Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khoá luận tốt nghiệp chức năng nhận thức và chức năng giáo dục trong truyện ngắn...

Tài liệu Khoá luận tốt nghiệp chức năng nhận thức và chức năng giáo dục trong truyện ngắn của nam cao

.PDF
68
1
146

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẨU MỘT KHOA NGỮ VĂN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CAO ĐẲNG Tên đề tài: CHỨC NĂNG NHẬN THỨC VÀ CHỨC NĂNG GIÁO DỤC TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO Giáo viên hướng dẫn: ThS.LÊ SỸ ĐỒNG Sinh viên thực hiện: LÊ THỊ HOÀI THƯƠNG Lớp: C12NV01 Khóa: 2012-2015 Bình Dương, ngày 25 tháng 05 năm 2015 -2-  LỜI CẢM ƠN Trước hết, em xin gửi lời chân thành đến gia đình, đặc biệt là ba mẹ, người đã nuôi dưỡng, dạy dỗ, tạo mọi điều kiện trong quá trình học tập của em. Em cũng xin chân thành cảm ơn đến tập thể quý thầy cô trong khoa Ngữ văn đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành khóa luận. Đặc biệt, em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy Lê Sỹ Đồng. Thầy đã hết lòng tận tình động viên, giúp đỡ em trong suốt quá trình làm luận văn tốt nghiệp. Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn đến những người bạn đã động viên em hoàn thành khóa luận này. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn! Bình Dương, ngày 25 tháng 05 năm 2015 Người thực hiện Lê Thị Hoài Thương GVHD: ThS. Lê Sỹ Đồng SVTH: Lê Thị Hoài Thương -3- Lời cam đoan Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.Các kết quả nêu trong khóa luận là trung thực và chưa được công bố trong các công trình khác. Người viết (ký tên) Lê Thị Hoài Thương GVHD: ThS. Lê Sỹ Đồng SVTH: Lê Thị Hoài Thương -4DẪN NHẬP I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Văn học phản ánh hiện thực, chính văn học giúp chúng ta có thể hình dung được cuộc sống chân thực của đời thường. Văn học Việt Nam tronggiai đoạn 1930–1945 có nhiều nhà văn theo khuynh hướng hiện thực như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan,Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng,… trong đó tiêu biểu là Nam Cao.Các tác phẩm của ôngphản ánh chân thực về người nông dân, người tri thức tiểu tư sản. Nhà văn luôn trăn trở, băn khoăn tìm lối thoát cho những số phận luôn bị cái nghèo, cái đói dằn vặt. Họ bị tha hóa cả ngoại hình lẫn tâm hồn cũng bởi vì cơm áo gạo tiền.Bị kịch thương tâm đó không chỉ xảy ra ở tầng lớp nông dân mà còn có tầng lớp tri thức tiểu tư sản. Những tác phẩm của ông có giá trị rất cao, thể hiện rõ chức năng nhận thức và chức nănggiáo dục và còn nhiều chức năng khác. Nam Cao là người đi sau so với các nhà văn khác cùng thời nhưng ông đã gặt hái nhiều thành công. Trong các tác phẩm như Dì Hảo, Ở hiền, Lão Hạc, Một đám cưới, Nghèo, Điếu văn, Tư cách mõ,…viết về người nông dân, Nam Cao đã thể hiện tính nhân văn cao cả với bút pháp hiện thực sâu sắc. Qua quá trình đọc và tìm hiểu các tác phẩm của Nam Cao, chúng tôi nhận thấy những sáng tác của ông điều thể hiện khá rõ chức năng văn học trong đó cóchức năng nhận thức và chức năng giáo dục. Những trang viết của Nam Cao như tiếng kêu cứu: hãy bảo vệ nhân phẩm của con người. Việc nghiên cứu này sẽ góp phần quan trọng trong việc đọc, cảm nhận cũng như phân tích các tác phẩm của Nam Cao, đặc biệt là truyện ngắn.Bên cạnh đó, đề tài sẽlà tài liệu giảng và học của giáo viên và học sinh ở các trường phổ thông trong bộ môn Ngữ văn, những người quan tâm đến tác phẩm của Nam Cao. GVHD: ThS. Lê Sỹ Đồng SVTH: Lê Thị Hoài Thương -5II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Như chúng ta đã biết, Nam Cao là một nhà văn hiện thực xuất sắc của văn học Việt Nam nói chung và văn học hiện thực nói riêng.Ngay từ khi tên tuổi của Nam Cao được khẳng định qua tác phẩm Chí Phèo cho đến nay