CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN
NGẮN HẠN TRONG DOANH NGHIỆP
1.1. Những vấn đề cơ bản về tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm về tài sản ngắn hạn
Doanh nghiệp nào khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đều cần phải trả
lời ba câu hỏi: sản xuất cái gì, sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào. Trong nền kinh
tế thị trường như hiện nay, dưới sức ép cạnh tranh gay gắt, các doanh nghiệp đều phải
tự giải đáp cho mình những câu hỏi trên với mục đích cuối cùng đó là quản lý ra sao,
đưa ra những kế hoạch phát triển thế nào để doanh nghiệp thu về lợi nhuận tối đa.
Tài sản là giá trị cơ bản mà doanh nghiệp cần có trong quá trình sản xuất kinh
doanh. Do đó, quản lý tài sản là một trong những nội dung quan trọng trong quản trị
tài chính. Mục tiêu hướng tới của việc quản lý tài sản là đảm bảo cho quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp ổn định và đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.
Để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp một cách
hiệu quả, ngoài những tài sản dài hạn thì những tài sản ngắn hạn là một phần không
thể thiếu giúp cho quá trình sản xuất, kinh doanh được diễn ra thường xuyên và liên
tục. Trong doanh nghiệp tài sản ngắn hạn gồm: tài sản ngắn hạn trong khâu lưu thông
và tài sản ngắn hạn trong khâu sản xuất.
Mọi doanh nghiệp muốn tiến hành sản xuất kinh doanh đều cần chú trọng quản
lý tài sản ngắn hạn sao cho hợp lý để đạt được hiệu quả kinh doanh tốt nhất. So với tài
sản dài hạn, tài sản ngắn hạn quay vòng nhanh hơn, vì thế việc quản lý tài sản ngắn
hạn có quyết định không nhỏ đến doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp. Tùy theo
loại hình doanh nghiệp mà cơ cấu tài sản ngắn hạn khác nhau để phù hợp với mô hình
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó.
Từ những phân tích trên thì đây là khái niệm đầy đủ nhất về tài sản ngắn hạn:
“Tài sản ngắn hạn (TSNH) là những tài sản thuộc quyền sở hữu và quản lý của doanh
nghiệp, có thời gian sử dụng, luân chuyển, thu hồi vốn trong một chu kỳ kinh doanh
hoặc trong một năm. Trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp, tài sản ngắn hạn
được thể hiện ở các bộ phận tiền mặt, các chứng khoán thanh khoản cao, các khoản
đầu tư tài chính ngắn hạn, khoản phải thu, dự trữ tồn kho và các tài sản ngắn hạn
khác. Giá trị các loại TSNH của doanh nghiệp kinh doanh, sản xuất thường chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng giá trị tài sản của chung. Quản lý sử dụng hợp lý các loại TSNH
có ảnh hưởng rất quan trọng đối với việc hoàn thành nhiệm vụ chung của doanh
nghiệp.” [2, tr.214-215]
1
1.1.2. Đặc điểm của tài sản ngắn hạn
Tài sản ngắn hạn là những tài sản thường xuyên luân chuyển trong quá trình sản
xuất kinh doanh, giúp duy trì hoạt động sản xuất liên tục, ổn định và không bị gián
đoạn. Vì thế tài sản ngắn hạn có những đặc điểm như sau:
Thứ nhất, tài sản ngắn hạn biểu hiện qua các hình thái khác nhau như: tiền, các
khoản tương đương tiền, khoản phải thu khách hàng, hàng tồn kho và các tài sản khác.
Những khoản mục này tương ứng như sau: tiền và các tài sản tương đương tiền hay
chứng khoán khả thị đảm bảo khả năng thanh toán cho doanh nghiệp, hàng tồn kho
được sử dụng trong khâu sản xuất kinh doanh, các khoản phải thu khách hàng dùng để
ghi nhận các khoản tín dụng thương mại, các tài sản ngắn hạn khác dùng để tạm ứng,
chi trả các khoản chi phí trả trước và thế chấp, ký quỹ ngắn hạn,…
Thứ hai, tài sản ngắn hạn thường luân chuyển trong một năm hoặc trong một
chu kỳ kinh doanh, nó vận động luân chuyển không ngừng trong mọi quá trình sản
xuất kinh doanh, TSNH như tiền mặt, hàng tồn kho thường được sử dụng trong một
chu kỳ kinh doanh, phân biệt với tài sản dài hạn như thiết bị, máy móc,…thường được
dùng trong nhiều năm và trích khấu hao. Do đó nó hoàn thành một vòng tuần hoàn sau
mỗi chu kỳ kinh doanh.
Thứ ba, tài sản ngắn hạn có tính thanh khoản cao, dễ dàng chuyển hóa từ dạng
vật chất sang tiền tệ, vì thế nó đáp ứng kịp thời khả năng thanh toán khi doanh nghiệp
cần. Tuy nhiên, điều này lại gây khó khăn, trở ngại cho quản lý trong việc chuyển đổi,
dễ bị thất thoát do sự chệnh lệch giá trị trong từng thời điểm quy đổi tài sản ngắn hạn.
Thứ tƣ, tài sản ngắn hạn tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh
với tư cách là tư liệu lao động hoặc đối tượng lao động.
Thứ năm, tài sản ngắn hạn có thời gian sử dụng ngắn, toàn bộ giá trị tài sản
ngắn hạn được thu về sau khi kết thúc một chu kỳ kinh doanh.
Thứ sáu, lợi nhuận đầu tư vào tài sản ngắn hạn là lợi nhuận gián tiếp. Tài sản
ngắn hạn thường thay đổi hình thái vật chất ban đầu để tạo thành thực thể của sản
phẩm. Điển hình như doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, hàng tồn kho dùng với mục
đích sản xuất thường qua một quá trình biến đổi để thành thành phẩm - hàng hóa hoàn
chỉnh trước khi được bán ra thị trường.
Dựa trên các đặc điểm cơ bản của tài sản ngắn hạn, doanh nghiệp hiểu được
những đặc thù đặc trưng của tài sản ngắn hạn, từ đó đưa ra các cách thức quản lý hiệu
quả, hợp lý cho tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp.
2
Thang Long University Library
1.1.3. Phân loại tài sản ngắn hạn
Trong quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, dựa trên tính chất vận
động của tài sản ngắn hạn, có thể phân loại tài sản ngắn hạn như sau:
1.1.3.1. Phân loại tài sản ngắn hạn theo lĩnh vực tham gia luân chuyển:
Theo tiêu chí này thì tài sản ngắn hạn được chia thành 3 loại:
Tài sản ngắn hạn sản xuất: bao gồm các tài sản dự trữ cho quá trình sản xuất
như nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu,…và tài sản trong sản xuất như sản phẩm dở
dang, bán thành phẩm…
Tài sản ngắn hạn lưu thông: là các tài sản dự trữ trong quá trình lưu thông của
doanh nghiệp gồm: thành phẩm, hàng gửi bán và các tài sản trong quá trình lưu thông
như các khoản phải thu, vốn bằng tiền.
