Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khoá luận tốt nghiệp chính sách dân tộc của triều nguyễn ở nam bộ (1802 đến 1858...

Tài liệu Khoá luận tốt nghiệp chính sách dân tộc của triều nguyễn ở nam bộ (1802 đến 1858)

.PDF
74
1
110

Mô tả:

TRƢỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT KHOA SỬ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CHUYÊN NGÀNH: SƢ PHẠM LỊCH SỬ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA TRIỀU NGUYỄN Ở NAM BỘ (1802-1858) TRẦN VŨ LINH Bình Dương, tháng 5 năm 2016 TRƢỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT KHOA SỬ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NIÊN KHÓA: 2012-2016 CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA TRIỀU NGUYỄN Ở NAM BỘ (1802-1858) Chuyên ngành : Sư phạm Lịch Sử GVHD : Th.s Phan Thị Lý SVTH : Trần Vũ Linh MSSV : 1220820057 Lớp : D12LS02 Bình Dương, tháng 5 năm 2016 LỜI CÁM ƠN Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với giảng viên khoa Sử trường Đại học Thủ Dầu Một đã nhiệt tình giảng dạy, cung cấp kiến thức cho em trong suốt thời gian học ở trường. Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn Th.S Phan Thị Lý đã tận tình hướng dẫn và góp ý cho em trong suốt quá trình thực hiện khóa luận này. Em xin bày tỏ lòng biết ơn đối với phòng tư liệu thư viện Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, trường Đại học Khoa học Xã Hội và Nhân Văn Thành phố Hồ Chí Minh, thư viện tổng hợp tỉnh Bình Dương và thư viện trường Đại học Thủ Dầu Một đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình tập hợp tư liệu để hoàn thành khóa luận này. Qua đây em cũng xin gửi lời cám ơn đến người thân và gia đình đã động viên, ủng hộ, đến tất cả bạn bè đã giúp đỡ em trong việc tìm kiếm nguồn tài liệu tham khảo và đưa ra ý kiến đóng góp cho khóa luận của em được hoàn thiện hơn. Ngƣời thực hiện Trần Vũ Linh MỤC LỤC LỜI CÁM ƠN ............................................................................................................1 PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................1 2. Mục đích nghiên cứu.......................................................................................2 3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ..............................................................................2 3. Đối tƣợng và phạm vị nghiên cứu .................................................................4 5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu..................................................4 6. Đóng góp của đề tài .........................................................................................5 7. Bố cục ...............................................................................................................6 CHƢƠNG 1................................................................................................................7 CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA CÁC TRIỀU ĐẠI PHONG KIẾN VIỆT NAM (từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII) .................................................................................7 1.1. Khái niệm dân tộc ...........................................................................................7 1.2. Chính sách dân tộc của các triều đại phong kiến Việt Nam (từ thế kỷ X đến thế ỷ XVIII) .....................................................................................................7 1.2.1. Chính sách dân tộc của nhà nƣớc thời Ngô, Đinh, Tiền Lê ..............7 1.2.2. Chính sách dân tộc của nhà nƣớc thời Lý - Trần ..............................8 1.2.3. Chính sách dân tộc của nhà nƣớc thời Lê Sơ ...................................13 1.2.4. Chính sách dân tộc của nhà nƣớc phong kiến từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII ......................................................................................................16 1.2.5. Chính sách dân tộc của nhà nƣớc thời Tây Sơn ..............................21 CHƢƠNG 2..............................................................................................................24 CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA TRIỀU NGUYỄN Ở NAM BỘ ......................24 2.1. Khái quát vùng đất và con ngƣời Nam Bộ trƣớc thế kỷ XIX ...................24 2.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên ......................................................24 2.