có nhiều nhà phê bình, nghiên cứu văn học quan tâm đến.Ta có thể nói đến công trình nghiên cứu năm 1941Lê Văn Trương có tập “Đôi lứa xứng đôi”,do nhà xuất bản “Đời mới” ấn hành (1941) đầu tiên.Lê Văn Trương đã xác nhận Nam Cao là người “Không nói cái người ta nói, không tả theo lối người ta đã tả”[20, 347]. Như vậy, Lê Văn Trương đã nhấn mạnh việc Nam Cao mạnh dạn đi theo lối riêng của mình, tìm tòi những đều chưa có và chưa ai sáng tạo nên. Phong Lê khi nhận xét về Nam Cao: “Nam Cao - là người suy nghĩ rất nghiêm chỉnh và cẩn thận về nghề, tuy khôngđặt nghề viết cao hơn mọi nghề”[11, 157].Nam Cao ý thức laođộng trong bất cứ nghề nào đều là một hoạt động nghiêm túc và phải có lương tâm với nghề, đặc biệt là khi viết văn. Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận định rằng: “Truyện của Nam Cao dạy cho con người ta biết xấu hổ, hay nói cách khác muốn lay tỉnh con người ý thức về nhân phẩm, nhân tính”[16, 257].Nguyễn Đăng Mạnh khẳng định tầm quan trọng tính giáo dục trong truyện ngắn: “Nam Cao luôn tạo cảm giác ngược đời để càng làm nổi bật số phận bi thươngvà các cay đắng chua chát của những cuộc đời để làm nổi bật số phận bi thảm và cái cay cực chua chát của những cuộc đời nghèo khổ” [14, 263].Cảm giác ngược đời mà Nam Cao tạo ra như thế không thể không làm cho người đọc cứ phải day dứt không nguôi về thân phận tủi nhục của con người trong cái xã hội đầy rẫy sự bất công tàn bạo. Thao Nguyễn với bài viết Nam Cao, trái tim luôn thức đập cùng với những buồn vui đau khổ của con người năm 2013,NXB Văn hóa thông tin, đã trích dẫn lời nói của nhà văn Nguyễn Minh Châu khi nói đến Nam Cao:“Từ trước tới giờ tôi GVHD: ThS. Lê Sỹ Đồng SVTH: Lê Thị Hoài Thương -6vẫn thường nghĩ rằng trong những người cầm bút viết văn xuôi hiện thực của ta, Nam Cao có tấm lòng thương người thương đời và có con mắt nhìn đời ác nhất – vì Nam Cao đã nhìn thấy vấn đề cuối cùng của con người… Nam Cao đã lật ra hết tất cả các lớp áo phủ ngoài đời sống con người Việt Nam… Nam Cao đánh giá tư cách của con người, vẽlên muôn vạn muôn dạng bức xúc, eo sèo của đời sống, do cái miếng ăn sinh ra, vẽ lên tâm lý và những mối quan hệ đầy đau đớn giữa những con người trước cách mạng tháng Tám”[24, 116]. Qua bài viết trên, ta thấy Nam Cao đã nói vẽ lên bức tranh xã hội hiện thực trước Cách mạng tháng Tám một cách khái quát và cụ thể nhất. Tô Hoài nhận địnhNam Cao:“Nam Cao không che giấu, không màu mè gì hết, nói toạt ra cái cuộc sống cùng đường tận lối và nhơ nhớp của những người như anh”[24, 23].Nam Cao là người nhận thức rõ vềxã hội qua sự trải nghiệm của mình từ cuộc sống. Nguyễn Minh Châu trong bài viết về Nam Cao trên bài báo Văn nghệ số ngày 18 tháng 7 năm 1987 có nhận xét: “Cả cuộc đời cầm bút cuả Nam Cao cứ đau đáu nhìn vào cái nhân cách. Cái sự săn đuổi chính mình và các nhân vật của mình đầy róng riết cũng chính là sự săn đuổi cái nhân cách của con người ta nói chung” [19, 265]. Miêu tả người nông dân, Nam Cao không chỉ vạch trần tình cảnh nghèo khổ của của họ, mà còn chú tâm đến nhân cách bị chà đạp, nhân cách bị tha hóa cũng bởi vì hoàn cảnh đôi khi biến họ trở thành những kẻ thô tục tham lam, đáng bị khinh bỉ về nhân cách. Hà Minh Đức khi viết về Nam Cao trong cuốn giáo trình Văn học Việt Nam 1900 -1945 có đoạn: “Gấp những trang sách của Nam Cao, người đọc dường như vẫn cảm thấy ngột ngạt và ám ảnh không nguôi với số phận của những con người khốn khổ. Cái không khí ngột ngạt đó, chủ yếu là do hiện thực xã hội lúc bấy giờ”[4, 478]. Qua đó phần nào ta cũng thấy được sự phản ánh trong nhận thức của Nam Cao: “Ngòi bút hiện thực sắc sảo của Nam Cao đã xé toang lớp vỏ hào GVHD: ThS. Lê Sỹ Đồng SVTH: Lê Thị Hoài Thương -7nhoáng bên ngoài của con người tiểu tư sản để đi sâu vào những vấn đề bên