Tài sản ngắn hạn tài chính: là những khoản đầu tư tài chính ngắn hạn với mục
đích sinh lời gồm: đầu tư chứng khoáng ngắn hạn, đầu tư liên doanh…
Với cách phân chia này, giúp doanh nghiệp xác định tỷ trọng tài sản ngắn hạn
trong từng khâu. Do đó, nhà quán lý sẽ kịp thời điều chỉnh khi xuất hiện những dấu
hiệu bất ổn trong việc phân bổ ở các khâu. Đặc biệt trong khâu lưu thông, khi tỷ trọng
tài sản ngắn hạn tăng lên đồng nghĩa với doanh nghiệp đang bị ứ đọng vốn.
1.1.3.2. Phân loại tài sản ngắn hạn theo mục đích sử dụng trong công tác quản lý
doanh nghiệp
Công tác quản lý doanh nghiệp gồm cả quản lý hành chính và quản lý kinh
doanh. Tài sản ngắn hạn được sử dụng gồm:
Công cụ, dụng cụ văn phòng phẩm: bút, mực, giấy, bàn, ghế,…
Vật liệu cho văn phòng, cho các phương tiện vận tải.
Khoản tạm ứng: tiếp khách, hội nghị, đào tạo nhân viên,…
Phân loại theo cách thức này giúp doanh nghiệp quản lý được các chi phí bỏ ra
cho quản lý hành chính và kinh doanh, từ đó cân đối các khoản chi sao cho hợp lí nhất,
tiết kiệm nhất.
1.1.3.3. Phân loại tài sản ngắn hạn theo các khoản mục trên bảng cân đối kế toán
Căn cứ theo các khoản mục trên bảng cân đối kế toán, tài sản ngắn hạn bao
gồm: tiền và các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, khoản phải thu khách hàng, hàng
tồn kho và tài sản ngắn hạn khác.
3
Tiền và các khoản tƣơng đƣơng tiền (Cash and cash equivalents): thuộc
khoản mục 110 của bảng cân đối kế toán, là chỉ tiêu tài chính có tính thanh khoản cao
nhất trong mục tài sản ngắn hạn của bảng cân đối kế toán. Tiền bao gồm tiền mặt tại
quỹ, tiền gửi, tiền đang chuyển và các khoản tiền gửi không kỳ hạn.
Tiền mặt là số vốn bằng tiền do thủ quỹ bảo quản tại quỹ (két) của doanh
nghiệp bao gồm: Tiền Việt Nam, ngoại tệ, vàng bạc, đá quý, kim cương quý, tín phiếu
và ngân phiếu. Tiền gửi là số tiền mà doanh nghiệp gửi tại các ngân hàng, kho bạc nhà
nước hoặc các công ty tài chính bao gồm: Tiền Việt Nam, các loại ngoại tệ, vàng bạc,
đá quý,…Tiền đang chuyển là khoản tiền mặt, tiền séc đã xuất khỏi quỹ của doanh
nghiệp đã nộp vào Ngân hàng, Kho bạc Nhà nước, đã gửi vào Bưu điện để trả cho các
đơn vị khác nhưng chưa nhận được giấy báo của Ngân hàng. [1, tr.33-45]
Tương đương tiền là các khoản đầu tư ngắn hạn (không quá 3 tháng), có khả
năng chuyển đổi dễ dàng thành một lượng tiền xác định và không có nhiều rủi ro trong
việc chuyển đổi thành tiền. Tuy không phải là tiền mặt, nhưng do khả năng chuyển đổi
thành tiền dễ dàng nên các khoản tương đương tiền vẫn được trình bày trong bảng cân
đối kế toán cùng với tiền mặt trong khoản mục “Tiền và các khoản tương đương tiền”.
Đầu tƣ tài chính ngắn hạn (Short-term financial investment): là chỉ tiêu tài
sản ngắn hạn thuộc khoản mục 120 trong bảng cân đối kế toán, chỉ tiêu này phản ánh
giá trị thực của các khoản đầu tư tài chính như đầu tư vào chứng khoán ngắn hạn và
đầu tư ngắn hạn khác và dự phòng giảm giá các khoản đầu tư. Các khoản đầu tư tài
chính ngắn hạn này không bao gồm các khoản đầu tư ngắn hạn là tiền gửi dưới 3 tháng
(đã trình bày ở phần “Tương đương tiền”). Đây là khoản vừa có khả năng sinh lời vừa
có tính thanh khoản cao.
Trong đầu tư ngắn hạn, việc đầu tư cho các chứng khoán có tính thanh khoản
cao hết sức quan trọng, nó được sử dụng để duy trì tiền mặt ở mức độ mong muốn.
Nếu số dư tiền mặt lớn, doanh nghiệp có thể sử dụng đầu tư chứng khoán, nhưng khi
cần thiết có thể chuyển đổi thành tiền dễ dàng và ít tốn kém. Khi doanh nghiệp có nhu
cầu thanh toán mà tiền không đáp ứng đủ thì doanh nghiệp sẽ bán các chứng khoán
này.
Các khoản phải thu ngắn hạn “Short-term receivables”: Các khoản phải thu
ngắn hạn thuộc khoản mục 130 trong bảng cân đối kế toán, là một loại tài sản của
doanh nghiệp tính dựa trên tất cả các khoản nợ hoặc các khoản chưa thanh toán của
khách hàng. Các khoản phải thu được kế toán ghi lại và phản ảnh cụ thể trên bảng cân
đối kế toán, bao gồm tất cả các khoản nợ chưa đòi được, tính cả các khoản nợ chưa
4
Thang Long University Library
đến hạn thanh toán. Các khoản phải thu được khi nhận như là tài sản của doanh nghiệp
vì chúng phản ánh các khoản tiền sẽ được thanh toán trong tương lai.
Hàng tồn kho: thuộc khoản mục 140 trong bảng cân đối kế toán, là tất cả các
nguồn dự trữ nhằm đáp ứng cho nhu cầu hiện tại và tương lai. Hàng tồn kho không chỉ
có tồn kho thành phẩm mà còn có tồn kho sản phẩm dở dang, tồn kho nguyên vật liệu,
công cụ, dụng cụ,…Trong một doanh nghiệp bao giờ hàng tồn kho cũng chiếm tỷ
trọng tương đối lớn, thông thường từ 30-50% tổng tài sản. Chính vì thế, việc kiểm soát
tốt hàng tồn kho luôn là vấn đề hết sức cần thiết và chủ yếu trong quản trị sản xuất tác
nghiệp.
Dự trữ hàng tồn kho gồm: hàng mua đi đường, nguyên vật, vật liệu chính, vật
liệu phụ, sản phẩm dở dang, thành phẩm, công cụ, dụng cụ trong kho, bao bì, vật liệu
đóng gói, hàng hóa tồn kho, thành phẩm tồn kho, hàng hóa gửi bán,…
Việc dự trữ mặc dù mất chi phí nhưng nó cũng mang lại lợi ích cho doanh
nghiệp, chẳng hạn như doanh nghiệp dự trữ một lượng nguyên vật liệu nhất định thì
sẽ không bị mất cơ hội khi thị trường khan hiếm nguyên vật liệu này, hơn thế nữa sau
khi tạo ra thành phẩm sẽ mang về lợi nhuận cao hơn. Nếu doanh nghiệp dự trữ một
lượng nhỏ nguyên vật liệu, khi thị trường trở nên khan hiếm sẽ đánh mất cơ hội sinh
lời hoặc phải bỏ chi phí cao hơn cho nguyên vật liệu đó làm giảm lợi nhuận thu về.
Tuy nhiên không phải lúc nào dự trữ một lượng lớn nguyên vật liệu cũng sẽ thu về lợi
nhuận hay tăng khả năng sinh lời, thị trường biến động, giá cả bình ổn một thời gian
cũng có thể tăng giảm thất thường do nhu cầu cũng như nguồn cung hàng hóa.
Vì vậy, muốn quản lý hiệu quả hàng tồn kho cần phải trả lời được 2 câu hỏi:
Lượng đặt hàng bao nhiêu là tối ưu ?
Khi nào tiến hành đặt hàng ?
Hiện nay mô hình cơ bản để doanh nghiệp tính toán dự trữ hàng tồn kho là mô
hình EOQ, ngoài ra còn có mô hình POQ.
- Mô hình lƣợng đặt hàng kinh tế cơ bản (EOQ – The Basic Economic Order
Quantity Model): Mô hình này là một trong những kỹ thuật kiểm soát hàng tồn kho
phổ biến và lâu đời nhất. Nó được nghiên cứu và đề xuất từ năm 1915 do ông
Ford.W.Harris đề xuất nhưng đến nay nó vẫn được hầu hết các doanh nghiệp sử dụng.
Khi sử dụng mô hình này cần phải tuân theo một số giả định:
- Nhu cầu vật tư trong một năm được biết trước, ổn định.
- Thời gian chờ hàng về (kể từ khi đặt hàng cho tới lúc hàng về) không đổi và
phải được biết trước.
5
- Sự thiếu hụt dự trữ hoàn toàn không xảy ra nếu đơn hàng được thực hiện
đúng.
- Toàn bộ số lượng đặt hàng cùng nhận một lúc.
- Không có chiến khấu theo số lượng.
Theo như mô hình này có hai loại chi phí thay đổi theo lượng đặt hàng là chi
phí đặt hàng và chi phí lưu kho. Mục tiêu của mô hình là tối thiểu hóa tổng chi phí lưu
kho và tổng chi phí đặt hàng. Hai chi phí này phản ứng ngược chiều nhau. Khi quy mô
đơn hàng tăng lên, ít đơn hàng sẽ làm cho chi phí đặt hàng giảm, trong khi đó mức dự
trữ bình quân cao lên dẫn đến chi phí lưu kho tăng. Do đó, trong thực tế lượng đặt
hàng tối ưu là kết quả của sự dung hòa giữa hai chi phí có mối quan hệ tỉ lệ nghịch
này.
Chi phí dự trữ kho
C
Trong đó:
Q/2: Mức dự trữ kho TB
C: Chi phí dự trữ kho cho môt đơn vị vàng.
Chi phí đặt hàng
O
Trong đó:
S: Số lượng cần đặt
S/Q: Số lượng đặt hàng
O: Chi phí một lần đặt hàng
Tổng chi phí đặt hàng = Chi phí dự trữ + Chi phí đặt hàng
Tổng chi phí
C+
O
Mức dự trữ kho tối ưu Q*
Q*
√
6
Thang Long University Library
Đồ thị 1.1 Mức dự trữ tối ƣu
Chi phí
Tổng chi phí
Chi phí dự trữ
Chi phí đặt hàng
Q*
Số lượng đặt hàng
Đồ thị 1.2 Thời điểm đặt hàng
Số lượng
hàng lưu
kho
Mức kho TB
Điểm đặt
hàng
Thời điểm đặt
Thời điểm nhận
Thời gian dự trữ
Điểm đặt hàng có dự trữ an toàn = T
Thời gian
+ Qan toàn
Thời điểm đặt hàng (OP): = T
Khoảng thời gian dự trữ tối ưu: T* = Q*
Về lý thuyết, tính toán thời điểm đặt hàng sẽ phụ thuộc vào các yếu tố như:
- Thời gian từ lúc đặt hàng đến nhận hàng: Nếu thời gian này kéo dài (do nhà
cung cấp hoặc công ty vận chuyển chậm trễ), doanh nghiệp phải tính trước để không bị
7
động. Nghĩa là doanh nghiệp cần dự trù lượng hàng sẽ bán được trong thời gian chờ
đợi và cả hàng cần dự phòng trong trường hợp rủi ro (mức tồn kho tối thiểu).
- Nhu cầu nguyên vật liệu: Nhu cầu tiêu thụ sản phẩm của khách hàng luôn thay
đổi từng ngày. Và nhu cầu của các bộ phận sản xuất cũng thay đổi theo lịch trình sản
xuất. Do đó, nếu đặt hàng không đúng thời điểm, doanh nghiệp có thể rơi vào tình
trạng thiếu hoặc thừa nguyên liệu.
- Tóm lại, để chủ động nguồn hàng nhưng vẫn không bị thua lỗ từ tồn kho lớn,
các doanh nghiệp cần duy trì mức dự trữ vừa phải, biết xác định thời điểm đặt hàng,
ưu tiên dự trữ những mặt hàng bán chạy. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể nhờ phần mềm
kế toán hàng tồn kho hỗ trợ các công đoạn thu thập dữ liệu để có thông tin chuẩn xác
hơn cho công tác dự báo.
- Mô hình ABC trong quản lý hàng tồn kho
Đồ thị 1.3 Quản lý hàng tồn kho theo mô hình ABC
Giá trị tích luỹ ($)
Nhóm
Nhóm C
Nhóm
B
% loại tồn kho
Bằng việc chia hàng lưu kho thành nhiều nhóm, các doanh nghiệp có thể tập
trung vào nhóm mà việc kiểm soát là quan trọng và hiệu quả nhất. Cụ thể như ví dụ
trên, hình vẽ mô tả mức độ kiểm soát giảm dần từ nhóm A đến nhóm B, cuối cùng là
nhóm C. Danh mục thuộc nhóm A được xem xét quản lý thường xuyên và rộng rãi
nhất. Danh mục nhóm B được xem xét và điều chỉnh ít thường xuyên hơn, có thể là
hàng tháng hoặc hàng quý. Danh mục nhóm C được xem xét ít hơn nữa, có thể chỉ
xem lại hàng năm.
Các doanh nghiệp dựa vào mô hình EOQ để tính toán hợp lý được lượng đặt
hàng tối ưu cũng như thời điểm thích hợp để tiếp tục đặt hàng. Đầu tư hàng tồn kho là
quyết định đầu tư ngắn hạn vào tài sản lưu động. Nhà quản trị tài chính cần xem xét và
8
Thang Long University Library
phân tích đánh đổi giữa lợi ích và chi phí sao cho tổng chi phí là nhỏ nhất. Nhà quản
trị có thể sử dụng các mô hình sao cho thích hợp với loại hình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp mình. Từ đó cân nhắc dự trữ lượng hàng hóa hoặc nguyên vật liệu thích
hợp cho quá trình sản xuất kinh doanh nhằm đáp ứng vừa đủ khả năng cung ứng
nhưng đồng thời cũng giảm thiếu rủi ro và chi phí nếu có biến động thị trường.
Tài sản ngắn hạn khác: thuộc khoản mục 150, đây là những tài sản lưu động
của doanh nghiệp không thuộc các nhóm trên gồm: tạm ứng, chi phí trả trước, chi phí
chờ kết chuyển, tài sản thiếu chờ xử lý, các khoản cầm cố, ký quỹ, ký cược ngắn
hạn…
- Các khoản tạm ứng: là các khoản tiền hoặc vật tư doanh nghiệp giao cho
người nhận tạm ứng để thực hiện một hoạt động kinh doanh hoặc xử lý một công việc
đã được phê duyệt.
- Chi phí trả trước: là các khoản chi phí thực tế phát sinh nhưng có tác động đến
kết quả hoạt động kinh doanh của nhiều kỳ thanh toán, cho nên chưa thể tính vào chi
phí sản xuất kinh doanh một kỳ mà được tính cho hai hay nhiều kỳ hạch toán.
Phân loại tài sản ngắn hạn theo tiêu chí này giúp doanh nghiệp xem xét, đánh
giá mức tồn kho dự trữ, nhằm đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
1.1.4. Vai trò của tài sản ngắn hạn
Tài sản ngắn hạn thông thường chiếm 25 - 50% tổng giá trị tài sản của doanh
nghiệp, là một bộ phận không thể thiếu và là điều kiện để một doanh nghiệp đi vào
hoạt động sản xuất kinh doanh. Tài sản ngắn hạn giúp cho hoạt động sản xuất kinh
doanh được vận hành một cách thường xuyên, liên tục, không bị gián đoạn. Doanh
nghiệp cần dự trữ cho mình một nguồn tài sản ngắn hạn nhất định và phù hợp để đáp
ứng các chi phí giao dịch gồm phí dịch vụ cho việc mua bán chứng khoán, các khoản
lỗ tiềm tàng do cần phải bán gấp các tài sản còn khả năng sinh lời mặc dù vẫn còn
trong thời gian khấu hao.
Chính vì vậy doanh nghiệp phải luôn dự trữ một khoản tiền hoặc chứng khoán
khả thị đủ để duy trì khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn, giúp cho doanh
nghiệp tránh khỏi tình trạng mất khả năng thanh toán dẫn đến thua lỗ và chặn nguy cơ
phá sản của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, tài sản ngắn hạn khi duy trì ở một mức độ hợp lý giúp đảm bảo
khả năng thanh toán, đem lại cho doanh nghiệp những lợi thế như: được hưởng chiết
khấu thương mại, chiết khẩu thanh toán,… Điều này giúp doanh nghiệp tiết kiệm được
một khoản chi phí đồng thời làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
9
Tài sản ngắn hạn còn hỗ trợ cho các giao dịch có độ trễ về thời gian. Điều này
xuất hiện trong quá trình sản xuất, marketing và thu tiền. Do các giao dịch diễn ra ko
đồng thời, nhiều hoạt động tác động đến vốn lưu động như lưu trữ hàng tồn kho, áp
dụng các chính sách hỗ trợ bán hàng, chiết khấu thanh toán khuyến khích khách hàng
thanh toán sớm, giảm thời gian chuyển tiền khi thu hồi nợ.
Ngoài ra tài sản ngắn hạn còn một vai trò nữa đó là chi trả các chi phí liên quan
đến pháp luật, chi phí gián tiếp trong quản lý. Những chi phí này rất lớn nên được xem
là áp lực tài chính của các nhà quản lý, do đó các nhà quản lý thường có xu hướng dự
trữ một lượng lớn tài sản có tính thanh khoản cao để đảm bảo khả năng thanh toán kịp
thời dù việc này đem lại ít lợi nhuận hơn so với việc đầu tư tài sản dài hạn.
Chính vì thế, việc sử dụng tài sản ngắn hạn hiệu quả có vai trò hết sức quan
trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2. Hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn ngắn hạn của doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn
Mọi doanh nghiệp đều quan tâm đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, sản xuất
hiệu quả thì doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển. Việc khai thác tài sản ngắn
hạn phù hợp với quá trình sản xuất kinh doanh sẽ giúp cho doanh nghiệp tối đa hóa lợi
nhuận và tăng giá trị tài sản của chủ sở hữu. Bên cạnh đó, xét nguồn hình thành của
TSNH cũng cho biết doanh nghiệp đó sử dụng TSNH có hiệu quả hay không. Có thể
chia nguồn hình thành TSNH làm 3 loại chính: TSNH được hình thành từ 100% vốn
CSH, TSNH được hình thành từ vốn CSH và vay ngắn hạn, TSNH được hình thành từ
100% vay ngắn hạn.
Thứ nhất, TSNH được hình thành từ 100% vốn CSH, đối với doanh nghiệp có
nguồn vốn dồi dào và tiềm lực kinh tế ổn định thì việc đầu tư 100% vốn CSH vào
TSNH cũng không có gì khó khăn, tuy nhiên việc đầu tư này đem lại hiệu quả kinh tế
không cao, nguồn vốn dồi dào chứng tỏ công ty có nhiều cổ đông, khi công ty sử dụng
100% vốn CSH thì chi phí của nó cao hơn chi phí của nợ ngân hàng. Ngoài ra việc đầu
tư bằng vốn CSH cũng không được miễn trừ thuế càng làm cho chi phí cao hơn so với
vay ngắn hạn. Vì thế, dù công ty có tiềm lực kinh tế hay nguồn vốn vững vàng thì hầu
hết các công ty đều không lựa chọn hình thức đầu tư này.
Thứ hai, TSNH được hình thành từ vốn CSH và vay ngắn hạn, hình thức này
được rất nhiều công ty sử dụng, tùy vào quy mô của mỗi công ty mà đầu tư nhiều hay
ít 2 khoản mục này. Việc sử dụng cả vốn CSH và vay ngắn hạn giúp giảm chi phí quản
10
Thang Long University Library
lý và giảm trừ thuế từ vay ngân hàng, lợi nhuận thu về cao hơn nhờ giảm thiểu chi phí.
Cũng vì lẽ đó hầu hết các công ty hiện nay đều áp dụng hình thức đầu tư này.
Thứ ba, TSNH được hình thành từ 100% vay ngắn hạn, có lẽ cách thức này chỉ
được áp dụng với những công ty mà nguồn vốn CSH cạn kiệt và không huy động thêm
được nguồn vốn từ nhà đầu tư, đồng nghĩa công ty đang đứng trước bờ vực phá sản
hoặc đây là một nhà đầu tư hết sức mạo hiểm mới lựa chọn phương thức này. Vì
không phải lúc nào các khoản vay hay đầu tư tài chính ngắn hạn cũng có thể kịp thời
thu hồi đủ để xoay vòng vốn cho chu kỳ kinh doanh tiếp theo, do đó các công ty đang
hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường sẽ không áp dụng cách thức đầu tư này.
Mặt khác, hiệu quả sử dụng TSNH theo nghĩa chung nhất được hiểu là những
lợi ích về mặt xã hội và kinh tế do một hoạt động nào đó mang lại. Vì thế, hiệu quả sử
dụng tài sản ngắn hạn thường được xem xét dưới hai góc độ:
+ Hiệu quả về mặt xã hội: Một doanh nghiệp phát triển ổn định, nợ khách hàng
thấp, thực hiện chính sách tín dụng hợp lý và phát triển phù hợp với tình hình kinh tế
xã hội sẽ có vị thế vững chắc hơn, nhận được nhiều tín nhiệm và tin tưởng hơn so với
doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, uy tín thấp. Đảm bảo một vị trí vững chắc và
phù hợp song song với sự phát triển của xã hội là yếu tố góp phần tăng vị thế cũng như
sức mạnh cho doanh nghiệp.
+ Hiệu quả về mặt kinh tế: Hiệu quả kinh tế đó là sự so sánh giữa yếu tố đầu
vào và kết quả đầu ra hoặc lợi nhuận và chi phí của một hoạt động kinh doanh nào đó,
Hiệu quả kinh tế được đánh giá qua khả năng sinh lời của tài sản ngắn hạn sau một hay
nhiều chu kỳ kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp có phương án quản lý và sử dụng tài sản
khác nhau nhưng đều có cùng mục đích đó là tối đa hóa khả năng sản xuất kinh doanh
và tối thiểu hóa chi phí.
Có thể hiểu, hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn là chỉ tiêu chất lượng phản ánh
mối quan hệ giữa kết quả thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh với số tài sản
ngắn hạn bỏ ra trong kỳ. Hiệu quả tài sản ngắn hạn phản ánh tình hình sử dụng tài sản
ngắn hạn để đạt hiệu quả cao nhất trong kinh doanh đồng thời bỏ ra chi phí thấp nhất
của doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn phản ánh trình độ quản lý và sử
dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp nhằm tối đa hóa lợi ích và thời gian sử dụng
theo các điều lệ cụ thể, phù hợp với mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp.
Tóm lại, “Hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn là một phạm trù kinh tế, phản ánh
tình hình sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp để đạt hiệu quả cao nhất trong
kinh doanh với chi phí thấp nhất.” [4, tr.199]
11
Để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn cần sử dụng các nhóm chỉ tiêu
dưới đây:
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp
1.2.2.1. Các chỉ tiêu về khả năng thanh toán
Do đặc điểm của tài sản ngắn hạn là những tài sản có tính thanh khoản cao, cho
nên việc sử dụng hiệu quả tài sản ngắn hạn là lựa chọn hợp lý khả năng thanh toán và
khả năng sinh lời. Vì thế, khi phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp thường
dùng các chỉ tiêu sau:
Khả năng thanh khoản hiện thời
Tổng tài sản ngắn hạn
Khả năng thanh khoản hiện thời =
Tổng nợ ngắn hạn
Tỷ số khả năng thanh toán hiện thời là thước đo khả năng thanh toán các khoản
nợ ngắn hạn của cả doanh nghiệp, hệ số này cho biết mỗi đồng nợ ngắn hạn phải trả
công ty cần có bao nhiêu đồng tài sản lưu động để thanh toán.
Tỷ số khả năng thanh toán hiện thời lớn hơn 1 tức là Tổng TSNH lớn hơn tổng
nợ ngắn hạn, lúc này các TSNH sẵn có lớn hơn những nhu cầu ngắn hạn, vì thế tình
hình tài chính của công ty là lành mạnh ít nhất trong thời gian ngắn.
Trường hợp tỷ số này nhỏ hơn 1 tức là tổng TSNH nhỏ hơn tổng nợ ngắn hạn,
lúc này các TSNH sẵn có nhỏ hơn nhu cầu ngắn hạn, vì thế Công ty có khả năng
không trả hết các khoản nợ ngắn hạn đúng hạn.
Tuy nhiên phân tích tỷ số chỉ mang tính thời điểm, không phản ánh được cả một
thời kỳ, một giai đoạn hoạt động của công ty, vì thế các tỷ số này phải được xem xét
liên tục và phải xác định nguyên nhân gây ra kết quả đó như từ hoạt động kinh doanh,
môi trường kinh tế, yếu kém trong tổ chức, quản lý của doanh nghiệp, các nguyên
nhân, yếu tố trên mang tính tạm thời hay dài hạn, khả năng khắc phục của doanh
nghiệp, biện pháp khắc phục có khả thi hay không.
Khả năng thanh toán nhanh
Khả năng thanh toán nhanh =
Tài sản ngắn hạn – Hàng tồn kho
Nợ ngắn hạn
Tỷ số khả năng thanh toán nhanh được tính trên tài sản ngắn hạn có thể nhanh
chóng được chuyển đổi thành tiền, đôi khi chúng còn được gọi là tài sản có tính thanh
12
Thang Long University Library
khoản, tài sản có tính thanh khoản gồm tất cả tài sản ngắn hạn trừ hàng tồn kho. Hàng
tồn kho là tài sản khó chuyển đổi thành tiền hơn trong các loại tài sản ngắn hạn và dễ
bị lỗ khi đem bán. Do đó, hệ số này cho biết khả năng trả nợ ngắn hạn không phụ
thuộc vào hàng tồn kho.
Tỷ số khả năng thanh toán nhanh lớn hơn 1 tức là TSNH (không bao gồm hàng
tồn kho) lớn hơn nợ ngắn hạn, chứng tỏ doanh nghiệp càng có nhiều khả năng sẽ hoàn
trả được hết các khoản nợ.
Nếu tỷ số này nhỏ hơn 1 tức là TSNH (không bao gồm hàng tồn kho) nhỏ hơn
nợ ngắn hạn, cho thấy doanh nghiệp đang ở trong tình trạng tài chính tiêu cực, có khả
năng không trả được các khoản nợ khi đáo hạn.
Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là doanh nghiệp sẽ phá sản bởi vì có rất
nhiều cách để huy động thêm vốn. Mặt khác, nếu tỷ số này quá cao cũng không phải là
một dấu hiệu tốt bởi vì nó cho thấy doanh nghiệp đang sử dụng tài sản chưa được hiệu
quả.
Khả năng thanh toán tức thời
Khả năng thanh toán tức thời =
Tiền và các khoản tƣơng đƣơng tiền
Nợ ngắn hạn
Tỷ số này phản ảnh khả năng thanh toán tức thời cho các khoản nợ đến hạn phải
trả của doanh nghiệp. Nó phản ánh rõ nhất hiệu quả sử dụng và quản lý tiền của doanh
nghiệp. Hệ số này cho biết mỗi một đồng nợ ngắn hạn thì có bao nhiêu tiền đảm bảo
chi trả. Tỷ số này quá thấp sẽ khiến doanh nghiệp khó khăn trong thanh toán, có thể
dẫn đến mất khả năng thanh toán. Nhưng nếu tỷ số này cao sẽ gây lãng phí do vốn bị ứ
đọng.
Tỷ số khả năng thanh toán tức thời lớn hơn 1 nghĩa là tiền (cụ thể là tiền mặt)
lớn hơn nợ ngắn hạn, cho thấy lượng tiền dự trữ đảm bảo thanh toán tức thời doanh
nghiệp tốt. Ngược lại, nếu tỷ số này nhỏ hơn 1 nghĩa là tiền mặt tại doanh nghiệp
không đủ khả năng thanh toán nợ ngắn hạn, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong thanh
toán.
Tuy nhiên, rất ít doanh nghiệp sẽ có đủ tiền mặt và các khoản tương đương tiền
để trang trải đầy đủ và kịp thời các khoản nợ ngắn hạn. Vì nếu một doanh nghiệp giữ
một lượng vốn bằng tiền quá lớn thì điều này sẽ làm cho hiệu quả sử dụng tài sản sẽ
thấp. Vì thế, việc sử dụng khả năng thanh toán tức thời để đánh giá tính thanh khoản
của doanh nghiệp cũng có lúc không chính xác. Mặc dù, những doanh nghiệp có lượng
13
tiền và tương đương tiền thấp (khả năng thanh toán tức thời thấp), nhưng nếu số vòng
quay hàng tồn kho và số vòng quay phải thu nhanh thì tính thanh khoản của doanh
nghiệp sẽ tốt.
1.2.2.2. Các chỉ tiêu khả năng sinh lời
Tỷ suất sinh lời trên doanh thu (ROS)
Lợi nhuận ròng
ROS =
Doanh thu
Chỉ số tỷ suất sinh lời trên doanh thu cho biết khả năng sinh lời của doanh thu,
chỉ tiêu này cho biết trong một kỳ phân tích thì 100 đồng doanh thu thuần có bao nhiêu
đồng lợi nhuận sau thuế.
Trên thực tế, tỷ suất sinh lời trên doanh thu giữa các ngành là khác nhau, còn
đối với một ngành, doanh nghiệp nào quản lý và sử dụng các yêu tố đầu vào tốt hơn thì
tỷ số này cao hơn. Xét dưới góc độ nhà đầu tư, một doanh nghiệp có điều kiện phát
triển thuận lợi sẽ có mức lợi nhuận ròng cao hơn lợi nhuận ròng trung bình của ngành
và có thể tăng liên tục. Bên cạnh đó, một doanh nghiệp càng giảm chi phí của mình
xuống mức tối thiểu thì tỷ suất sinh lời trên doanh thu càng cao.
Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA)
Lợi nhuận ròng
ROA =
Tổng tài sản
Chỉ số tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản cho biết khả năng sinh lời của tài sản sử
dụng trong doanh nghiệp hay việc sử dụng tài sản ngắn hạn sẽ đem lại bao nhiêu lợi
nhuận ròng cho chủ sở hữu. Chỉ tiêu này cho biết trong một kỳ phân tích thì 100 đồng
tài sản sẽ tạo ra bao nhiêu lợi nhuận sau thuế. Một doanh nghiệp đầu tư tài sản ít
nhưng thu về lợi nhuận cao sẽ tốt hơn so với doanh nghiệp đầu tư tài sản nhiều mà thu
về lợi nhuận thấp. Tỷ số ROA thường có sự chênh lệch giữa các ngành. Những ngành
đòi hỏi phải có đầu tư tài sản lớn vào dây chuyền sản xuất, thiết bị, máy móc, công
nghệ như các ngành xây dựng, vận tải, sản xuất kinh loại,…thường có ROA nhỏ hơn
so với các ngành không cần đầu tư nhiều vào tài sản như quản cáo, dịch vụ, phần
mềm,…
Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản ngắn hạn
14
Thang Long University Library
Lợi nhuận ròng
ROA =
Tổng tài sản ngắn hạn
Chỉ số tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản ngắn hạn cho biết cụ thể hơn là khả năng
sinh lợi của tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cho biết trong một kỳ
phân tích thì 100 đồng tài sản ngắn hạn sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế.
Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE)
Mục tiêu của các nhà quản trị đó là khả năng tạo ra lợi nhuận của vốn chủ sở
hữu mà doanh nghiệp sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh, chỉ tiêu này được
tính như sau:
Lợi nhuận ròng
ROE =
Vốn chủ sở hữu
Tỷ số này cho biết cứ 100 đồng vốn chủ sở hữu tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận
sau thuế, tỷ số này càng cao chứng tỏ được hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu tốt, góp
phần nâng cao khả năng đầu tư của doanh nghiệp, điều này sẽ giúp nhà quản trị tăng
vốn chủ sở hữu phục vụ cho mục đích sản xuất kinh doanh. Bên cạnh các hệ số tài
chính khác, có thể nói ROE là thước đó chính xác nhất để đánh giá một đồng vốn tích
lũy và bỏ ra tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Đây cũng là một chỉ số tin cậy về khả
năng sinh lời của một doanh nghiệp trong tương lai. Thông thường, ROE càng cao
chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng hiệu quả đồng vốn chủ sở hữu, nghĩa là doanh nghiệp
đã cân bàng một cách hợp lý giữa vốn đi vay với vốn cổ đông để khai thác lợi thế cạnh
tranh của mình trong quá trình huy động vốn và mở rộng quy mô kinh doanh.
1.2.2.3. Hiệu suất sử dụng tài sản
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản =
Doanh thu thuần
Tổng tài sản
Chỉ số này cho biết trong một kỳ phân tích các tài sản quay được bao nhiêu
vòng hay mỗi một đồng đem đầu tư vào tài sản đem lại bao nhiêu đồng doanh thu. Chỉ
tiêu này càng cao chứng tỏ các tài sản vận động nhanh, góp phần tăng doanh thu và là
điều kiện nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp. Nếu chỉ số này thấp chứng tỏ các tài
sản vận động chậm, có thể hàng tồn kho, dở dang nhiều hoặc tài sản cố định chưa hoạt
động hết công suất nên doanh thu của doanh nghiệp giảm. Tuy nhiên khi phân tích
15
cùng cần xem xét đặc điểm tài sản và đặc điểm ngành nghề kinh doanh của doanh
nghiệp để có kết luận chính xác và biện pháp thích hợp nhằm tăng tốc độc quay vòng
của tài sản.
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản ngắn hạn
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản ngắn hạn =
Doanh thu thuần
Tổng tài sản ngắn hạn
Tỷ số này cho biết mỗi đơn vị tài sản ngắn hạn trong kỳ đem lại bao nhiêu đơn
vị doanh thu thuần. Tỷ số này càng cao chứng tỏ tài sản ngắn hạn vận động càng
nhanh, hiệu suất sử dụng tài sản ngắn hạn cao góp phần tạo ra doanh thu thuần lớn và
là cơ sở để tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Tuy nhiên hệ số này phụ thuộc vào ngành
nghề kinh doanh và mùa vụ kinh doanh. Do đó, người phân tích tài chính chỉ sử dụng
hệ số này trong so sánh doanh nghiệp với bình quân toàn ngành với doanh nghiệp khác
cùng ngành và so sánh trong cùng một chu kỳ.
1.2.2.4. Quản lý hàng lưu kho
Vòng quay hàng tồn kho
Vòng quay hàng tồn kho =
Giá vốn hàng bán
Hàng tồn kho
Vòng quay hàng tồn kho phản ánh số vòng quay hàng tồn kho trong kỳ. Hệ số
này lớn cho thấy tốc độ quay vòng hàng hóa trong kho là nhanh và ngược lại hệ số này
nhỏ thì tốc độ quay vòng hàng tồn kho thấp.
Hệ số vòng quay hàng tồn kho càng cao càng cho thấy doanh nghiệp bán hàng
nhanh và hàng tồn kho không bị ứ đọng nhiều. Nếu hệ số này thấp, khi nhu cầu thị
trường tăng đột ngột sẽ dẫn đến doanh nghiệp không kịp tăng cung hàng hóa ra ngoài
thị trường, rất có khả năng doanh nghiệp sẽ bị mất khách hàng và bị đối thủ chiếm thị
phần. Vì thế, hệ số vòng quay hàng tồn kho phải đủ lớn để đảm bảo mức độ sản xuất
và đáp ứng được nhu cầu khách hàng.
Thời gian luân chuyển kho trung bình (TB):
Thời gian luân chuyển kho TB =
365
Vòng quay hàng tồn kho
Thời gian luân chuyển kho trung bình là khoảng thời gian trung bình hàng hóa
được lưu trữ trong kho. Thời gian lưu kho kéo dài đồng nghĩa với hệ số lưu kho thấp,
16
Thang Long University Library
hàng tồn nhiều, vòng quay tiền bị kéo dài. Mức dự trữ lưu khó lớn cũng làm làm
doanh nghiệp tốn chi phí lưu kho, bảo quản hàng hóa và ngược lại. Chỉ số này cần
được duy trì ở mức thấp.
1.2.2.5. Quản lý phải thu khách hàng
Vòng quay các khoản phải thu
Doanh thu thuần
Vòng quay các khoản phải thu =
Các khoản phải thu khách hàng
Vòng quay các khoản phải thu cho biết các khoản phải thu quay lại bao nhiêu
lần. Tỷ số này càng lớn chứng tỏ tốc độ thu hồi các khoản phải thu là cao. Theo dõi số
vòng quay khoản phải thu sẽ cho biết chính sách bán hàng trả chậm của doanh nghiệp
hay tình hình thu hồi nợ của doanh nghiệp.
Thời gian thu nợ trung bình
365
Thời gian thu nợ TB =
Vòng quay các khoản phải thu
Thời gian thu nợ trung bình cho biết bình quân doanh nghiệp mất bao nhiêu
thời gian để thu hồi các khoản tín dụng cấp cho khách hàng. Vòng quay các khoản
phải thu càng lớn thì kỳ thu tiền càng nhỏ và ngược lại. Tuy nhiên thời gian thu nợ cao
hay thấp trong nhiều trường hợp chưa thể kết luận chắc chắn mà còn phải xem xét lại
mục tiêu và chính sách của doanh nghiệp.
Vòng quay khoản phải trả và thời gian trả nợ trung bình.
365
Thời gian trả nợ trung bình =
Hệ số trả nợ
GVHB + Chi phí bán hàng, quản lý chung phải trả
Vòng quay khoản phải trả =
Phải trả ngƣời bán + lƣơng, thƣởng, thuế, phí
Hệ số trả nợ cho biết số lần trả nợ của doanh nghiệp trong một chu kỳ kinh
doanh, hệ số này càng thấp chứng tỏ doanh nghiệp chiếm dụng được các khoản nợ dài.
Tuy nhiên, chiếm dụng các khoản này quá dài có thể gây ảnh hưởng đến uy tín của
doanh nghiệp.
17
1.2.2.6. Vòng quay tiền
Vòng quay tiền =
trung bình
Thời gian luân
+ Thời gian thu nợ
chuyển kho
-
trung bình
Thời gian trả nợ
trung bình
trung bình
Vòng quay tiền trung bình cho biết doanh nghiệp mất bao lâu để thu hồi một
khoản tín dụng. Nếu vòng quay tiền ngắn tức là doanh nghiệp thu hồi nhanh các khoản
tiền trong kinh doanh, chiếm dụng được các khoản nợ dài. Tuy nhiên vòng quay tiền
của từng doanh nghiệp là khác nhau, phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh và lĩnh
vực hoạt động, đối với doanh nghiệp hoạt động trong lịnh vực sản xuất thì thời gian
quay vòng tiền sẽ dài hơn nhiều so với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương
mại dịch vụ.
1.3. Các nhân tố ảnh hƣởng tới hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh
nghiệp
1.3.1. Các nhân tố chủ quan
1.3.1.1. Chính sách của doanh nghiệp
Hiện nay một số doanh nghiệp chưa có các chính sách cụ thể trong khâu quản
lý, các bộ phận phòng ban làm việc thiếu sự chặt chẽ và liên kết. Việc này khiến cho
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chưa đạt được hiệu quả do thiếu sự
thống nhất giữa các bộ phận.
Bên cạnh đó, chế độ chăm sóc khách hàng còn sơ sài, chưa có nhũng ưu đãi cụ
thể dành cho khách hàng quen cũng như những điều kiện hấp dẫn để thu hút khách
hàng mới.
Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng chưa chú trọng đến khen thưởng, phạt đối với
thái độ, tinh thần và hiệu quả làm việc của nhân viên, khiến nhân viên làm việc còn lơ
là và thiếu tinh thần trách nhiệm.
Thiết nghĩ, một doanh nghiệp muốn đạt được hiệu quả trong quá trình sản xuất
kinh doanh thì cần dần hoàn thiện cho mình bộ máy quản lý, chăm sóc khách hàng
cũng như ưu đãi dành cho nhân viên, có thưởng phạt rõ ràng, có như vậy doanh nghiệp
mới có thể tiến xa và phát triển trong tương lai.
Mặt khác, chính sách quản lý TSNH của doanh nghiệp sẽ tác động trực tiếp đến
hiệu quả sử dụng TSNH của doanh nghiệp đó. Nó phản ánh rõ nét về trình độ quản lý
TSNH cũng như vấn đề TSNH của doanh nghiệp khi đưa vào sử dụng có đạt được
hiệu quả hay không. Nếu doanh nghiệp áp dụng thành công một chiến lược quản lý
18
Thang Long University Library
TSNH cụ thể và khôn khéo sẽ giúp cho doanh nghiệp dự trữ được một lượng tiền mặt
tối ưu, thỏa mãn được điếu kiện vừa đảm bảo được khả năng thanh toán và vừa tránh
được tình trạng thiếu hụt tiền mặt tạm thời dẫn đến việc bị mất các cơ hội kinh doanh,
hoặc lãng phí do giữ quá nhiều tiền mặt. Đồng thời khi doanh nghiệp xác định được
lượng tiền dự trữ hợp lý sẽ cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục và
thông suốt mà không bị dư thừa gây ứ đọng vốn.
1.3.1.2. Ngành nghề kinh doanh
Trên thị trường, mỗi ngành nghề kinh doanh có những đặc điểm khác nhau như
tính mùa vụ, chu kỳ sản xuất kinh doanh…, điều này có tác động không nhỏ tới hiệu
quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Doanh nghiệp kinh doanh có tính chất mùa vụ
thường có biến động trong việc sử dụng tài sản ngắn hạn tương ứng với mùa vụ đó.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp có chu kỳ sản xuất ngắn sẽ có thời gian quay vòng vốn
nhanh và tác động đến hiệu quả sử dụng tài sản trong doanh nghiệp.
1.3.1.3. Xác định nhu cầu tài sản ngắn hạn
Việc xác định đúng nhu cầu của doanh nghiệp về tài sản ngắn hạn cho chu kỳ
kinh doanh của doanh nghiệp giúp định hướng rõ về cơ cấu của tài sản ngắn hạn, đảm
bảo cho hoạt động của doanh nghiệp diễn ra đúng hạn. Nếu xác định thiếu, ngay lập
tức doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong chi trả, thanh toán hoặc thiếu hàng hóa để
cung cấp đối tác. Nếu rơi vào tình trạng quá cấp bách, doanh nghiệp có thể phải đi vay
mượn, làm tăng chi phí sử dụng tài sản ngắn hạn. Trường hợp xấu hơn, doanh nghiệp
không đi vay mượn được sẽ trực tiếp tạo ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận của doanh
nghiệp. Ngược lại, nếu xác định dư thừa, doanh nghiệp sẽ phát sinh các khoản như chi
phí cơ hội do dự trữ tiền mặt, chi phí quản lý kho dẫn đến hiệu suất sử dụng tài sản
thấp. Chính vì vậy, xác định được đúng như cầu tài sản cho doanh nghiệp là việc hết
sức quan trọng để đảm bảo chu trình hoạt động của doanh nghiệp.
1.3.1.4. Năng lực trình độ quản lý
Con người là nhân tố quan trọng nhất trong bất kỳ hoạt động nào. Năng lực và
trình độ quản lý doanh nghiệp tác động trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh thông qua
các quyết định của nhà quản trị. Phẩm chất và năng lực của nhà quản lý cần phải tốt để
dẫn dắt doanh nghiệp trong bối cảnh thị trường cạnh tranh như hiện nay. Người lãnh
đạo là người có tầm nhìn bao quát, đưa ra những chính sách quản lý đúng đắn đối với
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp từ đó tác động trực tiếp tới hiệu quả
sử dụng tài sản ngắn hạn. Người quản lý phải nắm bắt tình hình hoạt động của doanh
nghiệp, sau mỗi chu kỳ hoạt động phải phân tính, đánh giá xem hiệu quả sử dụng tài
sản ngắn hạn ra sao, cần điều chỉnh những tiêu chí nào, từ đó đưa ra những kế hoạch
19
cho kỳ tiếp theo. Bên cạnh đó nhà quản trị cần có khả năng nhanh nhạy trong bắt nhịp
xu thế thị trường và điều phối tài nguyên của doanh nghiệp, từ đó nâng cao lợi nhuận
của doanh nghiệp.
1.3.1.5. Chất lượng đội ngũ lao động trong doanh nghiệp
Doanh nghiệp có ban lãnh đạo giỏi, cơ sở vật chất tốt nhưng nếu không có
những cán bộ công nhân viên giỏi, chuyên môn cao thì cũng sẽ không đạt được hiệu
quả trong quá trình sản xuất kinh doanh. Nếu chuyên môn của người lao động tốt thì
họ sẽ sử dụng nguyên vật liệu phù hợp mà không lãng phí, mặt khác trình độ chuyên
môn cao sẽ là tiền đề cho việc tiếp thu những cải tiến mới khi doanh nghiệp mở rộng
quy mô hay thay đổi chính sách, kỹ thuật trong quá trình sản xuất kinh doanh. Vì vậy
việc tuyển chọn và đào tạo đội ngũ nhân viên có tay nghề cũng như chuyên môn vững
vàng chính là yếu tố cực kì quan trọng quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp.
1.3.1.6. Cơ sở vật chất của doanh nghiệp
Một doanh nghiệp có hệ thống cơ sở hạ tầng (trụ sở làm việc, chi nhánh, sở sở
sản xuất, hệ thống bán hàng, trang thiết bị,…) được bố trí hợp lý sẽ giúp cho doanh
nghiệp sửa dụng tài sản ngắn hạn một cách hiệu quả hơn. Kho chứa hàng tốt sẽ giảm
thiểu được những hao mòn không đáng có trong công tác bảo quản hàng tồn kho.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần có những trang thiết bị tốt để sản xuất
được những sản phẩm đạt yêu cầu và đạt được năng suất như mong muốn. Một doanh
nghiệp được trang bị những thiết bị, máy móc tốt sẽ làm cho khâu sản xuất hiệu quả và
dễ dàng hơn.
1.3.2. Các nhân tố khách quan
1.3.2.1. Chính sách vĩ mô của Nhà nước
Kinh tế nước ta hiện nay đang hoạt động trong nền kinh tế thị trường chịu sự
điều tiết của Nhà nước. Nhà nước điều tiết hoạt động thị trường thông qua các chính
sách thuế, chính sách đầu tư, chính sách bảo trợ. Một mặt, các chính sách tích cực của
Nhà nước như ưu đãi tín dụng, ký kết các hiệp định thương mại, tham gia các tổ chức
thương mại trong khu vực và thế giới đã tạo mội trường và hành lang pháp lý thuận lợi
cho doanh nghiệp có cơ hội phát triển kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh tế. Mặt
khác, nhà nước ban hành những luật lệ nhằm mục đích tránh sự giang lận, đảm bảo sự
công bằng cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong chính sách quản lý kinh tế của Nhà
nước còn nhiều điều hạn chế và chưa hoàn thiện khiến cho doanh nghiệp gặp không ít
khó khăn trong khi làm thủ tục hành chính, thương mại. Bên cạnh đó là những luật lệ
20
Thang Long University Library
- Xem thêm -