập trung quá nhiều vào đầu tư chứng khoán sẽ dẫn đến tình trạng cơ cấu
tài sản mất cân đối làm gián tiếp giảm hiệu quả sử dụng tài sản.
1.3.2.2 Đối thủ cạnh tranh
Sự am hiểu về đối thủ cạnh tranh có một ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với các
doanh nghiệp. Cha ông ta đã có câu “Biết mình biết trăm trận trăm thắng", do đó
doanh nghiệp cần phải hiểu rõ đối thủ cạnh tranh. Có thể thấy trước hết là đối thủ cạnh
tranh quyết định mức độ cuộc tranh đua để giành lợi thế trong ngành và trên thị trường
nói chung. Mức độ cạnh tranh dữ dội phụ thuộc vào mối tương tác giữa các yếu tố như
số lượng các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh giúp cho doanh nghiệp đưa ra được
những giải pháp hữu hiệu nhằm bảo vệ và tăng thi phần nâng cao khả năng cạnh tranh.
1.3.2.3 Môi trường pháp lý và môi trường kinh tế
Về môi trường pháp lý:
Môi trường pháp lý bao gồm luật, các văn bản dưới luật, các quy trình quy
phạm kỹ thuật sản xuất tạo ra một hành lang cho các doanh nghiệp hoạt động. Các
hoạt động của doanh nghiệp như sản xuất kinh doanh cái gài, sản xuất bằng cách nào,
16
Thang Long University Library
bán cho ai ở đâu, nguồn đầu vào lấy ở đâu đều phải dựa vào các quy định của pháp
luật. Các doanh nghiệp phải chấp hành các quy định của pháp luật, phải thực hiện các
nghĩa vụ của mình với nhà nước, với xã hội và với người lao động như thế nào là do
luật pháp quy định (nghĩa vụ nộp thuế, trách nhiệm đảm bảo vệ sinh môi trường, đảm
bảo đời sống cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp... ). Có thể nói luật pháp
là nhân tố kìm hãm hoặc khuyến khích sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp,
do đó ảnh hưởng trực tiếp tới các kết quả cũng như hiệu quả của các hoạt động sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Về môi trường kinh tế:
Các chính sách kinh tế của nhà nước, tốc độ tăng trưởng nền kinh tế quốc dân,
tốc độ lạm phát, thu nhập bình quân trên đầu người... là các yếu tố tác động trực tiếp
tới cung cầu của từng doanh nghiệp. Nếu tốc độ tăng trưởng nền kinh tế quốc dân cao,
các chính sách của Chính phủ khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản
xuất. Sự biến động tiền tệ là không đáng kể, lạm phát được giữ mức hợp lý, thu nhập
bình quân đầu người tăng... sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất,
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và ngược lại.
17
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN
CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN SÔNG ĐÀ 9
2.1 Tổng quan về công ty cổ phần sông đà 9
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển
Công ty Cổ phần Sông Đà 9 (tiền thân là liên trạm cơ giới thuỷ điện Thác Bà
được thành lập từ năm 1960) - đơn vị thành viên của Tổng Công ty Sông Đà - được
thành lập lại theo quyết định số 128A BXD/TCLĐ ngày 26/3/1993 của Bộ trưởng Bộ
Xây dựng theo Nghị định 388/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng nay là Chính phủ; với
ngành nghề đăng ký kinh doanh là: San lấp, đào đắp, nạo vét bằng cơ giới; xây dựng
công trình công nghiệp, công trình công cộng; xây dựng đường dây và trạm biến thế;
xây dựng công trình thuỷ lợi; khai thác cát đá sỏi; sản xuất cấu kiện bê tông và cấu
kiện bằng kim loại phục vụ xây dựng.
Theo Quyết định số 2159/QD-BXD ngày 18/11/2005, Công ty Sông Đà 9
thuộc Tổng Công ty Sông Đà chuyển đổi thành Công ty cổ phần Sông Đà 9. Công ty
chính thức được thành lập theo Giấy phép đăng ký kinh doanh số 0103010465 do Sở
kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội cấp ngày 04/01/2006.
Tên tiếng Việt : CÔNG TY CỔ PHẦN SÔNG ĐÀ 9
Tên tiếng Anh : Song Da No 9 Joint Stock Company
Tên viết tắt : SONG DA 9.,JSC Theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
thay đổi lần thứ 5 số 0100845515 ngày 09/05/2012 thì vốn điều lệ của Công ty là
292.500.000.000 đồng (Hai trăm chín mươi hai tỷ, năm trăm triệu đồng)
Mệnh giá cổ phần: 10.000 đồng/cổ phần.
Tổng số cổ phần: 29.250.000 cổ phần.
Cổ phiếu của Công ty đã được đăng ký niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán
Hà Nội với mã chứng khoán là SD9.
Trụ sở chính : Tòa nhà Sông Đà, đường Phạm Hùng, xã Mỹ Đình, huyện Từ
Liêm, thành phố Hà Nội.