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển vùng đất Nam Bộ từ nguồn gốc đến nửa đầu thế kỷ XIX ...................................................................................25 2.1.3. Cộng đồng dân cƣ ...............................................................................29 2.2. Chính sách với ngƣời Khmer .......................................................................30 2.2.1. Chính sách kinh tế ..................................................................................31 2.2.2. Chính sách giáo dục ...............................................................................34 2.2.3. Chính sách nhu viễn ...............................................................................35 2.2.4. Chính sách cƣơng (bạo lực) ...................................................................36 2.3. Chính sách đối với ngƣời Hoa .....................................................................37 2.3.1. Chính sách kiểm soát và quản lý...........................................................37 2.3.2. Chính sách kinh tế ..................................................................................41 2.3.3. Chính sách nhu viễn và cứng rắn .........................................................45 2.4. Chính sách đối với các dân tộc khác ...........................................................50 2.4.1. Chính sách kinh tế ..................................................................................50 2.4.2. Chính sách giáo dục ...............................................................................51 2.4.3. Chính sách cai quản ...............................................................................52 2.4.4. Chính sách nhu viễn và chính sách cƣơng ...........................................53 2.5. Nhận xét về chính sách dân tộc của triều Nguyễn ở Nam Bộ ...................55 2.5.1. Chính sách dân tộc của triều Nguyễn ở Nam Bộ mang tính kế thừa các triều đại trƣớc ............................................................................................55 2.5.2. Hệ quả của những chính sách dân tộc của triều Nguyễn ở Nam Bộ (1802-1858) ........................................................................................................57 2.5.3. Bài học kinh nghiệm ...........................................................................60 KẾT LUẬN ..............................................................................................................64 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................67 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nam Bộ là vùng đất có cư dân sinh sống từ rất sớm. Trước khi người Việt đến khai phá, vùng đất này đã từng thuộc quyền quản lí của nhà nước Phù Nam, Chân Lạp với nhiều thành phần dân cư khác nhau. Tuy nhiên, đến thế kỷ XVI, Nam Bộ cơ bản vẫn là vùng đất hoang vu với dân cư thưa thớt. Với sự phát triển vượt bậc của công cuộc khẩn hoang, lập làng đã làm thay đổi diện mạo kinh tế, xã hội trên toàn vùng Nam Bộ. Sang thế kỷ XIX, tình hình kinh tế - xã hội Nam Bộ có nhiều biến chuyển tích cực, là khu vực định cư của nhiều thành phần dân tộc khác nhau như người Kinh, Khmer, Hoa, Chăm... Vậy nên Nam Bộ luôn được triều đình nhà Nguyễn quan tâm, coi đây là khu vực có vị thế đặc biệt quan trọng trong quá trình cũng cố và phát triển đất nước. Kế thừa và tiếp nối những truyền thống của các triều đại trước, nhằm cũng cố khối đại đoàn kết dân tộc, năng cao năng lực lãnh đạo và quyền quản lý của mình, nhà Nguyễn đã thực hiện nhiều chính sách đối với với các dân tộc ở Nam Bộ, xem đó là điều kiện thiết yếu để tiến hành quản lý vùng đất mới này. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc của mình, bên cạnh những chính sách mạng lại hiệu quả tích cực cũng không tránh khỏi những yếu tố tiêu cực, làm mẫu thuẫn xã hội ở khu vực này trở nên sâu sắc. Ngày nay, trên thế giới vấn đề mâu thuẫn dân tộc, sắc tộc đang diễn ra ngày một phức tạp, nhiều cuộc nổi dậy chống lại chính quyền của đồng bào dân tộc của một số quốc gia ở khu vực Tây Á, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình chính trị - xã hội trong khu vực và trên thế giới. Thực tế đó đòi hỏi Đảng và nhà nước ta phải có những chính sách phù hợp đối với cộng đồng dân tộc, đây là điều kiện quan trọng để đảm bảo sự bình đẳng, ổn định và phát triển bền vững của quốc gia. Do tầm quan trọng, phức tạp của vấn đề lịch sử đặt ra, vậy nên chính sách đối với đồng bào dân tộc đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và đưa ra đánh giá, nhận xét. Tuy nhiên, vấn đề chính sách của triều Nguyễn đối với dân tộc thiếu số ở Nam Bộ vẫn còn nhiều điểm hạn chế và chưa đi tìm hiểu, nghiên cứu một cách hệ thống và đầy đủ. Việc nghiên cứu chính sách dân tộc của nhà Nguyễn ở Nam Bộ nhằm góp phần phục dựng rõ ràng hơn bức tranh xã hội Việt Nam nữa đầu thế kỷ XIX. Đồng thời, việc nhìn nhận và đánh giá lại những tác động, ảnh hưởng của -1- chính sách dân tộc thời nhà Nguyễn dưới cái nhìn đổi mới để hiểu được một phần lịch sử của chính sách dân tộc, những kinh nghiệm và bài học từ chính sách đó đối với cuộc sống hôm nay là một việc làm cần thiết. Đồng thời đề tài còn cung cấp thêm tư liệu để nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề chính sách đối với các dân tộc ở Việt Nam. Chính vì những lý dó trên nên em đã chọn đề tài “Chính sách dân tộc của triều Nguyễn ở Nam Bộ (1802 – 1858)” để làm đề tài khóa luận tốt nghiệp. 2. Mục đích nghiên cứu Đề tài “Chính sách dân tộc của triều Nguyễn ở Nam Bộ (1802-1858)”, nhằm làm rõ chính sách của nhà Nguyễn đối với các dân tộc cụ thể ở Nam Bộ như chính sách đối với đồng bào dân tộc Khơ me, đối với người Hoa, một số dân tộc ít người khác… Từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá về những chính sách dân tộc của nhà nước phong kiến trong giai đoạn nữa đầu thế kỷ XIX. 3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Cho tới nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về Nam Bộ trên nhiều lĩnh vực, trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau. Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài, tác giả đã thừa hưởng được một số nguồn tài liệu liên quan đến đề tài: - Nhóm tác phẩm do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn Tác phẩm Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất thống chí, Khâm định Đại Nam Hội Điển sử lệ, Minh Mệnh chính yếu… Đây là những nguồn thư tịch cổ ghi chép lại những sự kiện kinh tế, chính trị, xã hôi, văn hóa của xã hội đương thời. Với các tác phẩm này, ở một mức độ nhất định đã cung cấp những thông tin về chính sách dân tộc cũng được các sử gia ghi chép khá đầy đủ, là cơ sở quý báu cho tác giả đi sâu nghiên cứu đề tài. - Các sách chuyên khảo: Tác phẩm “Chính sách dân tộc của các vương triều phong kiến Việt Nam” của Phan Hữu Dật (Nxb Chính trị quốc gia, 2001). Trong đó, tác phẩm tập trung và phân tích quá trình hình thành các tộc người ở Việt nam, chính sách của các chính quyền nhà nước phong kiến Việt Nam đối với từng vùng biên giới lãnh thổ, đối với các dân tộc trong quá trình thực hiện khối đại đoàn kết trong quá trình bảo vệ biên cương đất nước, ổn định và cũng cố chế độ trung ương tập quyền, từ những chính -2- sách “nhu viễn” đến chính sách “bạo lực”. Tuy nhiên, tác giả cũng mới trình bày khái quát các triều đại mà chưa đi sâu phần tích từng triều đại cụ thể. Tác phẩm “Chính sách dân tộc của các triều đại phong kiến Việt Nam (từ thế kỷ XI đễn giữa thế kỷ XIX” của tác giả Đàm Thị Uyên (Nxb Văn hóa dân tộc, năm 2007). Đây là sự bổ sung cho ấn phẩm chính sách dân tộc của các triều đại phong kiến Việt Nam, tuy nhiên cũng như các học giả đi trước, tác giả cũng mới dừng lại ở việc phân tích một cách tổng quát chính sách của các triều đại phong kiến và chưa đi sâu phân tích chính sách của triều Nguyễn hay một dân tộc cụ thể nào. - Tài liệu luận văn, luận án: Chính sách của các vương triều Việt Nam đối với người Hoa, của tiến sĩ Huỳnh Ngọc Đáng. Trong nghiên cứu của mình, tác giả đã đi sâu phân tích từng chính sách cụ thể của các triều đại phong kiến Việt Nam đối với người Hoa, đặc biệt trong thời kỳ chúa Nguyễn và triều Nguyễn. Tác giả đã đưa ra những nhận xét, đánh giá một cách thấu đáo về chính sách với người Hoa của nhà Nguyễn. Đầy là một trong những nguồn tài liệu quý báu giúp tác giả thực hiện tốt đề tài khóa luận của mình. - Tài liệu tạp chí, bài nghiên cứu Trên các tạp chí chuyên ngành như tạp chí nghiên cứu lịch sử, tạp chí dân tộc học … đã có nhiều công rình nghiên cứu của các học giả về chính sách của nhà Nguyễn. Một số bài nghiên cứu của các học giả như “Chính sách đối với các dân tộc của triều Nguyễn nữa đầu thế kỷ XIX”, tác giả Nguyễn Minh Tường, tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 6 – 1993. “Triều Nguyễn với các nhóm cộng đồng người Hoa ở Việt Nam thế kỷ XIX”, Châu Hải, tạp chí nghiên cứu lịch sử số 5 – 1994. “Chính sách giáo dục của nhà Nguyễn đối với các dân tộc ít người ở Việt Nam vào nữa đầu thế kỷ XIX”, Phạm Thị Ái Phương, tạp chí dân tộc học số 3 – 2005. “Đôi nét về chính sách sử dụng quan lại của vua Minh mạng đối với vùng dân tôc thiểu số”, Lê thị Thanh Hòa, tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 5 – 1995… Các bài nghiên cứu đã đi tìm hiểu chính sách của nhà Nguyễn đối với các dân tộc trên một số khía cạnh nhất định, tuy nhiên chưa đi sâu nghiên cứu về chính sách đối với các dân tộc ở Nam Bộ. -3- Trên đây là một số nguồn tư liệu quý để tác giả đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu về nhà Nguyễn. Mặc dù các tài liệu trên không nêu cụ thể “Chính sách dân tộc của triều Nguyễn ở Nam Bộ (1802-1858)”, nhưng đã đề cập được một số vấn đề liên quan. Do vậy, đây là những nguồn nguồn tài liệu tham khảo quan trọng giúp tác giả xác định rõ hơn đối tượng phạm vi đề tài khi xây dựng bố cục, đề cương của đề tài. Cùng với việc thừa kế những thành quả của các nhà nghiên cứu trước đây, tác giả đã cố gắng giải quyết các vẫn đề đặt ra trong đề tài nhằm bổ sung vào việc nghiên cứu các chính đối với các dân tộc ở Nam Bộ. 3. Đối tƣợng và phạm vị nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Chính sách dân tộc của triều Nguyễn ở Nam Bộ. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về Không gian: Đề tài nghiên cứú về chính sách của nhà Nguyễn đối với các dân tộc trên vùng đất Nam Bộ, gần như tương ứng toàn bộ vùng kinh tế - xã hội Nam Bộ ngày nay. Về thời gian: Giới hạn của đề tài nằm trong khoảng thời gian từ 1802 khi Nguyễn Ánh đánh bại Tây Sơn thiết lập nên nhà Nguyễn đến năm 1858 dưới triều vua Tự Đức khi liên quân Pháp – Tây ban Nha nổ súng xâm lược nước ta. Từ đây, nhà Nguyễn vừa phải đối phó với phong trào nông dân liên tiếp xảy ra vừa phải tập trung đối phó với sự xâm lược của chủ nghĩa tư bản phương Tây mà cụ thể là thực dân Pháp nên ít giành sự quan tâm đến các dân tộc. 5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Nguồn tài liệu Trong quá trình thực hiện khóa luận, tác giả đã kế thừa về tư liệu và cả về lý luận của các công trình nghiên cứu đi trước có liên quan đến đề tài. Thực tế đã có nhiều tài liệu viết chính sách đối với các dân tộc ở Nam Bộ nhưng không rõ ràng và thậm chí có sự trùng lập. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của khóa luận tốt nghiệp, tác giả đã cố gắng khai thác các nguồn tư liệu sau: Một là, các bộ sử được ra đời dưới triều Nguyễn như Đại Nam thực lục, Khâm Định Đại Nam hội điển sử lệ, Phủ Biên tạp lục. Đây là những tài liệu gốc mà -4- tác giả đã dùng để đối chiếu, so sánh các sự kiện, niên đại liên quan đến việc nghiên cứu các chính sách đối với các dân tộc ở Nam Bộ của nhà Nguyễn. Hai là, các tác phẩm biên khảo như Chính sách dân tộc của các triều đại phong kiến Việt Nam (từ thế kỷ XI đễn giữa thế kỷ XIX), Chính sách dân tộc của các vương triều phong kiến Việt Nam. Các tác phẩm đã trình bày khái quát về chính sách dân tộc đối với các dân tộc của các triều đại phong kiến Việt Nam. Ba là, những bài viết trên tạp chí khoa học như Tạp chí nghiên cứu lịch sử, tạp chí dân tộc học. Các bài luận văn, bài báo cáo trong các hội thảo khoa học về vùng đất Nam Bộ. 5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu Phương pháp lịch sử và phương pháp logic đây là hai phương pháp căn bản được sử dụng trong khóa luận. Vận dụng phương pháp lịch sử là dựa trên những sử liệu xác thực để miêu tả, khôi phục lại quá khứ như nó đã từng tồn tại. Cụ thể ở đây là khái quát lại các chính sách cụ thể đối với các dân tộc của nhà Nguyễn. Phương pháp logic được vận dụng trong việc hệ thống hóa các sự kiện lịch sử, hình thành ý kiến nhận xét, đánh giá khoa học về vấn đề được nghiên cứu. Hai phương pháp này được vận dụng phối hợp trong toàn bộ bài khóa luận. Ngoài ra tác giả còn sử dụng các phương pháp như: Phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh… để làm rõ vấn đề đặt ra. 6. Đóng góp của đề tài Về mặt khoa học: Với những tư liệu có được, khóa luận giúp cho bạn đọc quan tâm có một cách nhìn, đánh giá, nhận xét cụ thể về chính sách của nhà Nguyễn đối với các dân tộc thiếu số ở Nam Bộ. Giúp chúng ta hiểu một các toàn diện về những chính sách của nhà Nguyễn - triều đại cuối cùng trong lịch sử phong kiến Việt Nam qua đó có thể rút ra những nhận xét, đánh giá một các khách quan nhất về triều đại này. Về mặt thực tiễn: Đề tài góp phần nghiên cứu về chính sách dân tộc của triều đại phong kiến nhà Nguyễn, từ đó, rút ra một số bài học kinh nghiệm trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay- bài học về vấn đề đại đoàn kết dân tộc. Đồng thời khóa luận là tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến vẫn đề này. -5- 7. Bố cục Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung đề tài có kết cấu gồm 2 chương: Chương 1: Chính sách dân tộc của các triều đại phong kiến Việt Nam (từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII). Trong chương này, tác giả chủ yếu trình bày khái quát về chính sách của các triều đại phong kiến Việt Nam đối với các dân tộc trên toàn lãnh thổ nước ta lúc bấy giờ. Chương 2: Chính sách dân tộc của triều Nguyễn ở Nam Bộ. Tác giả đã trình bày sơ lược về lịch sử hình thành vùng đất Nam Bộ cũng như công đồng cư dân ở vùng đất này. Đi sâu tìm hiểu về các chính sách cụ thể đối với các dân tộc ở Nam Bộ như dân tộc Khmer, người Hoa và một số dân tộc khác. Đồng thời rút ra một số nhận xét, đánh giá và tác động của chính sách của nhà Nguyễn đối với các dân tộc của nhà Nguyễn. -6- CHƢƠNG 1 CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA CÁC TRIỀU ĐẠI PHONG KIẾN VIỆT NAM (từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII) 1.1. Khái niệm dân tộc Dân tộc là sản phẩm của một quá trình lâu dài của xã hội loài người. Trước khi xuất hiện, loài người trải qua những hình thức cộng đồng từ thấp đến cao: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc. Cho đến nay, khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, trong đó có hai nghĩa được dùng phổ biến nhất: Một là, dân tộc chỉ một cộng đồng người có mối liên hệ chặt ch và bền vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ riêng và những nét văn hóa đặc thù, xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc. Với nghĩa này, dân tộc là một bộ phận của quốc gia – quốc gia nhiều dân tộc. Hai là, dân tộc chỉ cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một nước, có lãnh th , quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất quốc của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính trị, kinh tế, truyền thống, văn hóa và truyền thống đấu tranh chung suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước. Với nghĩa này, dân tộc là toàn bộ nhân dân của quốc gia đó – quốc gia dân tộc. Với đề tài này, ta đi tìm hiểu dưới gốc độ dân tộc là một bộ phận của quốc gia. 1.2. Chính sách dân tộc của các triều đại phong kiến Việt Nam (từ thế kỷ X đến thế ỷ XVIII) 1.2.1. Chính sách dân tộc của nhà nƣớc thời Ngô, Đinh, Tiền Lê Năm 939, Ngô Quyền lên ngôi vua, xây dựng vương triều phong kiến đầu tiên, đưa nước ta bước vào một thời kỳ mới - thời kỳ phong kiến. Tình hình chính trị - xã hội của nước ta thời kỳ này chưa được ổn định, vì vậy, những chính sách đối với các dân tộc của triều đình hầu như là chưa được định hình và chưa rõ ràng. Có chăng, chỉ là những việc làm cụ thể, cứng rắn mà triều đình đề ra để răn đe nhân dân. Năm 968, Vua muốn dùng uy chế ngự thiên hạ, bèn dặt vạc lớn ở sân triều, nuổi hổ dữ trong cũi, hạ lệnh rằng: “kẻ nào trái phép phải chịu tội bỏ vạc dầu, cho hổ ăn” [19; 59]. -7- Năm 980, nhà Tiền Lê được thành lập, đất nước được sống trong cảnh thanh bình. Triều đình đề ra những chính sách đối nội, đối ngoại phù hợp, trong đó, có thể chính sách đối với các dân tộc đã được đề cập đến. Nhưng chưa có tài liệu nào ghi chép một cách cụ thể về những chính sách của nhà Tiền Lê đối với dân tộc. Nhìn chung, trong bối cảnh triều đình phong kiến mới xây dựng, nhà Tiền Lê phải nhiều lần đưa quân đánh dẹp sự nổi dậy của các tộc người thiểu số. Năm 999, nhà Vua thân đi đánh và dẹp được Hà Động, “bốn mươi chín động vùng Hà Đông đều được dẹp yên cả”. Năm 1001, tên dân tộc Mán là Cử Long làm phản, nhà vua đích thân đi đánh và dẹp được phản loạn. Vua thân đi đánh giặc Cử Long. Quân giặc thấy nhà vua, chúng giương cung nhắm bắn thì tên rơi, lại giương cung thì dây đứt, tự lấy làm sợ mà rút lui. Vua bèn đi thuyền vào Cùng Giang để đuổi. Giặc bày trận hai bên bờ chống lại, quan quân bị hãm ở giữa sông, vua cũ [nhà Đinh] là Vệ Vương Toàn trúng tên chết tại trận. Vua kêu trời ba tiếng rồi thúc quân đánh, giặc tan vỡ ”. [19; 72-73]. Dưới thời vua Lê Long Đĩnh nắm quyền, chính sách cương đối với dân tộc được thực hiện một các nhanh chống và rất dã man. Năm 1008, Vua thân đi đánh hai châu Đỗ Lương, Vị Long, bắt được người Man và vài trăm con người, sai lấy gậy đánh, người Man đau quá kêu gào, nhiều lần phạm tên huy của Đại Hành, vua thích lắm. Lại tự làm tướng đi đánh Hoan Châu và châu Thiên Liễu, bắt được người thì làm chuồng nhốt vào rồi đốt” [19; 76]. Như vậy, trong giai đoạn đầu của nền tự chủ, các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê đã có những chính sách đối với các dân tộc. Chính sách thể hiện cứng rắn để chế áp, bắt buộc các tù trưởng phải phục tùng. 1.2.2. Chính sách dân tộc của nhà nƣớc thời Lý - Trần Chính sách nhu viễn Năm 1009, nhà Lý được thành lập. Sự kiện này đánh dấu bước khởi sắc của chính quyền phong kiến Việt Nam, đưa đất nước ta bước vào một thời kỳ phát triển mới. Trong giai đoạn đầu, việc tiếp cận đến những vùng đất sinh sống của DÂN TỘC của triều đình vẫn còn gặp nhiều khó khăn, ở đây, tù trưởng luôn là một trong những người có thế lực lớn trong nhân dân. Nhà Lý vẫn để các tù trường tự cai -8- quản địa phương theo luật tục, chính quyền trung ương ràng buộc họ bằng những chính sách, biện pháp mềm mỏng để lôi kéo họ, nhắm thắt chặt mối đoàn kết quốc gia dân tộc, mở rộng ảnh hưởng của triều đình lên vùng núi biên giới [39; 19]. Đối với vùng biên giới phía Bắc, nơi có nhiều thành phần dân tộc cùng sinh sống, khu vực có vị trí quan trọng về kinh tế, chính trị, quốc phòng và an ninh đối với cả nước, nhà Lý luôn dành cho nơi đây sự quan tâm đặc biệt và có những chính sách phù hợp với Man dân. Nhằm mục đích duy trì ảnh hưởng của mình đến các khe động ở khu vực tây Tả Giang (Quảng Tây - Trung Quốc) và biên giới ráp gianh với Quảng Đông, các vua Lý đã đưa ra chủ trưởng chủ động kết thân với các tù trưởng, động trưởng, các dòng họ lớn từng thống trị ở địa phương bằng cách ban chức tước cao cho người thủ lĩnh của họ. Vua Lý ban châu mục cho Giáp Thừa Quý ở Lạng Châu, phiên thần tin cậy nhất trấn giữ nơi quan yếu, đây là khu vực gần với kinh kỳ và nằm trên con đường bộ từ Tống sáng nước ta. Họ Giáp được phép nối đời làm châu mục vùng Lạng Châu (Bắc Giang và nam Lạng Sơn). Vi Thủ làm thủ lĩnh châu Tô Mậu (Lạng Sơn). Hoàng Kim Mãn – thủ lĩnh Môn Châu (Đông Khê). Nùng Tồn Phúc làm thủ lĩnh châu Thảng Do (Cao Bằng). Năm 1043, Nùng Trí Cao được phong thái bảo – là một trong các chức vụ cao nhất trong quan chế triêu Lý [39; 19]. Nhà Lý rất tin tưởng và giao cho các châu mục trực tiếp quản lý công việc quân và dân sự, điều này được thể hiện trong sách “Khâm định Việt sử thông giám cương mục”: “ Thời bấy giờ không đặt trấn tiết trấn, các việc dân sự và quân sự ở các châu đều được do châu mục cai quản. Các châu miền thượng du lại giao cho các tù trưởng địa phương quản lĩnh” [24; 306]. Hiểu rõ được quyền lực của các tù trưởng thiểu số, triều đình đã tìm cách thiết lập mối quan hệ thân thiết với họ. Do đó, chính sách cơ bản của triều Lý là cũng cố quốc gia thống nhất bằng cách ra sức tranh thủ các tù trưởng để qua họ thắt chặt khối đoàn kết dân tộc và mở rộng ảnh hưởng của triều đình lên vùng biến giới [39; 20]. Một trong những việc làm để thực hiện chính sách đó là nhà Lý thường gả công chúa và phong tước cho các tù trưởng. Điều này thể hiện rõ quan điểm của nhà Lý đó là đặt quyền lợi quốc gia lên trên quyền lợi của dòng họ, lấy hôn nhân để cũng cố biên thùy. Lạng Châu phía nam ải Chi Lăng “Chủ động tên là Giáp Thừa Quý lấy con gái của Lý Công Uẩn rồi đổi ra -9- họ Thân. Con Thừa Quý là Thiệu Thái lấy con gái Đức Chính (Lý Thái Tông), con Thiện Thái là Cảnh Long lại lấy con gái Nhật Tôn (tức Lý Thánh Tông)” [39; 20]. Với việc hợp thức hóa quan hệ bằng con đường hôn nhân, nhà Lý đã gắn kết các tù trưởng thiểu số trong quan hệ thân thích, biến họ trở thành những quan chức thân cận của triều đình. Ngoài ra, triều đình còn cho xây dựng những điểm làm trạm nghĩ chân cho các tù trưởng m i khi họ về kinh đô như đặt trấn Vọng Quốc và bảy trạm Quy Đức, Tuyên Hóa, Thanh Bình, Vĩnh Thông, Cảm Hóa, An Dân. Việc hợp thức hóa mối quan hệ hoàng tộc, vua – quan đã vô hình chung bắt buộc các tù trưởng thiểu số phải phục tùng nhà nước về mọi mặt, trong đó có kinh tế. Theo đó, vua Lý đã ấn định các loại lệ thuế như sau: Tiền chằm hồ ruộng đất; Tiền và thóc về bãi dâu; Sản vật ở núi nguồn, các phiêu trấn; Mắm muối vận chuyển qua các biên ải; Sừng tê, ngà voi và các hương liệu của người Man; Các thứ gỗ và hoa quả ở đầu nguồn [14; 243]. Đặc biệt, nhà Lý khẳng định chủ quyền lãnh thổ quốc gia tuyệt đối với những vùng đất này bằng chính sách thuế cống và khai thác tài nguyên. Theo Đại Việt sử ký Toàn thư: Vào năm 1013, triều đình đưa ra lệ thuế, trong đó yêu cầu m i cư dân miền núi phải cống nạp những sản vật địa phương cho nhà nước theo định kỳ. Năm 1039, động Vũ Kiến châu Quảng Nguyên dâng khối vàng sống nặng 112 lạng. Huyện Liên (Ngân Sơn, Bắc Kạn), châu Lộng Thạch (Thạch An, Cao Bằng), châu Định Biên (Định Hóa, Thái Nguyễn) tâu rằng trong bản xứ có hố bạc [14; 247]. Các bộ lạc Ngưu Hồng ở thượng lưu sông Đà và Ai Lao dâng vàng bạc, trầm hương, sừng tê, ngà voi và các thứ thổ ngơi (1067), thủ lĩnh Tây Nông là Dương Tuệ dâng khối vàng sống trường thọ (1127). Nhờ vào những chính sách trên, triều đình luôn yên tâm về vùng trung du, biên giới phía Tây và Tây Bắc khi lòng dân đều một lòng hướng về nhà vua. Năm 1226, nhà Trần thiết lập. Sau khi lên ngôi, vua Trần đã tiếp tục sử dụng hôn nhân chính trị để kết thân với các tộc trưởng thiểu số. Trần Thái Tông đã gả các cung nhân và con gái tôn thất nhà Lý cho các tù trưởng các khe, động người dân tộc. Tuy nhiên, về sau lại không thấy đề cập đến quan hệ hôn nhân giữa các tù trưởng thiểu số và cung nhân dưới thời Trần. Nhà Trần cũng chú ý gắn kết khối đoàn kết dân tộc bằng việc ban các phẩm tước quan trọng cho các tù trưởng thiểu -10- số. Hà Bổng là một chủ trại châu Quy Hóa (bắc Phú Thọ) được phong tước hầu; Trinh Giác Mật ở đạo Đà Giang, sau khi quy thuận triều đình được phong tước thượng phẩm; Hà Tất Năng và Lương Hiếu Bảo… đều được phong đến quan phục hầu [39; 21]. Không hoàn toàn giống như thời Lý trước đây, nhà Trần đã quy định lại việc quản lý quân và dân sự. Trong đó, ngoài việc trao quyền quản lý quân sự và dân sự cho các châu mục tự cai quản, triều đình còn phân phong một số người trong hoàng tộc và quan lại lên trấn giữ một số địa phương biên ải phía Bắc. Đời Trần Hiến Tông (1328-1341)Thiều Thốn là viên quan văn, được cử lên trấn giữ châu Đoàn Thành (Lạng Sơn); Nguyễn Công Ngân, quan võ, được cử lên cai quản châu Thất Nguyễn (Tràng Định, Lạng Sơn ngày nay) Chính sách cương (bạo lực) Chính sách nhu viễn là chính sách xuyên suốt, chủ đạo và lâu dài nhằm tạo ra mối quan hệ hòa hiếu đối với các DÂN TỘC, đồng thời tạo một hệ thống phòng thủ vững chắc ở miền núi biên giới. Tuy nhiên, không phải lúc nào chính sách đó cũng phát huy được tác dụng tuyệt đối, do những vùng đất này gần biên giới, địa hình đi lại khó khăn và nằm khá xa kinh đô, do đó, các dân tộc dễ bị mua chuộc, gây sức ép, ảnh hưởng đến khối đoàn kết dân tộc. Có trường hợp không chịu nộp thuế cho triều đình, nuôi mầm móng cát cứ hay tự thành lập một nước riêng làm tổn hại đến chủ quyền và an ninh quốc gia. Từ đó, các Vua nhà Lý tin rằng phải sử dụng cả uy lẫn đức để ràng buộc và thu phục các phiên thần. Nhà Lý đã chủ động, cương quyết dùng bạo lực để trấn áp những hành vi xâm phạm chủ quyền, ảnh hưởng đến khối đoàn kết dân tộc và thống nhất quốc gia. Năm 1013 Lý Thái Tổ dẹp Hạc Thác (Vân Nam).Ở Kim Hoa và Vị Long (huyện Ki m Anh châu Chiêm Hoá). Năm sau 1014 Dực Thánh vương đi dẹp Dương Trường Huệ cũng ở vùng ấy. Hà Trắc Tuấn quản các châu Đô Kim (Hàm Yên – Tuyên Quang) và châu Vĩnh Long (Chiêm Hóa), châu Bình Nguyên, châu Vị Xuyên (tức Tuyên Quang và Hà Giang) làm phản. Năm 1015, Dực Khánh Vương và Vũ Đức Vương đi đánh. Giáp Đan Nãi ở Châu Ái làm phản, vua thân đi đánh được Đan Nãi rồi sai trung sứ, đốc xuất người ở giáp đó đào kênh Đan Nãi vua tự Đan Nãi về kinh sư -11- (1029). Cũng năm ấy, Lý Thái Tông đánh châu Thất Nguyên (Thất Khê), Đông Chinh Vương đánh châu Văn (Văn Uyên, Văn Quan phía tây nam Lạng Sơn). Với việc Nùng Tồn Phúc ở châu Quảng Nguyên làm phản (1038), vua nhà Lý đã xuống chiếu rằng: “Từ khi lên làm vua tới giờ tướng văn, tướng võ…phương xa cõi lãnh không đâu là không thuần phục nay họ Nùng Tự Tôn càn gỡ tiếm vị ra mệnh lệnh tụ họp quân ong bọ làm hại nhân dân biên thùy” [39; 22]. Vâng lệnh trời, Lý Thái Tổ đi dẹp bọn phản loạn Nùng Tồn Phúc và trừ khử được những tên đứng đầu. Ngoài việc sử dụng những chính sách riêng l (nhu viễn – cương), nhà Nguyễn còn linh hoạt trong việc kết hợp sử dụng hai chính sách “Cương” và “Nhu”. Điều này được thể hiện rõ trong việc triều Lý đối xử với họ Nùng ở Cao Bằng. Sau khi Nùng Tồn Phúc chết, năm 1041 con trai của Y là Nùng Trí Cao đã quay lại chiếm đất, với âm mưu thành lập quốc gia mới (Đại Lịch). Năm 1048, Nùng Trí Cao làm phản lần thứ hai sau khi được nhà Lý tha tội chết trước đó. Tuy nhiên, với sức mạnh vượt trội, vua quan nhà Lý đã nhanh chống dập tắt hành động phản quốc của Trí Cao. Đồng thời, tiếp tục cho họ Nùng trấn giữ những vùng đất quan trọng như động Lôi Hỏa, Bình, An, Bà… Vua Lý cương quyết trấn áp các hành động phản loạn, nhưng cũng rất khoan dung và ưu đãi đối với những kẻ đã quy thuận và thần phục.Vì thế, các tộc người Man ở vùng núi phía bắc một lòng trung thành với quốc gia và trở thành phên dậu vững chắc ở biên giới. Đến thời nhà Trần, việc triều đình dùng bạo lực để trấn áp những cuộc nổi loạn ở vùng miền núi diễn ra khá liên tục. Năm 1277, vua Trần Thánh Tông tự cầm quân đi trừng trị kẻ nổi loạn tại động Nâm Bà La, Quảng Bình, phía tây phủ Bố Chính. Chiêu văn vương Trần Nhật Duật đi dẹp A Lộc. Hưng nhượng vương Quốc Tảng đi đánh Sầm Tớ, Thanh Hóa [39; 24]. Ngoài ra, nhà Trần còn sử dụng tài, đức của người trong hoàng tộc để thu phục những kẻ làm phản ở biên thùy. Với việc Trịnh Giác Mật làm phản vào năm 1280, vua Trần đã cử hoàng tử Trần Nhật Duật, người biết nói thông thạo tiếng Man và am hiểu phong tục tập quán của họ: “Trần Nhật Duật đã trèo lên trại của Trịnh Giác Mật cùng ăn bốc, uống bằng mũi với Mật. Người Man thích lắm. Khi Nhật Duật trở về, mật đem gia thuộc đến doanh trại đầu hàng” [15; 46]. Nhìn chung, các cuộc dẹp loạn dưới triều Lý - Trần đều do -12- những thân Vương và các quan đại thần đích thân lãnh đạo, trong đó hầu hết các cuộc dẹp loạn được giải quyết bằng bạo lực. Nhìn chung, chính sách đối với dân tộc thể hiện tương đối cụ thể dưới thời Lý – Trần. Dưới thời nhà Hồ, không có tư liệu nào về chính sách đối với dân tộc. Có l trong một thời gian ngắn, nhà Hồ vừa tập trung cho những chính sách cải cách toàn diện, vừa chuẩn bị đối phó với quân xâm lược nên sự quan tâm đến dân tộc chưa thể hiện. 1.2.3. Chính sách dân tộc của nhà nƣớc thời Lê Sơ Năm 1428, nhà Hậu Lê được thành lập. Trong giai đoạn Lê Sơ (1428-1504), nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đạt đến mức độ hoàn thiện, đã tăng cường hiệu lực quản lý đối với mọi vùng miền của đất nước. Nhà nước phong kiến Lê Sơ đã đề ra những chính sách quản lý đối với vùng đồng bào dân tộc. Nội dung chính sách này có sự kế thừa của các triều đại trước và được thể hiện ở các phương diện: Chính sách nhu viễn Như đã đề cập, chính sách của triều Lê Sơ về cơ bản giống thời Lý – Trần. Ngoài ra, nhà Lê còn bổ dụng các tù trưởng thiếu số ngồi vào các chức quan như: Đoàn luyện, Thủ ngựu, Tri châu, Đại tri châu. Một số tù trưởng được phong tước cao như Tư không bình chương sự, Thượng tướng quân, Đại tướng quân . Năm 1427, Lê Lợi đã trao chức Đoàn huyện, Thủ ngưu cho tù trường các dân tộc nắm giữ để cai quản nhân nhân và giữ gìn trật tự địa phương. Giữa năm 1427, Lê Lợi trao chức nhập nội Tư không đồng bình chương sự tri Đà Giang trấn thượng bạn cho Xả Khả Tham là Lộc, Khát, Bàn, Điểm đều được làm đại tướng quân [39; 31]. Vào tháng 3 năm Giáp Dần (1434), vua Lê Thái Tông đã lấy Ngự tiền Trung quân Thiết đột là Lê Đẳng làm Phòng ngự sứ trí quân dân sự các xứ Phọc La, Trịnh Long, Mường Dương thượng hạ; Lê Thiêm làm Phòng ngự sứ tri quân dân sự ở châu Nam Mã, hai châu Tàm thượng hạ và huyện Lan Hòa. Nhà nước vẫn dành cho các tù trưởng những quyền hạn tuyệt đối ở địa phương, đồng thời họ được trực tiếp cai quản dân bản địa theo phong tục riêng. Điều này được quy định cụ thể trong “Lê triều hình luật”. Chính sách bạo lực -13- Nhà Lê được thành lập từ kết quả thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn, bước vào thời kỳ cũng cố khôi phục đất nước vẫn còn nhiều tù trưởng tỏ ra chưa thần phục chính quyền và nhiều lần đứng dậy nổi loạn. Các vua Lê Sơ đã dùng sức mạnh quân sự tuyệt đối của mình để trấn áp, thu phục họ. Năm 1431, vua Lê Thái Tổ đích thân đi dẹp loạn Bế Khắc Thiệu và Nông Đắc Thái ở châu Thạch Lâm (Cao Bằng), sau đó ông còn khắc một bài thơ lên núi đá thể hiện ý chí kiên cường và không ngại khó khăn, thử thách để cho đất nước thái bình. Năm 1432, Lê Lợi mang quân đi đánh bọn phản loạn, kết nối ngoại quốc, quấy rối biên giới. Khi đến Lai Châu, Lê Lợi đã làm bài thơ ngụ ngôn khắc vào đá: “Di địch quấy rối ngoài biên từ xưa đã có…Các man Mường Lễ nước Việt ta… Trước đây, vì nhà Trần, nhà Hồ, chính lệnh suy đồi, Đèo Cát Hãn quen theo thói cũ dựa nơi hiểm trở nảy lòng gian ác. Nay ta đem quân đi đánh, thủy bộ cùng tiến đánh một trận dẹp yên, nhân viết một bài thơ luật để răn dạy các tù trưởng Man không quy hóa ở đời sau” [20; 321]. Trước sự chênh lệch lực lượng bất lợi, Đèo Cát Hãn cùng con trai đã xin hàng. Năm 1437, thổ tù Mường Mu i, Thuận Châu nổi lên chống nhà Lê, Lê Thánh Tông cử Hà An Lược mang quân lên đánh Đạo Quỵ, bắt được Đạo Quỵ cùng 100 người đưa về Đông Kinh (Thăng Long) giết. Triều Lê Sơ còn kế thừa và sử dụng hiệu quả việc kết hợp chính chính nhu và cương của các triều đại trước. Điều này được thể hiện rõ qua việc ưu ái và phong quan tước cho những kẻ n i loạn khi họ đầu hàng. Lê Thánh Tông phong cho con Đạo Quỵ làm hoài viễn tướng quân kiếm chức đồng tri châu, và tiếp tục quản lý địa phương [39; 31]. Những bộ lạc đã quy phục Đại Việt nhưng không thực hiện những nghĩa vụ đối với quốc gia và nhiều lần chống đối, triều đình đã dùng bạo lực để ngăn chặn và thu phục hoàn toàn phản loạn, đồng thời chính thức sáp nhập những bộ lạc đó vào lãnh thổ Đại Việt. Năm 1479, các tù trưởng Bồn Man không chịu tiến cống nữa, Lê Thánh Tông sai Lê Niệm mang quân đi dánh Bồn Man và quy phục được. Vua cho Cầm Đồng làm thuyên úy đại sứ đất Bồn Man và lập ra phủ Trấn Ninh quản lĩnh bảy huyện (Kim Sơn, Thanh Vị, Cảnh Thuần, Quang Vinh, Minh Quang, Quan Lang, Tứ Thuận) giao lại cho họ Cầm Lư quản giữa. Bồn Man chính thức thuộc về Đại Việt [39; 32]. -14- Thực hiện chính sách phiên thần Với sự tăng cường cao độ của chế độ phong kiến trung ương tập quyền, việc trấn giữ khu vực biên thùy luôn được nhà nước quản lý chặt ch . Triều đình đã cử nhiều quan lại miền xuôi lên trấn giữ miền núi, cũng như để nhiều thổ tù nhận sắc phong của triều đình, biến họ trở thành những phiên thần của triều đình. Triều đình đã dùng những công thần để lên khai hoang vùng đất miền núi, cho họ quyền cai trị tại địa phương và đồng thời làm nhiệm vụ bảo vệ biên cương của tổ quốc. Các phiên thần được hưởng chức tước theo quan chế triều đình, tuy nhiên có một số đặc điểm riêng như được cha truyền con nối, hưởng các tước phẩm cao quý của triều đình… đối với những người lập được chiến công xuất sắc. Những dòng họ phiên thần là người miền xuôi được cử lên trấn trị vùng biên giới như: Vi Phúc Hân ở xã Vạn Phần, huyện Đông Thành tỉnh Nghệ An. Ông được phong chức đô đốc chi hoàn quận công triều đình, cha của ông là Vi Kim Thăng được phong chức thảo l tướng quân. Con cháu của Vi Phúc Hân đều được phong tước hầu và cai quản các châu ở huyện Cao Lộc. Họ Hà ở Giao Thủy, Nam Định. Hà Hặc theo vua Lê Thái Tổ đi dẹp bè lũ tù trưởng Nông Thiện Thái ở Cao Bằng. Sau khi dẹp xong loạn, vua lưu ông ở lại Lạng Sơn cùng các phiên thân khác phòng thủ nơi xung yếu. Hà Hặc lấy xã Dạ Nham, châu Văn Uyên làm thái ấp, con cháu của ông di dân các xã An Bài châu Ôn, Đông Túc châu Văn Quan, họ Hà làm quan ở thời Lê tất cả là 300 người [39; 34]. Ngoài ra, còn có một số dòng họ phiên thần khác như họ Hoàng Đình quê ở Nghệ An, lên phòng thủ vùng An Châu. Hay Nguyễn Công Ngân quê ở Nghệ An, lên tránh thủ châu Thất Nguyên (Tràng Định). Đặc biệt là ông Nguyễn Đình Bá ở Cao Bằng, ông được phái trấn giữ biên giới, sau chiến tranh, ông còn là người tụ tập phiêu dân định cư, ổn định cuộc sống, lập lại cuộc sống thanh bình cho đồng bào nơi biên cương. Bên cạnh đó, triều Lê Sơ còn đề ra những chính sách đối với dân tộc trong bộ luật “Hồng Đức”. Theo đó, nhà vua rất coi trọng đất đai, coi đó là của báu của đất nước. Vì vậy, những việc xâm phạm đến lãnh thổ quốc gia đều bị trừng trị nặng. Theo điều 74, những người bán ruộng đất bờ cõi cho người nước ngoài thì bị tội chém, những kẻ phao tin ngoài biên thùy có giặc dã để cho nhân dân sợ hãi thì xử -15-
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất