CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÀI SẢN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
TÀI SẢN TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
1.1. Tổng quan về tài sản của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm tài sản của doanh nghiệp
Theo chuẩn mực số 1: Chuẩn mực chung trong “Chuẩn mực kế toán Việt Nam”
được ban hành và công bố theo Quyết định số 165/2002/QĐ-BTC ngày 31 tháng 12
năm 2002 của Bộ trưởng Bộ Tài Chính đã đưa ra định nghĩa về tài sản như sau: “Tài
sản là nguồn lực do doanh nghiệp kiểm soát và có thể thu được lợi ích kinh tế trong
tương lai”.
Theo chuẩn mực Kế toán Quốc tế: “Tài sản là nguồn lực do doanh nghiệp kiểm
soát, là kết quả của những hoạt động trong quá khứ, mà từ đó một số lợi ích kinh kế
trong tương lai có thể dự kiến trước một cách hợp lý.”
Theo Tiêu chuẩn Thẩm định giá Việt Nam số 12: “Tài sản bao gồm vật, tiền,
giấy tờ có giá và các quyền tài sản.”
Theo Bộ luật Dân sự năm 2005, Điều 163 quy định: “Tài sản bao gồm vật, tiền,
giấy tờ có giá (như trái phiếu, cổ phiếu, kỳ phiếu...) và các quyền tài sản (như quyền
tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng, quyền đòi nợ, quyền
được nhận số tiền bảo hiểm đối với vật bảo đảm, quyền tài sản đối với phần vốn góp
trong doanh nghiệp, quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng...).”
Từ những định nghĩa trên về tài sản ta có thể hiểu: “Tài sản của doanh nghiệp là
tất cả các nguồn lực có thực, hữu hình hoặc vô hình gồm các vật, tiền, giấy tờ có giá
và các quyền tài sản của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định, có khả năng mang
lại lợi ích kinh tế trong tương lai cho doanh nghiệp đó.”
Lợi ích kinh tế trong tương lai của một tài sản có nghĩa là tiềm năng làm tăng
nguồn tiền và các khoản tương đương tiền của doanh nghiệp hoặc làm giảm bớt các
khoản tiền mà doanh nghiệp phải chi ra. Lợi ích kinh tế trong tương lai của một tài sản
được thể hiện trong các trường hợp, như:
- Được sử dụng một cách đơn lẻ hoặc kết hợp với các tài sản khác trong sản xuất
sản phẩm để bán hay cung cấp dịch vụ cho khách hàng;
- Để bán hoặc trao đổi lấy tài sản khác;
- Để thanh toán các khoản nợ phải trả;
- Để phân phối cho các chủ sở hữu doanh nghiệp;
1
1.1.2. Phân loại tài sản
1.1.2.1. Căn cứ theo nguồn hình thành
Tài sản lưu động: là những đối tượng lao động, tham gia toàn bộ và luân chuyển
giá trị một lần vào giá trị sản phẩm. Tài sản lưu động trong doanh nghiệp thương được
chia làm 2 loại là tài sản lưu động sản xuất ( nguyên, nhiên, vật liệu ), và tài sản lưu
động lưu thông (các sản phẩm, thành phẩm chờ tiêu thụ, các loại vốn bằng tiền....). Tài
sản lưu động có đặc điểm là trong quá trình sản xuất kinh doanh, tài sản lưu động luôn
vận động, thay thế và chuyển hóa lẫn nhau, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh
được diễn ra liên tục.
Tài sản cố định: là những tư liệu sản xuất, là một trong những loại tài sản có giá
trị lớn được huy động và sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
nhằm mục đích sinh lời. Nó tham gia một cách trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc tạo ra
sản phẩm sản xuất và thường thì các loại tài sản này có chu kỳ sử dụng trong dài hạn.
Tài sản cố định được phân thành động sản và bất động sản:
- Bất động sản là các tài sản bao gồm: Đất đai; nhà, công trình xây dựng gắn liền
với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đó; các tài sản
khác gắn liền với đất đai; các tài sản khác do pháp luật quy định.
- Động sản là những tài sản cố định không phải là bất động sản.
1.1.2.2. Căn cứ theo hình thái biểu hiện
Tài sản hữu hình: là những tài sản có hình thái vật chất cụ thể có thể nhìn thấy,
chạm vào như tiền, hàng hóa, nhà cửa... từ đó mà có thể xác định được giá trị của
chúng.
Tài sản vô hình: là những tài sản không có hình thái vật chất cụ thể, thông
thường các loại tài sản vô hình được tạo nên bởi các ý tưởng, nghiên cứu hay trong
quá trình sản xuất kinh doanh như thương hiệu, các quyền sử dụng, phần mềm vi
tính...
1.1.2.3. Căn cứ theo thời gian
Có nhiều cách để phân loại tài sản trong doanh nghiệp, tùy thuộc vào tính chất,
bản chất hoạt động của doanh nghiệp mà ta có những cách phân loại khác nhau về tài
sản để giúp cho doanh nghiệp có thể dễ dàng phân loại, quản lý. Trong điều kiện của
bài khóa luận, từ sau đây các công thức cũng như các phân tích liên quan về hiệu quả
sử dụng tài sản sẽ chủ yếu phân loại tài sản theo cách này. Căn cứ theo thời gian thì tài
sản trong doanh nghiệp được phân chia thành: Tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn.
Tài sản ngắn hạn:
2
Khái niệm:
Tài sản ngắn hạn là biểu hiện bằng tiền giá trị những tài sản thuộc quyền sở hữu
của doanh nghiệp mà trên thời gian sử dụng thu hổi luân chuyển thường là một năm
hoặc một chu kỳ kinh doanh.
Đặc điểm:
Tài sản ngắn hạn được phân bố đủ trong tất cả các khâu, các công đoạn nhằm
đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục, ổn định tránh lãng
phí và tổn thất vốn do ngừng sản xuất, không làm ảnh hưởng đến khả năng thanh toán
và đảm bảo khả năng sinh lời của tài sản. Do đó, tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp
có các đặc điểm sau:
Về tính thanh khoản: TSNH là loại tài sản ngắn hạn vì vậy nó đáp ứng kịp thời
được khả năng thanh toán khi doanh nghiệp cần.
Về tư cách tham gia: TSNH tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp với tư cách là đối tượng lao động hoặc tư liệu lao động.
Về thời gian sử dụng: TSNH có thời gian sử dụng ngắn thường hết một chu kỳ
sản xuất kinh doanh hoặc dưới một năm
Về tính chuyển đổi: TSNH dễ dàng chuyển hóa từ dạng vật chất sang tiền tệ mà
không phải chịu chi phí lớn. Tuy nhiên, điều này gây khó khăn cho bộ phận quản lý,
chống thất thoát.
Các loại tài sản ngắn hạn:
Căn cứ hình thái biểu hiện và khả năng thanh khoản thì TSNH bao gồm:
Tiền và các khoản tương đương tiền: Tiền được hiểu là tiền mặt, tiền gửi ngân
hàng và tiền đang chuyển. Các khoản tương đương tiền là các khoản đầu tư ngắn hạn
không quá 3 tháng, có khả năng chuyển đổi dễ dàng thành tiền và không có nhiều rủi
ro trong khi chuyển đổi thành tiền.