Điện thoại : 04 - 768 3746
Fax : 04 - 768 2684
Website : www.songda9.com.vn
18
Thang Long University Library
Email :
[email protected]
Căn cứ theo giấy phép đăng ký kinh doanh, ngành nghề hoạt động kinh doanh
của Công ty bao gồm:
-
Xây dựng các công trình dân dụng, công nghiệp, giao thông, thủy lợi, thủy điện,
bưu điện, hạ tầng kỹ thuật; đường dây và trạm biến thế điện;
Đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng đô thị và khu công nghiệp;
Dịch vụ tư vấn xây dựng và đấu thầu các công trình;
Khai thác mỏ, sản xuất vật liệu xây dựng;
Nhận thầu thi công bằng phương pháp khoan mìn nổ;
Đầu tư xây dựng, vận hành khai thác và kinh doanh các nhà máy điện, nhà máy
xi măng;
Chế tạo và lắp đặt các cấu kiện cơ khí, xây dựng, phụ tùng ô tô, phụ tùng máy
xây dựng và xe máy;
Dịch vụ sửa chữa, bảo dưỡng ô tô, xe máy, các loại máy xây dựng;
Kinh doanh vận tải hàng hóa, xăng, dầu, mỡ; bất động sản và văn phòng cho
thuê;
Trong giai đoạn 2001-2006, định hướng chiến lược Công ty Sông Đà 9 là lấy
thi công xây lắp bằng cơ giới các công trình thuỷ điện, thuỷ lợi, giao thông làm chủ
đạo, nhận thầu thi công các công trình lớn trong và ngoài nước để phát huy năng lực
xây lắp truyền thống của đơn vị; đầu tư xây dựng một số công trình thuỷ điện vừa và
nhỏ với mục đích kinh doanh điện thương phẩm; đầu tư kinh doanh nhà, văn phòng
cho thuê và một số sản phẩm cơ khí chế tạo. Định hướng này đã và đang tạo cho đơn
vị sự phát triển bền vững trên thị trường.
Quá trình hình thành và phát triển với những nỗ lực vượt bậc trong sản xuất,
Công ty đã suất xắc hoàn thành nhiều công trình trọng điểm của đất nước như: Đắp
đập thuỷ điện Thác Bà, Hoà Bình, Yaly, Vĩnh Sơn – Sông Hinh, Cần Đơn, đường dây
500KV, đường Hồ Chí Minh, Thuỷ điện Tuyên Quang, Pleikrông, Sơn La, Sê San 3
tại CHDCND Lào (thủy điện Se Ka Man 3) và nhiều công trình khác. Hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ thi công nhiều công trình trọng điểm của đất nước, Công ty Cổ phần
Sông Đà 9 đã trở thành một nhà thầu chuyên nghiệp thi công xây lắp bằng cơ giới có
khả năng đảm nhận thi công cùng một lúc nhiều công trình ở nhiều mức quy mô khác
nhau. Nhiều công trình đã được Hội đồng nghiệm thu Nhà nước đánh giá cao về chất
lượng, với các phần thưởng cao quý:“Huy chương vàng chất lượng cao ngành xây
dựng Việt Nam” như: Đập dâng nước thuỷ điện Hoà Bình, công trình chống thấm Trại
19
Nhãn, Nhà máy xi măng Sông Đà, trạm biến áp 500KV Hoà Bình, đường dây 500KV
Hoà Bình – Mãn Đức, đập dâng nước thuỷ điện Yaly, thuỷ điện Nậm Mu.....
Với những đóng góp to lớn vào công cuộc xây dựng đất nước, Công ty đã được
các Bộ, ngành, Nhà nước đánh giá cao và tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quý:
-
Nhiều bằng khen của thủ tướng Chính phủ.
03 huân chương Lao động hạng Ba, hạng Nhì, hạng Nhất.
03 huân chương độc lập hạng Nhất, hạng Nhì và hạng Ba.
Công ty vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động
trong thời kỳ đổi mới vào năm 2000.
Công ty được trao tặng cờ thi đua của Chính phủ năm 2003.
Ngoài ra, nhiều tập thể và cá nhân có thành tích xuất sắc đã vinh dự được Tổng
Công ty, UBND các tỉnh – thành phố, Bộ Xây dựng, Chính phủ và Nhà nước tặng
nhiều bằng khen, huân huy chương, danh hiệu Chiến sỹ thi đua toàn quốc và đặc biệt
là 3 cá nhân được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động.
2.1.2 Cơ cấu tổ chức của công ty
Sau khi chuyển qua mô hình Công ty Cổ phần từ năm 2006, Công ty tiếp tục duy
trì mô hình tổ chức các đơn vị chi nhánh trực thuộc và các công ty con (Công ty có cổ
phần chi phối). Hiện nay ngoài khối văn phòng đặt tại trụ sở chính, Công ty có 07 đơn vị
trực thuộc bao gồm: các chi nhánh và nhà máy cơ khí. Các đơn vị của Công ty là những
đơn vị được tổ chức đồng bộ để có thể thi công xây lắp độc lập tại một hoặc hai công trình
thuỷ điện, thuỷ lợi và giao thông.... Ngoài ra, tại thời điểm 30/09/2006, Công ty còn tham
gia góp vốn cổ phần vào 3 Công ty Cổ phần khác với số vốn góp chiếm tỷ lệ chi phối (vốn
góp trên 51% tại các Công ty Cổ phần con). Đồng thời, tại thời điểm 30/09/2006, Công ty
có tham gia góp vốn đầu tư tài chính tại 4 công ty khác gồm: Công ty Cổ phần Sông Đà
909, Công ty Cổ phần thuỷ điện Sử Pán 2, Nhà máy thép Việt Ý, Công ty Cổ phần đầu tư
phát triển hạ tầng và xây dựng Sông Đà.
Hoạt động trong mô hình Công ty Cổ phần với sự phân định rõ ràng nhiệm vụ,
quyền hạn và chế độ chuyên trách giữa Công ty và các Chi nhánh, nhà máy trực thuộc
thông qua các quy định về phân cấp quản lý được Hội đồng quản trị Công ty phê duyệt
đã khẳng định được tính hợp lý của mô hình này. Kết quả là phát huy tính chủ động
trong quản lý điều hành của mỗi đơn vị, qua việc thực thi mục tiêu nhiệm vụ được giao
và hiệu quả kinh tế của các đơn vị. Chi nhánh và các đơn vị trực thuộc:
20
Thang Long University Library