trong, ông không rơi vào lối viết tô vẽ, thi vị hóa như một nhà văn lãng mạn đương thời” [4,484]. Người đọc thấy được bản chất bên trong con người của từng nhân vật. Đồng thời, ta nhận ra một điều rằng Nam Cao là một người ghét những tính chất giả dối và kiên quyết đoạn tuyệt với chủ nghĩa lãng mạn để đến với chủ nghĩa hiện thực. Nguyễn Duy Tờ tác giả cuốn sách Sự vận động của động của dòng văn học hiện thực Việt Nam 1930 -1945 đã ghi lại nhận xét của Nguyên Hồng như sau: “Tuy ta đã được đọc không ít những truyện viết về sự đói khổ, bóc lột, áp bức, về những cảnh thương tâm, đen tối của một xã hội đầy rẫy sự bất công, nhưng qua Nam Cao ta được thấy cất lên thật là những tiếng nói, ta được những chứng kiến thật là những cuộc đời mờ mịt, ngoi ngóp, xơ xác ở nông thôn mà từ trước đến giờ mà ta đã trông đã nghĩ mà gần không hiểu, không thấy gì hết, đó thật là những tác phẩm của con người” [21,265]. Có thể nói giá trịtác phẩmcủa Nam Cao đã đánh sâu vào tâm trí làm lay động ý thức nhà văn Nguyên Hồng. Những nhận định trên, ta thấy đa phần trong các bài phê bình chỉ có một vài đoạn nhắc đến chức năng nhận thức và chức năng giáo dục.Nhưng các nhận định đó chưa đi sâu làm rõ vấn đề.Vấn đề đặt ra ở đây là cần phải làm rõ chức năng nhận thức vàchức năng giáo dục trong truyện ngắn của Nam Cao, đặc biệt giai đoạn trước 1945. Có như thế, chúng ta mới có thể thấy đượcvị trí quan trọng của Nam Cao trên văn đàn Việt Nam cùng với giá trị lớn lao từ những tác phẩm ấy. Bên cạnh những nhận định của các nhà văn và công trình nghiên cứu trên, chúng ta còn tham khảo các cuốn sách tập hợp viết về nhà văn Nam Cao như “Nghĩ tiếp về Nam Cao”(NXB Hội nhà văn Hà Nội 1992), “Nam Cao về tác gia tác phẩm” (NXB Giáo dục 1998), “Nam Cao nhà văn hiện thực xuất sắc” (NXB Thông tin văn hóa Hà Nội 2000),“Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn”(NXB Giáo dục, H, 1996)… GVHD: ThS. Lê Sỹ Đồng SVTH: Lê Thị Hoài Thương -8- III. MỤC ĐÍCH ĐỀ TÀI Mục đích của đề tài này là làm rõ chức năng nhận thức và chức năng giáo dục trong sáng tác của Nam Cao. Chức năng giáo dục trong tư tưởng rèn luyện nhân cách để từ đó biết nuôi dưỡngthanh lọc tâm hồn.Mỗi tác phẩm của ông điều mang tính giáo dục đi kèm với nhận thức khi người đọc soi mình vào từng trang viết của ông để nhìn lại bản thân mình.Những tác phẩm ấy dường như làm cho con người thức tỉnh.Từ đó, giúp người đọc nhận thức thêm về giá trị truyện ngắn của Nam Cao. IV. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu Khóa luận nghiên cứu về chức năng nhận thức, chức năng giáo dục trong truyện ngắn của Nam Cao trước1945. 2. Phạm vi đề tài Do giới hạn làm luận vănnên chúng tôi chọn khảo sát những truyện ngắn ở giai đoạn trước 1945như: Giăng sáng(1942), Đời thừa (1943), Trẻ con không được ăn thịt chó (1942), Chí Phèo (1941), Nghèo (1937), Dì Hảo (1944), Tư Cách Mõ (1943), Lang Rận (1944), Lão Hạc (1943), Một bữa no (1943), Một truyện xu-vơ-nia (1943), Một đám cưới (1944), Điếu Văn (1943), Ở hiền (1943), Truyện tình (1943), Nhỏ nhen (1942), Nửa đêm (1944), Sao lại thế này (1943), Quên điều độ (1943), Mua danh (1943), Nhìn người ta sung sướng (1942), Từ ngày mẹ chết (1943), Điếu văn (1943), Mua nhà (1943), Đui mù (1937),Xem bói (1943). GVHD: ThS. Lê Sỹ Đồng SVTH: Lê Thị Hoài Thương -9- V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Trong quá trình nghiên cứu, để đề tài của mình chặt chẽthống nhất, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp sau để hoàn thành luận văn của mình: 1. Phương pháp phân tích Phương pháp này rất quan trọng trong khi nghiên cứu đề tài.Từ những tài liệu đã chọn lọc và tập hợp đầy đủ, người viết tiến hành phân tích các chức năng nhận thức và chức năng giáo dục trong tác phẩm Nam Cao.Như thế sẽ giúp đề tài thêm sức thuyết phục. 2. Phương pháp so sánh Người viết tiến hành liện hệ so sánh tác phẩm của Nam Cao với những tác gia khác, để làm rõ chức năng.Góp phần cho đề tài thêm sức thuyết phục.Và khẳng định tài năng và sự đóng góp của Nam Cao trong giai đoạn hiện đại hóa văn học Việt Nam. 3. Phương pháp liên ngành Để đánh giá một cách chính xác, người viết vận dụng những kiến thức về cơ sở văn hóa, lịch sử, tôn giáo tư tưởng để phân tích các hiện tượng văn học. GVHD: ThS. Lê Sỹ Đồng SVTH: Lê Thị Hoài Thương - 10 - BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN CHƯƠNG 1 TÁC GIẢ NAM CAO VÀ THỜI ĐẠI 1.1. Hoàn cảnh lịch sử năm 1930- 1945 1.1.1.Tình hình chính trị, kinh tế, xã hội 1.1.2.Tình hình văn học 1.2.Tác giả Nam Cao 1.2.1.Con người và cuộc đời 1.2.2.Sự nghiệp sáng tác 1.3.Chức năng của văn học 1.3.1. Chức năng nhận thức .3.2. Chức năng giáo dục  Tiểu kết CHƯƠNG 2 CHỨC NĂNG NHẬN THỨC TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NAMCAO 2.1. Nhận thức về hoàn cảnh xã hội 2.1.1.Hiện thực xã hội 2.1.2. Thái độ của tác giả 2.2.Nhận thức về số phận con người 2.2.1.Nông dân bần cùng hóa, tha hóa 2.2.2.Tri thức tiểu tư sản GVHD: ThS. Lê Sỹ Đồng SVTH: Lê Thị Hoài Thương - 11  Tiểu kết CHƯƠNG 3 CHỨC NĂNG GIÁO DỤC TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO 3.1. Giáo dục về tư tưởng 3.1.1. Rèn luyện, tu dưỡng, trao dồi phẩm chất 3.1.2.Suy nghĩ về triết lý sống 3.2.Giáo dục về các mối quan hệ xã hội 3.2.1.Tình cảm gia đình 3.2.2.Tình cảm giữa người với người trong xã hội  Tiểu kết GVHD: ThS. Lê Sỹ Đồng SVTH: Lê Thị Hoài Thương - 12 - CHƯƠNG 1 TÁC GIẢ NAM CAO VÀ THỜI ĐẠI 1.1. Hoàn cảnh lịch sử năm 1930- 1945 1.1.1. Tình hình chính trị, kinh tế, xã hội  Tình hình chính trị Vào thế kỉ XX, thực dân Pháp đã thực hiện xong việc xâm chiếm nước ta sau đó chuyển sang giai đoạn khai thác thuộc địa làm giàu cho nước của họ. Pháp cho xây dựng các hệ thống như hầm mỏ, cơ sở công nghiệp, giao thông,... Ngoài việc khai thác thuộc địa thiết lập trật tự mới thì chúng đã tuyên truyền tư tưởng văn minh của nước Phápmuốn đầu độc thuần hóa nhân dân Việt, che dấu bộ mặt cướp nước bằng cách đã đưa ra hội đồng tư vấn bày trò dân chủ giả hiệu. Thôn xóm làng mạc tiêu điều sơ xác do kẻ thù tàn phá, nhân dân ta đã sống với những ngày tháng sống dở chết dởchịu nhiều áp bức sưu thuế, nhiều người phải bỏ làng ra đi làm thuê, làm mướn với đồng lương rẻ mạt. Tầng lớptrí thức thời phong kiến lúc bấy giờ cũng lâm vào tình trạng bế tắc.Trong bối cảnh chính trị phức tạp và đen tối như thế, thanh niên Việt Nam cảm thấy bi quan tuyệt vọng họ hết sức chán nản với lối học cũ. Phong trào giải phóng dân tộc bị dập tắt kể từ ngày khởi nghĩa Phan Đình Phùng thất bại hoàn toàn.Nhưng sau đó có các cuộc khởi nghĩa khác trỗi dậy mạnh mẽ như khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo trong năm sau. Vào đầu thế kỉ XX, cuộc đấu tranh giải phóng nổi dậy mạnh mẽ. Ngọn cờ cứu nước, cuộc giải phóng dân tộc chuyển sang thời kì mới.Với việc thành lập Đảng cộng Sản năm 1930.Sau cao trào Xô viết – Nghệ Tĩnh năm 1930- 1931 bị thực dân Pháp đàn áp.Phong trào mặt trận Dân chủ Đông Dương GVHD: ThS. Lê Sỹ Đồng SVTH: Lê Thị Hoài Thương - 13 (1936- 1939) và tiếp đó là thời kì Mặt trậnViệt Minh dẫn tới cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, đã chấm dứt chế độ thực dân phong kiến trên đất nước ta. Trong bối cảnh chính trị phức tạp như thế, Nam Cao đã không chịu khuất dưới chế độ ngạt thở ấy.Ông nhìn rõ chế độ đã đầy đọa con người, nhà văn muốn vạch ra cho mọi người thấy cái khổ đang vây kín con người.Thế nên, trong sáng tác của ôngchịu ảnh hưởng sâu sắc về hoàn cảnh chính trị.  