Tài sản tài chính ngắn hạn: Bao gồm các khoản đầu tư chứng khoán có thời hạn
thu hồi dưới 1 năm hoặc trong một chu kỳ kinh doanh (như: tín phiếu kho Bạc, kỳ
phiếu ngân hàng,...) hoặc chứng khoán mua vào bán ra (cổ phiếu, trái phiếu) để kiếm
lời và các loại đầu tư tài chính khác không quá 1 năm.
Các khoản phải thu ngắn hạn: Là các khoản phải thu ngắn hạn của khách hàng,
phải thu nội bộ ngắn hạn và các khoản phải thu ngắn hạn khác có thời hạn thu hồi hoặc
thanh toán dưới 1 năm.
Hàng Tồn kho: Bao gồm vật tư, hàng hóa, sản phẩm, sản phẩm dở dang.
3
Tài sản ngắn hạn khác: Bao gồm chi phí trả trước ngắn hạn, thuế GTGT được
khấu trừ, thuế và các khoản phải thu Nhà nước, tài sản ngắn hạn khác.
Tài sản dài hạn:
Khái niệm:
Tài sản dài hạn của doanh nghiệp là những tài sản thuộc quyền sở hữu và quản lý
của doanh nghiệp, có thời gian sử dụng, luân chuyển, thu hồi vốn trong nhiều kỳ kinh
doanh hoặc hơn một năm tài chính
Đặc điểm:
Tài sản dài hạn trong doanh nghiệp có các đặc điểm sau:
Về tính thanh khoản: TSDH thường là những tài sản có thời gian sử dụng dài, giá
trị lớn và doanh nghiệp chỉ thanh lý tài sản khi đã sử dụng hết khấu hao, hay đã lỗi
thời (đối với các máy móc, thiết bị, nhà xưởng...) hoặc đợi đến thời điểm trên 1 năm để
thanh khoản với các tài sản tài chính dài hạn (chứng khoán, trái phiếu...) vì vậy nên
tính thanh khoản của các TSDH sẽ khó đáp ứng được khả năng thanh toán khi doanh
nghiệp cần.
Về tư cách tham gia: TSDH tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp với tư cách là tư liệu lao động gồm công cụ lao động và phương tiện
lao động.
Về thời gian sử dụng: TSDH có thời gian sử dụng dài thường là tham gia vào
nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh hoặc trên một năm.
Về tính chuyển đổi: TSDH khó chuyển đổi từ dạng vật chất sang tiền tệ và sẽ
phải chịu chi phí lớn hơn so với TSNH.
Các loại tài sản dài hạn:
Các khoản phải thu dài hạn: là các khoản phải thu dài hạn của khách hàng, phải
thu nội bộ dài hạn và các khoản phải thu dài hạn khác có thời hạn thu hồi hoặc thanh
toán trên một năm.
Bất động sản đầu tư: là những bất động sản, gồm: quyền sử dụng đất, nhà hoặc
một phần của nhà hoặc cả nhà và đất, cơ sở hạ tầng do người chủ sở hữu hoặc người đi
thuê tài sản theo hợp đồng thuê tài chính nắm giữ nhằm mục đích thu lợi từ việc cho
thuê hoặc chờ tăng giá mà không phải để sử dụng trong sản xuất, cung cấp hàng hoá,
dịch vụ hay cho các mục đích quản lý hoặc bán trong kỳ hoạt động kinh doanh thông
thường. Một bất động sản đầu tư được ghi nhận là tài sản thì phải thỏa mãn đồng thời
2 điều kiện sau:
- Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai.
4
- Nguyên giá của bất động sản đầu tư phải được xác định một cách đáng tin cậy.
Tài sản cố định: Là những tài sản có giá trị lớn, có thời gian sử dụng dài cho các
hoạt động của doanh nghiệp và phải thoả mãn đồng thời tất cả các tiêu chuẩn sau:
- Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản đó.
- Nguyên giá tài sản phải được xác định một cách tin cậy.
- Có thời gian sử dụng từ 1 năm trở lên.
- Có giá trị từ 30 triệu đồng trở lên.
Theo hình thái biểu hiện, toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp được chia
thành 2 loại: tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình.
- Tài sản cố định hữu hình: Là những tài sản cố định có hình thái vật chất cụ thể
do doanh nghiệp sử dụng cho hoạt động kinh doanh như: Nhà cửa, vật kiến trúc,
máy móc, thiết bị, phương tiện vân tải, thiết bị truyền dẫn…
- Tài sản cố định vô hình: Là những tài sản không có hình thái vật chất nhưng
xác định được giá trị, do doanh nghiệp quản lý và sử dụng trong các hoạt động
sản xuất kinh doanh, cung cấp dịch vụ hoặc cho các đối tượng khác thuê phù hợp
với tiêu chuẩn tài sản cố định vô hình. Thông thường, tài sản cố định vô hình bao
gồm: Quyền sử dụng đất có thời hạn, nhãn hiệu hàng hoá, quyền phát hành, phần
mềm máy vi tính, bản quyền, bằng sáng chế,…
Tài sản tài chính dài hạn: Là các khoản đầu tư vào việc mua bán các chứng
khoán có thời hạn thu hồi trên một năm hoặc góp vốn liên doanh bằng tiền, bằng hiện
vật, mua cổ phiếu có thời hạn thu hồi vốn trong thời gian trên một năm và các loại đầu
tư khác vượt quá thời hạn trên một năm. Có thể nói tài sản tài chính dài hạn là các
khoản vốn mà doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực kinh doanh, ngoài hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong thời hạn trên một năm nhằm tạo ra nguồn lợi
tức lâu dài cho doanh nghiệp. Cụ thể, tài sản tài chính dài hạn bao gồm: Các chứng
khoán dài hạn, cổ phiếu doanh nghiệp, trái phiếu Chính phủ, trái phiếu địa phương, trái
phiếu Công ty.
Các khoản góp vốn liên doanh: góp vốn liên doanh là một hoạt động đầu tư tài
chính mà doanh nghiệp đầu tư vốn vào một doanh nghiệp khác để nhận kết quả kinh
doanh và cùng chịu rủi ro (nếu có theo tỷ lệ vốn góp). Vốn góp liên doanh của doanh
nghiệp, bao gồm tất cả các loại tài sản, vật tư, tiền vốn thuộc quyền sở hữu của doanh
nghiệp kể cả vốn vay dài hạn dùng vào việc góp vốn kinh doanh.
Tài sản dài hạn khác: Bao gồm Chi phí trả trước dài hạn, tài sản thuế thu nhập
hoãn lại, tài sản dài hạn khác.
5
1.1.3. Vai trò của tài sản trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
1.1.3.1. Vai trò của tài sản ngắn hạn trong hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp
Trong các hoạt động kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng không thể
không có tài sản ngắn hạn. Dù đó là doanh nghiệp sản xuất hay doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực thương mại dịch vụ thì tài sản ngắn hạn đóng vai trò không thể
thiếu đối với các doanh nghiệp.
Tài sản ngắn hạn giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được
vận hành một cách liên tục, không bị gián đoạn. Trong sản xuất, tài sản ngắn hạn giúp
cho doanh nghiệp sản xuất thông suốt, đảm bảo quy trình công nghệ, công đoạn sản
xuất. Trong lưu thông, tài sản ngắn hạn đảm bảo dự trữ thành phẩm đáp ứng đơn đặt
hàng của khách và nhu cầu tiêu thụ nhịp nhàng.
Tài sản ngắn hạn giúp cho doanh nghiệp đảm bảo được khả năng thanh toán, khi
duy trì ở một mức độ hợp lý nú đem lại cho doanh nghiệp những lợi thế nhất định như
được hưởng chiết khấu thương mại, chiết khấu thanh toán… Từ đó giúp doanh nghiệp
tiết kiệm được chi phí, làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Tài sản ngắn hạn giúp doanh nghiệp tạo dựng được mối quan hệ mật thiết với
khách hàng, đặc biệt là khách hàng lớn và thân thuộc thông qua chính sách tín dụng
thương mại.
1.1.3.2. Vai trò của tài sản dài hạn trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp:
Trong nền kinh tế thị trường, xu thế cạnh tranh là tất yếu. “Sản xuất cái gì?, sản
xuất cho ai?, sản xuất như thế nào?” là những câu hỏi luôn đặt ra đòi hỏi các chủ
doanh nghiệp phải tìm được lời giải thỏa đáng nhất. Muốn vậy doanh nghiệp phải điều
tra, nắm bắt nhu cầu thị trường, từ đó lựa chọn quy trình công nghệ sản xuất, máy móc
phù hợp tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của
người tiêu dùng. Do đó việc đổi mới tài sản cố định trong doanh nghiệp để theo kịp sự
phát triển của xã hội là một vấn đề được đặt lên hàng đầu. Bởi vì nhờ có đổi mới các
máy mọc thiết bị, các quy trình công nghệ doanh nghiệp mới có thể tăng năng suất lao
động, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, đảm bảo cho sản phẩm của doanh
nghiệp có ưu thế cạnh tranh trên thị trường.
Như vậy tài sản dài hạn là một bộ phận then chốt trong các doanh nghiệp sản
xuất có vai trò quyết định tới sự sống của doanh nghiệp. Tài sản dài hạn thể hiện một
cách chính xác nhất năng lực, trình độ trang thiết bị cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh
nghiệp và sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Tài sản dài hạn được đổi mới, cải
tiến, và hoàn thiện tùy thuộc vào hoàn cảnh thực tế mỗi thời kỳ nhưng phải đảm bảo
6
yêu cầu phục vụ sản xuất một cách có hiệu quả nhất, thúc đẩy sự tồn tại và phát triển
của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
Các khoản phải thu dài hạn biểu hiện quyền đòi nợ của đơn vị đối với con nợ
trong thời hạn trên 12 tháng. Nếu đơn vị có khoản phải thu chứng tỏ vốn của đơn vị
đang bị người khác chiếm dụng. Trong kinh doanh, việc chiếm dụng vốn lẫn nhau
thường xuyên xảy ra do các giao dịch mua, bán chịu. Tuy nhiên nếu khoản phải thu
quá lớn trong thời gian dài sẽ không tốt vì rủi ro đối với việc thu hồi vốn cao.
1.2. Hiệu quả sử dụng tài sản trong doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm về hiệu quả sử dụng tài sản
Hiệu quả được coi là một thuật ngữ để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thực hiện
các mục tiêu của chủ thể và chi phí mà chủ thể đó bỏ ra để có kết quả đó trong điều
kiện nhất định. Như vậy, hiệu quả phản ánh kết quả thực hiện các mục tiêu hành động
trong quan hệ với chi phí bỏ ra và hiệu quả được xem xét trong bối cảnh hay điều kiện
nhất định, đồng thời cũng được xem xét dưới quan điểm đánh giá của chủ thể nghiên
cứu.
Các doanh nghiệp hoạt động trong có chế thị trường cạnh tranh như hiện nay đều
phải quan tâm tới hiệu quả kinh tế. Đó là cơ sở để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát
triển. Hiệu quả kinh tế được hiểu là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng
các nguồn lực của doanh nghiệp để đạt được các mục tiêu xác định trong quá trình sản
xuất – kinh doanh.
Mỗi doanh nghiệp tồn tại và phát triển vì nhiều mục tiêu khác nhau như: Tối đa
hóa lợi nhuận, tối đa hóa doanh thu, tối đa hóa hoạt động hữu ích của các nhà lãnh đạo
doanh nghiệp... song tất cả mục tiêu cụ thể đó đều nhằm mục tiêu bao trùm nhất là tối
đa hóa giá trị tài sản cho các chủ sở hữu. Để đạt được mục tiêu này, tất cả các doanh
nghiệp đều phải nỗ lực khai thác triệt để và sử dụng có hiệu quả tài sản của mình.
Như vậy, hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp phản ánh trình độ, năng lực
khai thác và sử dụng tài sản của doanh nghiệp sao cho quá trình sản xuất – kinh doanh
tiến hành bình thường với hiệu quả kinh tế cao nhất.
1.2.2. Sự cần thiết nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản trong DN
Mục đích kinh doanh của các doanh nghiệp là tìm kiếm lợi nhuận cao nhất. Từ
góc độ doanh nghiệp, có thể thấy: Lợi nhuận của doanh nghiệp là khoản tiền chênh
lệch giữa doanh thu và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để đạt được thu nhập từ các hoạt
động sản xuất kinh doanh mang lại.
Lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp, phản ánh kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh và là nguồn tích lũy cơ bản để tái sản xuất mở rộng doanh nghiệp. Đặc biệt
7
trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường, sự tồn tại và phát triển
của doanh nghiệp hoàn toàn phụ thuộc vào kết quả kinh doanh có lợi nhuận hay
không. Như vậy, lợi nhuận là “đòn bẩy” quan trọng, đồng thời là chỉ tiêu cơ bản để
đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận tác động đến tất cả các mặt hoạt
động của doanh nghiệp, việc thực hiện được chỉ tiêu lợi nhuận là mục tiêu quan trọng
đảm bảo cho tình hình tài chính doanh nghiệp được vững chắc.
Đểm đảm bảo được mục tiêu lợi nhuận, các doanh nghiệp buộc phải tăng cường
công tác quản lý sản xuất, trong đó có nội dung nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản, có
như vậy mới đem lại hiệu quả cao, kết hợp với các hoạt động khác trong kinh doanh
nhằm tạo ra điều kiện tốt nhất để doanh nghiệp tái sản xuất. Ngoài ra, việc nâng cao
hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp luôn cần thiết và cấp bách, có sự ảnh hưởng
lớn đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp còn xuất phát từ những lý do sau:
- Tài sản gắn liền với quy mô hoạt động và khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp, đồng thời thể hiện trình độ trang thiết bị - cơ sở vật chất kỹ thuật của
doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản là đảm bảo với số tài sản hiện
có, bằng các giải pháp quản lý sử dụng tổng hợp nhằm khai thác triệt để thúc đẩy
sản xuất phát triển. Khi chất lượng sản xuất cao sẽ thu được nhiều lãi, hoàn vốn
nhanh, tạo ra vòng luân chuyển vốn, doanh nghiệp sẽ có thêm cơ hội đầu tư –
phát triển – mở rộng.
- Trong sự cạnh tranh quyết liệt giữa các doanh nghiệp với nhau thì việc nâng
cao hiệu quả sử dụng tài sản sẽ giúp cho doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí từ
đó tạo nên những lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ khác trong cùng lĩnh vực
hoạt động.
- Tăng cường quản lý và sử dụng tài sản còn giúp cho doanh nghiệp luôn có được
trình độ sản xuất kinh doanh phát triển, trang thiết bị, kỹ thuật được cải thiện.
Việc áp dụng được kỹ thuật tiên tiến, công nghệ hiện đại sẽ tạo ra khả năng rộng
lớn để nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm. Đặc biệt, khi
khai thác và sử dụng tốt được tài sản trong doanh nghiệp sẽ cắt giảm bớt nhu cầu
vay vốn cũng như việc giảm bớt chi phí về lãi vay.
Do đó, việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản là một vấn đề cấp thiết, là điểm
đầu tiên quyết định sự tồn tại và phát triển của mọi tổ chức kinh tế hoạt động trong
điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay.
8
1.3. Nội dung đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản
1.3.1. Hiệu quả sử dụng chung tổng tài sản
1.3.1.1. Phân tích quy mô và cơ cấu tổng tài sản
Với cùng một lượng vốn huy động cho hoạt động kinh doanh, nếu biết sử dụng
hợp lý doanh nghiệp sẽ có điều kiện đầu tư cả về chiều rộng và chiều sâu cho kinh
doanh. Sử dụng hợp lý, có hiệu quả số vốn đã huy động được thể hiện trước hết ở chỗ:
số vốn đã huy động được đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh hay bộ phận tài sản nào. Vì
thế, phân tích tình hình sử dụng vốn bao giờ cũng được thực hiện trước hết bằng cách
phân tích cơ cấu tài sản. Qua phân tích cơ cấu tài sản, các nhà quản lý sẽ nắm được
tình hình đầu tư (sử dụng) số vốn đã huy động, biết được việc sử dụng vốn đã huy
động có phù hợp với lĩnh vực kinh doanh và có phục vụ tích cực cho mục đích kinh
doanh của doanh nghiệp hay không.
Phân tích cơ cấu tài sản của doanh nghiệp được thực hiện bằng cách tính ra và so
sánh tình hình biến động giữa kỳ phân tích với kỳ gốc về tỷ trọng của từng bộ phận tài
sản chiếm trong tổng số tài sản
Tỷ trọng của từng bộ phận tài sản chiếm
=
trong tổng số tài sản
x100
Việc xem xét tình hình biến động về tỷ trọng của từng bộ phận tài sản chiếm
trong tổng số tài sản giữa kỳ phân tích và kỳ gốc mặc dù cho phép các nhà quản lý
đánh giá được khái quát tình hình phân bổ (sử dụng) vốn nhưng lại không cho biết các
nhân tố tác động đến sự thay đổi cơ cấu tài sản của doanh nghiệp. Vì vậy, để biết được
chính xác tình hình sử dụng vốn, nắm được các nhân tố ảnh hưởng và mức độ ảnh
hưởng của các nhân tố đến sự biến động về cơ cấu tài sản, các nhà phân tích còn kết
hợp cả việc phân tích ngang, tức là so sánh sự biến động giữa kỳ phân tích với kỳ gốc
(cả về số tuyệt đối và số tương đối) trên tổng số tài sản cũng như theo từng loại tài sản.
1.3.1.2. Chỉ tiêu tài chính đánh giá hiệu quả sử dụng tổng tài sản
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản:
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản =
thu thuần
Tổng tài sản trong kỳ
Trong đó: Tổng tài sản trong kỳ là bình quân số học của
tổng tài sản có ở đầu kỳ và cuối kỳ.
Chỉ tiêu này cho biết một đơn vị tài sản tạo ra được bao nhiêu đơn vị
doanh thu thuần. Chỉ tiêu này càng lớn hiệu quả sử dụng tài sản càng cao.
Hệ số sinh lợi tổng tài sản:
9
Hệ số sinh lợi tổng tài sản (ROA) =
Hệ số sinh lợi tổng tài sản phản ánh một đơn vị tài sản tạo ra bao nhiêu
đơn vị lợi nhuận trước thuế. Chỉ tiêu này được sử dụng để đo hiệu quả của việc
tài trợ cho các nhu cầu về tài sản của doanh nghiệp bằng vốn chủ sở hữu và vốn
vay. Nếu chỉ tiêu này lớn hơn chi phí nợ thì đầu tư bằng nợ có lợi cho doanh
nghiệp hơn đầu tư bằng vốn chủ sở hữu.
1.3.2. Phân tích hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn
1.3.2.1. Phân tích quy mô và cơ cấu tài sản ngắn hạn
Phân tích quy mô và cơ cấu tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp được thực hiện
bằng cách tính ra và so sánh tình hình biến động giữa kỳ phân tích với kỳ gốc về tỷ
trọng của từng bộ phận tài sản ngắn hạn chiếm trong tổng số tài sản ngắn hạn.
Tỷ trọng của từng bộ phận TSNH chiếm
trong tổng số TSNH
=
x100
Việc tính rõ tỷ trọng của từng bộ phận TSNH trong tổng số TSNH của doanh
nghiệp giúp cho nhà quản lý đánh giá được khái quát tình hình phân bổ vốn dành cho
từng bộ phận TSNH, giúp nhà quản lý biết được việc sử dụng vốn đã huy động vào
TSNH có phù hợp với lĩnh vực kinh doanh và có phục vụ tích cực cho mục đích kinh
doanh của doanh nghiệp hay không. Kết hợp với việc so sánh sự biến động giữa kỳ
phân tích với kỳ gốc thì các nhà quản lý sẽ đánh giá được chính xác các nhân tố ảnh
hưởng và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố này đến sự biến động về cơ cấu TSNH.
Qua đó sẽ rút ra được những chính sách thay đổi hợp lý cho từng bộ phận của TSNH
để tối đa hóa lợi ích, tránh lãng phí, thất thoát các TSNH cho doanh nghiệp.
1.3.2.2. Chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán:
Chỉ số thanh toán hiện hành:
Đây là chỉ số đo lường khả năng doanh nghiệp đáp ứng các nghĩa vụ tài
chính ngắn hạn. Nói chung thì chỉ số này ở mức 2-3 được xem là tốt. Chỉ số này
càng thấp ám chỉ doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn đối với việc thực hiện các nghĩa
vụ của mình nhưng một chỉ số thanh toán hiện hành quá cao cũng không luôn là
dấu hiệu tốt, bởi vì nó cho thấy tài sản của doanh nghiệp bị cột chặt vào “ tài sản
lưu động” quá nhiều và như vậy thì hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp
là không cao.
Công thức tính:
10
Chỉ số thanh toán hiện hành =
Chỉ số thanh toán nhanh:
Chỉ số thanh toán nhanh đo lường mức thanh khoản cao hơn. Chỉ những
tài sản có tính thanh khoản cao mới được đưa vào để tính toán. Hàng tồn kho và
các tài sản ngắn hạn khác được bỏ ra vì khi cần tiền để trả nợ, tính thanh khoản
của chúng rất thấp.
Công thức tính:
Chỉ số thanh toán nhanh =
TSNH – Hàng tồn kho
Nợ ngắn hạn
Tỷ số này cho thấy khả năng thanh toán nhanh thực sự của một doanh
nghiệp, nó được so sánh với các năm trước để thấy được sự tiến triển hay giảm
sút của doanh nghiệp trong việc sử dụng tài sản ngắn hạn. Hệ số này > 1 thì
được đánh giá là an toàn vì doanh nghiệp có thể trang trải các khoản nợ ngắn
hạn mà không cần đến các nguồn thu hay doanh số bán. Đây là hệ số phản ánh
sự chắc chắn nhất khả năng của doanh nghiệp đáp ứng nghĩa vụ nợ hiện thời. Hệ
số này càng cao thì càng được đánh giá tốt.
Chỉ số thanh toán tức thời:
Công thức tính:
Chỉ số thanh toán tức thời =
n và các khoản tương đương tiền
Nợ ngắn hạn
Chỉ số khả năng thanh toán tức thời cho biết doanh nghiệp có bao nhiêu
đồng vốn bằng tiền và các khoản tương đương tiền để thanh toán ngay cho một
đồng nợ ngắn hạn. Chỉ số khả năng thanh toán tức thời phản ánh tỷ lệ giữa tổng
số tiền và các khoản tương đương tiền với tổng số nợ ngắn hạn. Trong số các
loại tài sản ngắn hạn có Tiền và các khoản tương đương tiền (các khoản đầu tư
ngắn hạn không quá 3 tháng, có khả năng chuyển đổi dễ dàng thành một lượng
tiền xác định và không có nhiều rủi ro trong chuyển đổi thành tiền) được gọi là
loại tài sản có thể sử dụng ngay để thanh toán các khoản nợ tức thời. Chỉ tiêu
này càng lớn hơn 1 thì khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp càng cao.
Tuy nhiên, các nhà quản trị doanh nghiệp cần lưu ý nếu hệ số này quá cao thì
cũng không tốt vì như vậy có nghĩa là doanh nghiệp đang duy trì lượng vốn
bằng tiền quá lớn. Điều này là không nên với các doanh nghiệp đặc biệt là các
11
doanh nghiệp sản xuất thương mại. Lượng vốn bằng tiền quá lớn sẽ làm giảm
tốc độ luân chuyển vốn dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn thấp.
1.3.2.3. Chỉ tiêu đánh giá khả năng hoạt động của tài sản ngắn hạn
Là các hệ số đo lường khả năng hoạt động của doanh nghiệp. Để nâng cao hệ số
hoạt động, các nhà quản trị phải biết những tài sản nào chưa sử dụng, không sử dụng
hoặc không tạo ra thu nhập cho doanh nghiệp. Vì thế doanh nghiệp cần phải biết cách
sử dụng chúng sao cho có hiệu quả hoặc loại bỏ chúng đi. Hệ số hoạt động đôi khi còn
gọi là hệ số hiệu quả hoặc hệ số luân chuyển. Do đó, khi phân tích các chỉ tiêu hoạt
động thì người ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau đây:
Vòng quay các khoản phải thu:
Các khoản phải thu là các khoản bán chịu mà doanh nghiệp chưa thu
tiền do thực hiện chính sách bán chịu và các khoản tạm ứng chưa thanh toán các
khoản trả trước cho người bán…
Vòng quay các khoản phải thu =
Doanh thu thuần
Các khoản phải thu
Vòng quay các khoản phải thu được sử dụng để xem xét cẩn thận việc
khách hàng thanh toán các khoản nợ cho doanh nghiệp. Khi khách hàng thanh
toán các khoản nợ đã đến hạn thì lúc đó các khoản phải thu đã quay được một
vòng.
Chu kỳ thu tiền:
Chu kỳ thu tiền =
Vòng quay các khoản phải thu
Chỉ tiêu này cho ta biết tốc độ chuyển đổi nợ phải thu từ khách hàng
thành tiền trong quỹ của doanh nghiệp là bao lâu. Chỉ tiêu này càng nhỏ thì tình
hình kinh doanh của doanh nghiệp càng tốt và ngược lại.
Vòng quay hàng tồn kho:
Vòng quay hàng tồn kho là một tiêu chuẩn để đánh giá doanh nghiệp sử
dụng hàng tồn kho của mình hiệu quả như thế nào.
Vòng quay hàng tồn kho =
Các doanh nghiệp kinh doanh, sản xuất luôn phải tính đến mức dự trữ
bởi doanh nghiệp không thể nào đến lúc sản xuất mới mua nguyên vật liệu. Để
tránh trường hợp bị ứ đọng thì doanh nghiệp phải có trước một lượng vật tư
hàng hoá vừa phải bởi nếu quá nhiều doanh nghiệp sẽ mất khoản chi phí để bảo
12
quản vật liệu. Nếu lượng vật tư quá ít không đủ cho sản xuất sẽ dẫn đến tình
trạng tắc nghẽn ở các khâu tiếp theo. Như vậy chỉ tiêu này rất quan trọng đối với
doanh nghiệp, nó quyết định thời điểm đặt hàng cũng như mức dự trữ an toàn
cho doanh nghiệp. Vòng quay càng cao thể hiện khả năng sử dụng tài sản lưu
động cao.
Vòng quay dự trữ, tồn kho cao thể hiện được khả năng sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp tốt, có như vậy mới đạt được mục tiêu mà doanh
nghiệp đặt ra. Chỉ tiêu này cao phản ánh được lượng vật tư, hàng hóa được đưa
vào sử dụng cũng như được bán ra nhiều, như vậy là doanh thu sẽ tăng và đồng
thời lợi nhuận mà doanh nghiệp đạt được cũng tăng lên.Vòng quay hàng tồn kho
cao hay thấp phụ thuộc vào đặc điểm kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
Chu kỳ lưu kho:
360
Chu kỳ lưu kho =
Chỉ tiêu này cho ta biết số ngày lượng hàng hàng tồn kho được chuyển
đổi thành doanh thu. Từ chỉ tiêu này cho biết số ngày cần thiết cho việc luân
chuyển kho vì hàng tồn kho có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả sử dụng tài sản
ngắn hạn ở khâu dự trữ. Hệ số này chứng tỏ công tác quản lý hàng tồn kho càng
tốt, hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn càng cao và ngược lại.
Hiệu suất sử dụng tài sản ngắn hạn:
Hiệu suất sử dụng TSNH =
Doanh thu thuần
TSNH trong kỳ
Chỉ tiêu này cho biết mỗi đơn vị tài sản ngắn hạn trong kỳ đem lại bao
nhiêu đơn vị doanh thu thuần. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu suất sử dụng
tài sản ngắn hạn càng cao.
Thời gian một vòng quay tài sản ngắn hạn:
Thời gian một vòng quay TSNH =
Chỉ tiêu này cho biết mỗi vòng quay của TSNH bình quân mất bao nhiêu
ngày. Chỉ tiêu này càng thấp chứng tỏ TSNH vận động nhanh, góp phần nâng
cao doanh thu và lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Từ đây có thể xác định số tiền tiết kiệm hay lãng phí vốn đầu tư cho tài
sản ngắn hạn do số vòng luân chuyển của TSNH nhanh hay chậm. Nếu quy mô
kinh doanh không thay đổi, việc tăng tốc độ luân chuyển tài sản ngắn hạn giúp
13
cho doanh nghiệp tiết kiệm được một lượng tài sản có thể rút ra khỏi luân
chuyển dùng vào việc khác. Công thức xác định số tiền tiết kiệm, lãng phí tuyệt
đối do tốc độ luân chuyển của tài sản ngắn hạn thay đổi:
tktđ1 = M0(T1 –
T0)
Nếu quy mô kinh doanh được mở rộng, việc tăng tốc độ luân chuyển tài
sản ngắn hạn đã giúp doanh nghiệp không cần tăng thêm tài sản ngắn hạn hoặc
đầu tư tài chính ngắn hạn ít hơn so với trước. Công thức xác định số tiền tiết
kiệm, lãng phí tương đối do tốc độ luân chuyển tài sản ngắn hạn thay đổi:
= M1(T1
– T0)
Trong đó:
tktđ1 : số tiền tiết kiệm, lãng phí tuyệt đối
: số tiền tiết kiệm, lãng phí tương đối
M0, M1: lần lượt là doanh thu thuần của kỳ trước, kỳ này
T0, T1: lần lượt là số vòng luân chuyển TSNH kỳ trước, kỳ này
1.3.2.4. Chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lời tài sản ngắn hạn
Hệ số sinh lời của tài sản ngắn hạn:
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tài sản ngắn hạn. Nó cho biết
mỗi đơn vị tài sản ngắn hạn có trong kỳ đem lại bao nhiêu đơn vị lợi nhuận sau
thuế.
Hệ số sinh lời của TSNH =
i nhuận sau thuế
TSNH trong kỳ
Chỉ tiêu này cao phản ánh lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp cao, các
doanh nghiệp đều mong muốn chỉ số này càng cao càng tốt vì như vậy đã sử
dụng được hết giá trị của tài sản ngắn hạn. Hiệu quả của việc sử dụng tài sản
ngắn hạn thể hiện ở lợi nhuận của doanh nghiệp, đây chính là kết quả cuối cùng
mà doanh nghiệp đạt được. Kết quả này phản ánh hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn nói riêng. Với công
thức trên ta thấy, nếu tài sản ngắn hạn sử dụng bình quân trong kỳ thấp mà lợi
nhuận sau thuế cao thì hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn cao.
14
1.3.3. Hiệu quả sử dụng tài sản dài hạn
1.3.3.1. Phân tích quy mô và cơ cấu tài sản dài hạn
Phân tích quy mô và cơ cấu tài sản dài hạn của doanh nghiệp được thực hiện
bằng cách tính ra và so sánh tình hình biến động giữa kỳ phân tích với kỳ gốc về tỷ
trọng của từng bộ phận tài sản dài hạn chiếm trong tổng số tài sản dài hạn.
Tỷ trọng của từng bộ phận TSDH chiếm
trong tổng số TSDH
=
x100
Việc tính rõ tỷ trọng của từng bộ phận TSDH trong tổng số TSDH của doanh
nghiệp giúp cho nhà quản lý đánh giá được khái quát tình hình phân bổ vốn dành cho
từng bộ phận TSDH, giúp nhà quản lý biết được việc sử dụng vốn đã huy động vào
TSDH có phù hợp với lĩnh vực kinh doanh và có phục vụ tích cực cho mục đích kinh
doanh của doanh nghiệp hay không. Kết hợp với việc so sánh sự biến động giữa kỳ
phân tích với kỳ gốc thì các nhà quản lý sẽ đánh giá được chính xác các nhân tố ảnh
hưởng và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố này đến sự biến động về cơ cấu TSDH.
Qua đó sẽ rút ra được những chính sách thay đổi hợp lý cho từng bộ phận của TSDH
để tối đa hóa lợi ích cho doanh nghiệp.
1.3.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hiệu quả sử dụng tài sản dài hạn
Hiệu suất sử dụng tài sản dài hạn:
Hiệu suất sử dụng tài sản dài hạn =
Chỉ tiêu này cho biết một đơn vị giá trị TSDH trong kỳ tạo ra bao nhiêu
đơn vị doanh thu. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng TSDH càng
cao.
Hệ số sinh lợi tài sản dài hạn:
Hệ số sinh lợi TSDH =
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lợi của TSDH. Nó cho biết mỗi đơn
vị giá trị TSDH có trong kỳ đem lại bao nhiêu đơn vị lợi nhuận sau thuế.
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định:
Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản cố định thì sẽ tạo ra bao nhiêu
đồng doanh thu. Chỉ tiêu này càng cao, hiệu quả sử dụng TSCĐ của doanh
nghiệp ngày càng lớn. Hiệu suất TSCĐ được thể hiện qua công thức:
Hiệu suất sử dụng TSCĐ =
15
Để nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ, một mặt phải nâng cao quy mô về
kết quả đầu ra, mặt khác phải sử dụng hợp lý và tiết kiệm về cơ cấu của TSCĐ.
Hệ số hao mòn TSCĐ:
Hệ số hao mòn TSCĐ có thể xác định theo 2 cách:
Theo thời gian sử dụng TSCĐ:
Hệ số hao mòn TSCĐ =
Theo tổng số tiền trích khấu hao:
Hệ số hao mòn TSCĐ =
Chỉ tiêu hệ số hao mòn TSCĐ càng gần tới 1, chứng tỏ TSCĐ của doanh
nghiệp đã quá cũ, lỗi thời, doanh nghiệp phải chú trọng đến việc đổi mới và hiện
đại hóa TSCĐ. Ngược lại, nếu hệ số hao mòn càng nhỏ hơn 1 bao nhiêu, chứng
tỏ TSCĐ của doanh nghiệp đã được đổi mới càng nhiều.
1.4. Các nhân tố ảnh hƣởng đến hiệu quả sử dụng tài sản trong doanh nghiệp
Để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản, ngoài việc tính toán và phân tích các chỉ
tiêu trên, doanh nghiệp cũng cần hiểu rõ các nhân tố tác động tới hiệu quả sử dụng tài
sản. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp sẽ đưa ra các chiến lược và kế hoạch phù hợp với
từng giai đoạn để có thể phát huy hiệu quả sử dụng tài sản một cách tối đa giúp cho
doanh nghiệp đạt được những mục tiêu đã đề ra.
1.4.1. Các nhân tố chủ quan
1.4.1.1. Trình độ cán bộ quản lý và tay nghề của công nhân
Có thể nói, con người là nhân tố quan trọng trong bất cứ hoạt động nào. Trong
hoạt động sản xuất – kinh doanh cũng vậy, con người đóng vai trò quyết định đến hiệu
quả hoạt động nói chung và hiệu quả sử dụng tài sản nói riêng, đặc biệt là trình độ cán
bộ quản lý và tay nghề người công nhân.
Trước hết, về trình độ cán bộ quản lý: Trình độ cán bộ quản lý thể hiện ở trình độ
chuyên môn nhất định, khả năng tổ chức, quản lý và ra quyết định.
Nếu cán bộ quản lý có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, khả năng tổ
chức, quản lý tốt đồng thời đưa ra những quyết định đúng đắn, phù hợp với tình hình
của doanh nghiệp và tình hình thị trường thì hiệu quả sử dụng tài sản cao, mang lại
nhiều lợi ích cho doanh nghiệp. Nếu khả năng tổ chức, quản lý kém, quyết định sai
lầm thì tài sản sẽ không được sử dụng một cách hiệu quả dẫn đến doanh nghiệp có thể
thua lỗ, thậm chí phá sản. Như vậy, trình độ cán bộ quản lý đóng vai trò hết sức quan
16
trọng đối với việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản trong doanh nghiệp. Do đó, yêu
cầu đối với bộ phận này là rất cao, họ cần có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, có
tinh thần trách nhiệm cao, năng động, sáng tạo nhằm đưa ra các quyết định đúng đắn,
kịp thời cho doanh nghiệp.
Thứ hai, về trình độ tay nghề của công nhân: bộ phận công nhân là bộ phận trực
tiếp tạo ra sản phẩm, dịch vụ, trực tiếp tiếp xúc với khách hàng nên là nhân tố trực tiếp
sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Đối với công nhân sản xuất có tay nghề cao, có khả
năng tiếp thu công nghệ mới, phát huy được tính sáng tạo, tự chủ trong công việc, có ý
thức giữ gìn và bảo quản tài sản trong quá trình vận hành thì tài sản sẽ được sử dụng
hiệu quả hơn đồng thời sẽ tạo ra sản phẩm, dịch vụ chất lượng cao, hạ giá thành góp
phần nâng cao hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp. Ngược lại, nếu trình độ tay
nghề người công nhân thấp, không nắm bắt được các thao tác kỹ thuật, ý thức bảo
quản máy móc kém sẽ dẫn đến tình trạng sử dụng lãng phí nguyên vật liệu, giảm tuổi
thọ của máy móc làm tăng giá thành, giảm chất lượng sản phẩm. Điều đó có thể làm
giảm doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp dẫn đến hiệu quả sử dụng tài sản giảm
1.4.1.2. Tổ chức sản xuất - kinh doanh
Một quy trình sản xuất – kinh doanh hợp lý sẽ khắc phục được tình trạng
chồng chéo chức năng, nhiệm vụ giữa các khâu, góp phần tiết kiệm nguồn lực,
tăng năng suất lao động, giảm chi phí bất hợp lý, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao
hiệu quả sử dụng tài sản, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, một doanh nghiệp có chiến lược kinh doanh tốt, có nhiều giải pháp
thực hiện chiến lược phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của doanh nghiệp trong từng
thời kỳ và phù hợp với nhu cầu thị trường thì hiệu quả sử dụng tài sản sẽ cao.
Ngoài ra, sự tiến bộ của khoa học và công nghệ cũng đóng vai trò quan trọng
trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp tiếp
cận kịp thời với sự tiến bộ của khoa học, công nghệ để đổi mới trang thiết bị thì sẽ
giảm được hao mòn vô hình của tài sản cố định, nâng cao chất lượng, đổi mới sản
phẩm, hạ giá thành và nâng cao sức cạnh tranh cho doanh nghiệp.
1.4.1.3. Đặc điểm sản xuất – kinh doanh
Đây là nhân tố có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sử dụng tài sản của
doanh nghiệp. Doanh nghiệp có đặc điểm khác nhau về ngành nghề kinh doanh sẽ
đầu tư vào tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn khác nhau. Tỷ trọng tài sản ngắn hạn
và tài sản dài hạn khác nhau nên hệ số sinh lợi của tài sản cũng khác nhau. Doanh
nghiệp có đặc điểm hàng hoá khác nhau và đối tượng khách hàng khác nhau nên
chính sách tín dụng thương mại cũng khác nhau dẫn đến tỷ trọng khoản phải thu
17
khác nhau. Như vậy, đặc điểm sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp tác động
quan trọng đến hiệu quả sử dụng tài sản, ảnh hưởng trực tiếp đến cơ cấu tài sản,
vòng quay và hệ số sinh lợi của tài sản.
1.4.1.4. Năng lực quản lý tài sản của doanh nghiệp
Quản lý tài sản một cách khoa học, chặt chẽ sẽ góp phần làm tăng hiệu quả sử
dụng tài sản của doanh nghiệp. Quản lý tài sản của doanh nghiệp được thể hiện chủ
yếu trong các nội dung sau:
Quản lý tiền mặt: Quản lý tiền mặt là quyết định mức tồn quỹ tiền mặt, cụ thể là
đi tìm bài toán tối ưu để ra quyết định cho mức tồn quỹ tiền mặt sao cho tổng chi phí
đạt tối thiểu mà vẫn đủ để duy trì hoạt động bình thường của doanh nghiệp.
Quản lý dự trữ, tồn kho: Trong quá trình luân chuyển vốn ngắn hạn phục vụ cho
sản xuất – kinh doanh thì hàng hóa dự trữ, tồn kho có ý nghĩa rất lớn cho hoạt động
của doanh nghiệp, nó như tấm đệm an toàn giữa các giai đoạn khác nhau trong chu kỳ
sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp do các hoạt động này diễn ra không đồng bộ.
Vì vậy, căn cứ vào kế hoạch sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp, khả năng sẵn
sàng cung ứng của nhà cung cấp cùng với những dự đoán biến động của thị trường,
doanh nghiệp cần xác định một mức tồn kho hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
tài sản ngắn hạn cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp.
Quản lý các khoản phải thu: Trong nền kinh tế thị trường, việc mua bán chịu hay
còn gọi là tín dụng thương mại là một hoạt động không thể thiếu đối với mọi doanh
nghiệp. Do đó, trong các doanh nghiệp hình thành khoản phải thu. Nội dung chủ yếu
của chính sách quản lý các khoản phải thu bao gồm: Phân tích khả năng tín dụng của
khách hàng, phân tích đánh giá khoản tín dụng được đề nghị, theo dõi các khoản phải
thu.
Quản lý các khoản đầu tư tài chính dài hạn: Kết quả tài chính cuối cùng của hoạt
động đầu tư tài chính dài hạn chính là tổng mức lợi nhuận. Tổng mức lợi nhuận là
phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí hoạt động đầu tư tài chính của
doanh nghiệp. Ngoài việc so sánh theo hướng xác định mức biến động tuyệt đối và
mức biến động tương đối chỉ tiêu tổng mức lợi nhuận thu được từ hoạt động đầu tư tài
chính dài hạn, còn phân tích sự biến động tổng mức lợi nhuận do ảnh hưởng của 3
nhân tố: Tổng doanh thu hoạt động đầu tư tài chính dài hạn, mức chí phí để tạo ra một
đồng doanh thu từ hoạt động đầu tư tài chính dài hạn, mức lợi nhuận được tạo từ một
đồng chi phí hoạt động đầu tư tài chính dài hạn.
Quản lý tài sản cố định:
18
Để đạt được các chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng tài sản cố định, doanh nghiệp phải
xác định quy mô và chủng loại tài sản cần thiết cho quá trình sản xuất – kinh doanh.
Đây là vấn đề thuộc đầu tư xây dựng cơ bản, đòi hỏi doanh nghiệp phải cân nhắc kỹ
càng các quyết định về đầu tư dựa trên cơ sở các nguyên tắc và quy trình phân tích dự
án đầu tư. Nếu mua nhiều tài sản cố định mà không sử dụng hết sẽ gây ra sự lãng phí
vốn, song nếu phương tiện không đủ so với lực lượng lao động thì năng suất sẽ giảm.
Trên cơ sở một lượng tài sản cố định đã mua sắm, một mặt doanh nghiệp phải tận
dụng tối đa thời gian và hiệu suất của máy, thực hiện an toàn, tiết kiệm trong vận hành
máy, cố gắng khấu hao nhanh để sớm đổi mới và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ
thuật tiên tiến, hiện đại. Điều đó sẽ tạo tiền đề cho doanh nghiệp luôn luôn được đổi
mới theo hướng tích cực, hiện đại, cung cấp những sản phẩm, dịch vụ phù hợp với nhu
cầu của thị trường, mang tính cạnh tranh cao.
Việc đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định cho thấy khấu hao có tác động lớn
đến các chỉ tiêu. Do đó, doanh nghiệp cần xác định phương pháp tính khấu hao tài sản
cố định cho thích hợp. Bên cạnh việc xác định phương pháp khấu hao thích hợp thì để
nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản, doanh nghiệp cũng cần thường xuyên tiến hành
đánh giá, kiểm kê TSCĐ. Điều này giúp cho nhà quản lý nắm được chính xác số
TSCĐ của doanh nghiệp, tình hình sử dụng cũng như giá trị thực tế của tài sản đó.
1.4.1.5. Công tác thẩm định dự án
Công tác thẩm định dự án và đặc biệt là thẩm định tài chính dự án có vai trò rất
quan trọng đối với hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả
sử dụng tài sản của doanh nghiệp.
Nếu công tác thẩm định tài chính dự án được thực hiện theo một quy trình chặt
chẽ với đội ngũ cán bộ thẩm định có trình độ chuyên môn vững vàng thì dự án sẽ được
đánh giá một cách chính xác về mức độ cần thiết của dự án đối với doanh nghiệp, quy
mô của dự án, chi phí, lợi ích của dự án mang lại và cả những rủi ro có thể gặp phải
trong tương lai. Điều này giúp cho doanh nghiệp có những quyết định đầu tư đúng đắn
góp phần nâng cao sức mạnh cạnh tranh, mở rộng thị trường tiêu thụ, tăng doanh thu
và tăng lợi nhuận làm cho hiệu suất sử dụng tổng tài sản và hệ số sinh lợi tổng tài sản
tăng. Ngược lại, công tác thẩm định tài chính dự án không hiệu quả sẽ dẫn đến những
quyết định đầu tư sai lầm hoặc doanh nghiệp có thể bỏ qua các cơ hội đầu tư do dự án
bị đánh giá sai. Quyết định đầu tư sai lầm sẽ dẫn đến hiệu quả nghiêm trọng. Nếu đầu
tư quá nhiều, không đúng hướng, hoặc đầu tư không đồng bộ sẽ dẫn đến tình trạng
lãng phí vốn, làm giảm hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Nếu đầu tư quá ít không
đáp ứng đủ nhu cầu thị trường, từ đó có thể bị mất thị trường, giảm khả năng cạnh
19
tranh. Tất cả các đều này đều dẫn đến tài sản không được khai thác một cách triệt để
và làm giảm hiệu quả sử dụng tài sản.
1.4.1.6. Khả năng huy động vốn và cơ cấu vốn
Vốn là điều kiện không thể thiếu được để một doanh nghiệp được thành lập và
tiến hành các hoạt động sản xuất – kinh doanh. Vốn là nguồn hình thành nên tài sản.
Vì vậy, khả năng huy động vốn cũng như vấn đề cơ cấu vốn sẽ có ảnh hưởng lớn đến
hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp.
Nếu doanh nghiệp có khả năng huy động vốn lớn sẽ là cơ hội để mở rộng quy mô
sản xuất – kinh doanh, đa dạng hoá các hoạt động đầu tư làm tăng doanh thu cho
doanh nghiệp và từ đó làm tăng hiệu suất sử dụng tổng tài sản. Bên cạnh đó, nếu
doanh nghiệp duy trì được cơ cấu vốn hợp lý thì chi phí vốn sẽ giảm, góp phần làm
giảm chi phí kinh doanh, tăng lợi nhuận và do đó hệ số sinh lợi tổng tài sản sẽ tăng.
1.4.2. Các nhân tố khách quan
1.4.2.1. Môi trường kinh tế
Nhân tố này thể hiện các đặc trưng của hệ thống kinh tế trong đó các doanh
nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất – kinh doanh như: chu kỳ phát triển kinh tế, tăng
trưởng kinh tế, hệ thống tài chính - tiền tệ, tình hình lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp, các
chính sách tài chính – tín dụng của Nhà nước.
Nền kinh tế nằm trong giai đoạn nào của chu kỳ phát triển kinh tế, tăng trưởng
kinh tế sẽ quyết định đến nhu cầu sản phẩm cũng như khả năng phát triển các hoạt
động sản xuất – kinh doanh của các doanh nghiệp.
Hệ thống tài chính - tiền tệ, lạm phát, thất nghiệp và các chính sách tài khoá của
chính phủ có tác động lớn tới quá trình ra quyết định sản xuất – kinh doanh và kết quả
hoạt động của doanh nghiệp. Nếu tỷ lệ lạm phát cao thì hiệu quả sử dụng tài sản thực
của doanh nghiệp sẽ khó có thể cao được do sự mất giá của đồng tiền. Ngoài ra, chính
sách tài chính - tiền tệ cũng tác động lớn đến hoạt động huy động vốn cũng như hiệu
quả sử dụng vốn, tài sản của doanh nghiệp.
Trong điều kiện nền kinh tế mở cửa, doanh nghiệp còn chịu tác động của thị
trường quốc tế. Sự thay đổi chính sách thương mại của các nước, sự bất ổn của nền
kinh tế các nước tác động trực tiếp đến thị trường đầu vào và đầu ra của doanh nghiệp.
Như vậy, những thay đổi của môi trường kinh tế ngày càng có tác động mạnh
đến hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp, tạo cho doanh nghiệp những
thuận lợi đồng thời cả những khó khăn. Do đó, doanh nghiệp phải luôn đánh giá và dự
báo những thay đổi đó để có thể đưa ra những biện pháp thích hợp nhằm tranh thủ
20
- Xem thêm -