Tình hình kinh tế Đầu thế kỉ XX,kinh tế nước ta vẫn là kinh tế nông nghiệp lạc hậu.Thực dân Pháp thực hiện chính sách kinh tế thực dân làm phá sản nông dân và thợ thủ công, tạo ra nguồn nhân công rẻ mạt, phục vụ cho công trình khai thác của chúng.Kết quả của chính sách trên đã kéo nước ta vào quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản, muốn biến nước ta thành sân sau của thực dân Pháp.  Tình hình xã hội Kinh tế hàng hóa kích thích phát triển của công thương nghiệp làm cho thành thị phát triển, xuất hiện nhiều nhu cầu mới, phát triển nhiều nghề mới, tầng lớp thị dân phát triển.Trong xã hội Việt Nam thời kì này tồn tại những mâu thuẫn gay gắt giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp, giữa tầng lớp nhân mà chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến.Tầng lớp thị dân có ít nhiều tự do trong đờisống thành thị tư sản. Giai cấp tư sản từ các tầng lớp thị dân phát triển dần lên.Sự phát triển của đô thị dẫn đến sự phá sản nông nghiệp, làm cho nông thôn tiêu điều.Nông dân kéo ra thành thị kiếm sống ngày càng đông.Sự vơ vét, bóc lột của thực dân Pháp, địa chủ cường hào ở nông thôn với sưu thuế cao đã đẩy nhiều tầng lớp rơi vào bế tắc bần cùng hóa. Qua tình hình kinh tế, xã hội như thế, Nam Cao đã chứng kiến cuộc sống khó khăn bế tắc bần cùng của người dân và tri thức tiểu tư sản. Nên trong quá trình sáng tác, ta thấy có rất nhiều truyện ngắn đề cập đến vấn đề đói khổ của người nông dân, cuộc sống bế tắc của những người tri thức. GVHD: ThS. Lê Sỹ Đồng SVTH: Lê Thị Hoài Thương - 14 1.1.2. Tình hình văn học Văn học giai đoạn 1900- 1930 mang tính chất giao thời từ văn học trung đại sang văn học hiện đại. Đi đôi với sự giao thời đó, văn học giai đoạn này có những đặc điểm sau: Thứ nhất, văn học đổi mới theo hướng hiện đại hóa. Hiện đại hóa chính là sựđổi mới văn học sao cho thoát khỏi thi pháp văn học trung đại để tiến tới tiếp cận và hội nhập với nền văn học phương Tây. Bên cạnh đó, xã hội Việt Nam đã có sự thay đổi và chính điều này đã thúc đẩy hiện đại hóa văn học. Việt Nam qua hai lần khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, cơ cấu xã hội có sự biến đổi, quá trình đô thị hóa hình thành tầng lớp thị dân công chúng, đóng vai trò quan trọng thúc đẩy văn học thay đổi. Không những thế, nền văn học Trung hoadần mất đi sự ảnh hưởng, thay vào đó là nền văn học phương Tây chiếm ưu thế; trí thức Tây học thay thế dần trí thức Nho học.Và cuối cùng ta không bỏ qua được chính là sự ra đời của chữ quốc ngữ.Chính ba yếu tố này thúc đẩy quá trình phát triển văn học theo hướng học đại hóa. Bên cạnh đó, có sự ảnh hưởng quá trình phát triển văn học. Từ đầu thế kỉ XX đến 1920, nền văn họcbước vào giai đoạn giao thời, nhưng vẫn còn tồn tại các lớp nhà nho học của văn học trung đại như Tú Xương, Nguyễn Khuyến. Họ vẫn tiếp tục sáng tác với những tác phẩm viết bằng chữ Hán thể loại theo kiểu truyền thống. Bên cạnh đó, có sự xuất hiện tác phẩm viết bằng chữ quốc ngữ trước đó chẳng hạnnhư Truyện thầy Lazaro Phiềncủa Nguyễn Trọng Quản năm 1887, hay một số sáng tác của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, HuỳnhThúc Kháng.Văn học giai đoạn này mang nội dung mới,tư tưởng mới nhưng nghệ thuật thì lại còn chịu ảnh hưởng nặng nề bởi văn học trung đại. Cho nên ta chỉ xét văn học giai đoạn này như một bước điều kiện cần thiết cho văn học hiện đại hóa về sau. GVHD: ThS. Lê Sỹ Đồng SVTH: Lê Thị Hoài Thương - 15 Bước qua giai đoạn 1920 đến 1930, giai đoạn này ra đời những tác phẩm có giá trị, những nhà văn mang tên tuổi khẳng định được sáng tác của mình. Đồng thời, ta thấy có sự xuất hiện thể loại mới là kịch nói và những tác giả, tác phẩm tiêu biểu. Văn xuôi ở miền Bắc có Hoàng Ngọc Phách, ở miền Nam có Hồ Biểu Chánh. Về truyện ngắn thì có những cây bút khá tài năng như Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học và Nhất Linh.Về bút kí, tùy bút có Đông Hồ, Phạm Quỳnh. Về thơ, có Tản Đà, Tuấn Khải.Văn học lúc này có sự thay đổi mới, một bước tiến mới nhưng chưa thực sự sâu sắc. Giai đoạn 1930 đến 1945, đây là giai đoạn quan trọng nhất cho quá trình hiện đại hóa hoàn thiện nhất, lúc này ta bắt gặp một số tác giả tác phẩm tiêu biểu và văn học cũng đạt được nhiều thành tựu.Về thơ, chúng ta không thể nào không nhắc đến cuộc cách mạng của thơ ca 1930- 1945 với những tác giả rất nổi tiếng như Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Thế Lữ, Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính,..Về truyện ngắn, nổi bật lên những cây bút tài hoa như Thạch Lam, Nam Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố,... Bút kí, tùy bút có Xuân Diệu, Nguyễn Tuân. Về tiểu thuyết, ta không thể quên Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Ngô Tất Tố. Đặc biệt có sự hình thành phê bình văn học với các nhà phê bình như Đặng Thai Mai, Hoài Thanh. Bước sang giai đoạn này, về mặt nội dung, nghệ thuật, thể loại có sự thay đổi toàn diện, chính vì thế văn học lúc bấy giờ có lợi thế hội nhập vào nền văn học phương Tây. Thứ hai,hình thành hai bộ phận và phân hóa đa xu hướng;điểm quan trọng ở đặc điểm thứ hai này là thái độ chính trị của người sáng tác đối với chính quyền thực dân.Bộ phận đầu tiên là văn học công khai, trong bộ phận này lại chia ra thành hai xu hướng khác nhau đó là xu hướng lãng mạn và xu hướng hiện thực.Với xu hướng lãng mạn, các nhà văn nhà thơ thể hiện một cách trực tiếp để có thể nói lên tiếng nói cảm xúc riêng cho cá nhân mình.Nhưng bên cạnh đó, họ thể hiện một GVHD: ThS. Lê Sỹ Đồng SVTH: Lê Thị Hoài Thương - 16 thái độ bất hòa với xã hội, đề cập đến vấn đề bức bối, tù túng của một xã hội thực dân phong kiến.Và điều quan trọng nhất là những sáng tác của trào lưu văn học lãng mạn rất chú tâm đến đời sống nội tâm con người, góp phần vào cho chủ nghĩa nhân đạoViệt Nam lên tiếng yêu cầu hạnh phúc của cá nhân và chống lại phong kiến. Đến xu hướng hiện thực thì hoàn toàn khác với lãng mạn, các nhà văn hiện thực của chúng ta tập trung phơi bày thực trạng bất công của xã hội thực dân phong kiến lúc bấy giờ. Họ bênh vực cho những kiếp người lầm than nghèo khổ. Họ đề cập đến vấn đề thế sự với tinh thần dân chủ và tinh thần nhân đạo.Đồng thời các nhà văn còn phân tích lý giải hiện thực khách quan trong việc xây dựng những hoàn cảnh điển hình, tính cách điển hình. Mặt khác, chúng ta còn phải kể đến một bộ phận khác của giai đoạn 19001945 chính là bộ phận văn học không công khai, của các nhà cách mạng, những chiến sĩ yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Aí Quốc, Tố Hữu. Nội dung chính của nó đólà xem văn học như một vũ khí chống lại thực dân phong kiến.Đặc biệt hơn, họ lại phản ánh xã hội với mâu thuẫn cơ bản giữa nước xâm lược và nước bị xâm lược.Ấn tượng hơn, họ đã xây dựng nhân vật trung tâm của mình là những hình tượng nhân vật yêu nước, những anh hùng bất khuất xả thân vì dân tộc. Thứ ba, văn học phát triển theo tốc độ nhanh chóng. Ta thấy rất rõ ở Hồ Biểu Chánh có hơn sáu mươi cuốn tiểu thuyết, Vũ Trọng Phụng trong thời gian sáng táccho ra đời tám tiểu thuyết, bảy phóng sự hàng chục truyện ngắn có giá trị, Nguyễn Công Hoan một truyện ngắn tài hoa có hành trăm truyện dài và hàng chục truyện ngắn. Nóivề thơ, ta thấy rằngtừ năm 1932-1941Hoài Thanhđã chọn ra những bài thơ tiêu biểu để hình thành nên tập thi nhân Việt Nam.Nói vậy để ta thấy được sự đồ sộ về số lượng trong giai đoạn văn học này. GVHD: ThS. Lê Sỹ Đồng SVTH: Lê Thị Hoài Thương - 17 Không những thế,văn học lúc này có sự cách tân văn học Việt Nam đã đến một đỉnh điểm. Vào năm 1925 ở miền Bắc với tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách ra đời đánh dấu một chấn động lớn. Nhưng đến năm 1933 khi Hồn bướm mơtiên xuất hiện thì Hoàng Ngọc Phách đã lùi xa và sau này Nam Cao,Thạch Lam xuất hiện văn xuôi Việt Nam có một bước phát triển mạnh mẽ hơn nữa. Đến với thơ, ta có bài Nhớ rừng của Thế Lữ, khi bài này ra đời chỉ có đôi ba câu thơ thôi cũng đã đủ làm bức phá thành công vượt qua thơ cũ. Vì thếta thấy văn học thời xưa phát triển rất dữ dội. Nhịp độ phát triển sự trưởng thành của văn học Việt Nam hình thành và phát triển nhờ sự kết tinh tài năng của những cây bút tài hoa, chúng ta có được những tác phẩmvà tác giả đứng vững mãi với thời gian.Những biểu hiện trên có được nhờ vào các nguyên nhân sau:Đó là tiềm lực văn học dân tộc, khả năng diễn đạt tuyệt vời của Tiếng Việt giúp cho các nhà văn hình thành nên sáng tác vô cùng tuyệt diệu. Bên cạnh đó, còn có sự đóng gópcủa lớp trí thức tây học. Họ là những người cách tân văn học đổi mới văn học đưa văn học Việt Nam đến với thế giới, ảnh hưởng từ các cuộc vận động cách mạng với tinh thần dân chủ cách mạng những năm 1930- 1945 do Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo. 1.2. Tác giả Nam Cao 1.2.1. Con người và cuộc đời Nam Cao có một vị trí vững vàng đặc biệt trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945.Ông là một tài năng lớn, một ngòi bút hiện thực sắc bén đã góp phần không nhỏ vào quá trình vận động cách tân văn học bằng chữ quốc ngữ.Những tác phẩm của Nam Cao ra đời trong thời kì phát triển của trào lưu văn học hiện thực phê phán.Chỉ mới mười lăm năm cầm bút (1936- 1951), Nam Cao đã khẳng định vị trí vững chắc cho ngòi bút của mình.Ông đã để lại cho đời những tác GVHD: ThS. Lê Sỹ Đồng SVTH: Lê Thị Hoài Thương - 18 phẩm vô giá, vững bền với thời gian, có sức vượt qua mọi giới hạn để trở thành một người bạn gần gũi với nhiều thế hệ độc giả. Khi đến với nghề văn, Nam Cao luôn quan niệm tiến bộ, nhất quán sâu sắc: “Nghệ thuật không cần ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể là tiếng đâu khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than”[25, 112]. Cả một đời mình, Nam Cao gắn sự nghiệp vào cuộc đời để phản ánh cuộc sống chân thực đầy đen tối của xã hội thực dân phong kiến, số phận lầm than bế tắc của người nông dân, người trí thức tiểu tư sản những năm 1940 -1945. Nam Cao tên thật là Trần Hữu Trí, sinh năm 1917 trong một gia đình nông dân nghèo ở làng Đại Hoàng, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Trong gia đình nghèo, đời sống quá khó khăn, chỉ có mình Nam Cao được ăn học tử tế. Thi Thành chung trượt, Nam Cao đành phải vào Sài Gòn kiếm sống mang trong mình biết bao nhiêu hoài bão, ước mơ dự định trong tương lai, nhưng rốt cuộc bệnh tật đã đưa ông về lại miền quê nghèo mà ông đã từng sống. Khi trở về làng, Nam Cao lại nỗ lực học lại và thi đỗ Thành chung. Ông định đi làm công chức nhưng bệnh tật nên không được chấp nhận. Nam Cao lên Hà Nội dạy học cho một trường tư thục. Chính cuộc sống nhà giáo khổ trường tư này giúp ông nhận thức được sâu sắc về thân phận tri thức nghèo tiểu tư sản phải sống trong không khí ngột ngạt, bế tắc của xãhội cũ. Vào năm 1941, Nhật xâm lược Đông Dương, trường bị đóng cửa. Nam Cao phải chuyển nghề viết văn, làm gia sư,có khi phải thất nghiệp…Và cuối cùng phải tồn tại bằng cách sống dựa giẫm vào vợ ở quê. Năm 1943, Nam Cao tham giavào nhóm Văn hóa cứu quốc cùng với một số nhà văn như Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi, Nguyên Hồng...Nhưng khi cơ sở mà ông đang hoạt động bịphát hiện, Nam Cao trở về quê tham gia vào phong tràoViệt Minh. Năm 1945, Nam Cao thamgia lập đổ chính quyền ở phủ Lí Nhân. Sau được bầu làm chủ tịch xã.Năm 1947kháng chiến bùng nổ, Nam Cao tham gia vào kháng chiến ông vừa biên tập cho báo Cứu quốc Việt Bắc, vừa làm mọi công việc của một cán bộ thông GVHD: ThS. Lê Sỹ Đồng SVTH: Lê Thị Hoài Thương - 19 tin tuyên truyền. Trong quá trình hoạt động nghiêm túc ông được vinh dự kết nạp vào Đảng Cộng Sản Đông Dương năm 1948. Tháng11năm 1951trên đường công tác, Nam Cao bị địch phục kích sát hại Nam Cao ngã xuống khi tài năng đang nổ rộ.Nhắc đến Nam Cao, ta nhớ ngay một người bề ngoài có vẻ lạnh lùng nhưng đằng sau đó có một trái tim nồng hậu, biết yêu thương con người với tấm lòng nhân đạo sâu sắc đối với con người nghèo khổ. Trong sách giáo trình văn học Việt Nam hiện đại, có nhận xét về Nam Cao như sau:“Nam Cao là một người luôn trăn trở về cuộc đời, lúc nào cũng cảm thấy mình mắc nợ tình thâm” [6, 255]. Đó là người bà, mẹ, vợ, họ là những người chịu thương chịu khó nuôi dưỡng, chăm sóc Nam Cao. Chính họ là điểm tựa niềm an ủi, động viên ông trước những sóng gió của cuộc đời, là nơi tiếp sức nâng đỡ đôi chân nhà văn khi ông tuyệt vọng.Trong sâu thẳm nội tâm,Nam Cao thường xuyên dằn vặt,đấu tranh bản thân kiềm nén những tham vọng, để vượt qua chính mình và vươn tới cái đẹp trong cuộc sống. Một đặc điểm nổi bật nữa ở Nam Cao là hay hối hận, dày vò bản thân, dám thành thực và dũng cảm phơi bày mình trên từng trang giấy. Cuộc đấu tranh nội tâm này phản ánh rõ trong các tác phẩm về đề tài tri thức tiểu tư sản. Các nhân vật trí thức tiểu tư sản của Nam Cao ít khi có cuộc sống bình yên, lúc nào cũng lo toán việc gạo tiền, nét mặt dường như đăm chiêu lo lắng.Nam Cao có một tình cảm đặc biệt với quê hương nơi sinh ra và lớn lên ở làng quê. Nam Cao hiểu rõ và yêu thương những người nông dân khốn khổ, tuy họ bề ngoài thô kệch, có khi thô lỗ nhưng bên trong họ mang nhiều phẩm chất đáng quý. 1.2.2. Sự nghiệp sáng tác GVHD: ThS. Lê Sỹ Đồng SVTH: Lê Thị Hoài Thương - 20 Nam Cao là người đại diện cho trào lưu văn học hiện thực giai đoạn 1940 1945, với tài năng xuất sắc nhà văn đã viết ra những trang giấy phản ánh chân thực những cuộc đời tăm tối, chua chát, những bi kịch đau đớn. Trước Cách mạng tháng Tám, sáng tác của Nam Cao đã xoay quanh hai mảng đề tài chính. Mảng đề tài thứ nhất viết về người nông dân nghèo khổ có những tác phẩm như (Nghèo, Chí Phèo, Nhỏ nhen, Nhìn người ta sung sướng, Đòn chồng, Đôi móng giò, Trẻ con không được ăn thịt chó, Mua nhà, Quái dị, Từ ngày mẹ chết, Mua danh, Tư cách mõ, Điếu Văn, Một bữa no, Ở hiền, Lão Hạc, Lang rận, Một đám cưới, Nửa đêm, Dì Hảo, Sao lại thế này, Làm tổ).Mảng đề tài thứ hai viết vềngười trí thức tiểu tư sản có những tác phẩm như (Giăng sáng, Truyện tình, Một chuyện xú - vơ - nia, Đời thừa, Cười, Quên điều độ, Xem bói, Nước mắt, Những chuyện không muốn viết,Sống mòn). Sau cách mạng tháng Tám có những tác phẩm tiêu biểu (Đôi mắt, Chuyện biên giới, Từ ngược về xuôi, Đường vô Nam, Vui dân công,…).  Cuộc sống những người nông dân cùng khổ Bức tranh nông thôn trong truyện ngắn của Nam Cao có phần mới mẻ khá đặc biệt. Bao trùm lên toàn bộ thôn quê trong tác phẩm của Nam Cao là một không khí ngột ngạt u ám,hoang vắng và nghèo đói đến rợn người. Hình ảnh con đường, ngõ vắng, tất cả mọi hoạt động của con người điều được thu gọn vào trong các mái nhà.Cảnh nông thôn hoang vắng đến lạnh người như thế. Chính cái cảnh này nổi lên lên tiếng chửi của những kẻ tha hóa rạch mặt ăn vạ, người vợ túng quẫn chửi con hay thậm chí là tiếng khóc thành lời của những người nông dân bế tắc…Bức tranh nông thôn trong sáng tác của Nam Cao phản ánh chính xác bộ mặt nông thôn Việt Nam những năm cuối cùng của chế độ thuộc địa. Trên bối cảnh nông thôn xơ xác,ngòi bút của Nam Cao đã diễn tả chân thực vềtình trạng nghèo túng và không ít nhân vật bị đẩy vào con đường chết đầy đau đớn: anh Đĩ Chuột (Nghèo), bà cái Tý (Một bữa no), lão Hạc (Lão Hạc), anh Phúc GVHD: ThS. Lê Sỹ Đồng SVTH: Lê Thị Hoài Thương
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất