LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh kinh tế như hiện nay, các doanh nghiệp muốn đứng vững
trên thương trường cần phải nhanh chóng đổi mới, trong đó đổi mới về quảng lý
tài chính là một trong các vấn đề được quan tâm hàng đầu và có ảnh hưởng trực
tiếp đến sự sống còn đối với nhiều doanh nghiệp Việt Nam. Bởi lẽ, để hoạt dộng
kinh doanh của doanh nghiệp đạt hiệu quả thì nhà quản lý cần phải nhanh chóng
nắm bắt những tín hiệu của thị trường, xác định đúng nhu cầu về vốn, tìm kiếm
và huy động nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu kịp thời, sử dụng vốn hợp lý, đạt
hiệu quả cao nhất. Muốn vậy, các doanh nghiệp cần nắm những nhân tố ảnh
hưởng, mức độ và xu hướng tác động của từng nhân tố đến tình hình tài chính
doanh nghiệp. Điều này chỉ có thể thực hiện trên cơ sở phân tích tài chính. Tuy
vậy, trong khả năng hạn hẹp của mình, em chỉ xin phép được trình bày một phần
nhỏ nhưng cũng chiếm vị trí khá quan trọng trong hoạt động phân tích tài chính.
Đó là phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp
Việc thường xuyên phân tích khả năng thanh toán sẽ giúp nhà quản lý
doanh nghiệp thấy rõ thực trạng tình hình thanh toán của doanh nghiệp mình,
lường trước được những rủi ro xảy đến trong hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, từ đó có thể làm căn cứ để hoạch định phương án hành động phù hợp
cho tương lai và đồng thời đề xuất những giải pháp hữu hiệu để ổn định và tang
cường tình hình tài chính giúp nâng cao chất lượng doanh nghiệp.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, trong thời gian thực tập tại
công ty Cổ phần Xây lắp Hải Long, trực tiếp tìm hiểu khả năng thanh toán của
công ty, em quyết định chọn đề tài: “ Phân tích khả năng thanh toán tại công
ty Cổ phần xây lắp Hải Long” làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
Nội dung đề tài là tập trung nghiên cứu khả năng thanh toán của doanh
nghiệp để thấy rõ thực trạng, tình hình thanh toán của doanh nghiệp, trên cơ sở
1
đó đề xuất những giải pháp và kiến nghị giúp cải thiện tình hình tài chính và
giúp doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn.
2
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được vận dụng trong đề tài chủ yếu là phương
pháp so sanh và tổng hợp số liệu thực tế thu thập được trong quá trình thực tập
tạo doanh nghiệp. Các số liệu trên báo cáo tài chính và các thong tin có được từ
việc phỏng vấn trực tiếp các nhân viên phòng kế toán để xác định xu hướng phát
triển, mức độ biến động của các số liệu cũng như các chỉ tiêu và từ đó đưa ra
nhận xét. Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp khác như: phương pháp phân
tích tỷ số, phương pháp liên hệ…
4. Phạm vi nghiên cứu
Về mặt không gian: Công ty cổ phần xây lắp Hải Long là doanh nghiệp
hoạt động với nhiều ngành nghề kinh doanh. Tuy nhiên, đề tài của em chỉ tập
trung nghiên cứu về tình hình tài chính mà cụ thể ở đây là khả năng thanh toán
toàn công ty chứ không đi sâu phân tích tài chính từng lĩnh vực hoạt động.
Về mặt thời gian: Đề tài được phân tích cụ thể trong giai đoạn 2012 - 2014
5. Kết cấu chuyên đề
Kết cấu chuyên đề ngoài lời mở đầu và kết luận gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về khả năng thanh toán trong doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng về khả năng thanh toán tài công ty cổ phần xây lắp Hải
Long giai đoạn 2012 – 2014
Chương 3: Biện pháp hoàn thiện nâng cao khả năng thanh toán tại công ty cổ
phần xây lắp Hải Long
3
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KHẢ NĂNG THANH
TOÁN TRONG DOANH NGHIỆP
1.1 Khả năng thanh toán trong doanh nghiệp
1.1.1 Khái niệm
Khả năng thanh toán được hiểu như khả năng chuyển hóa thành tiền mặt
của các tài sản công ty để đối phó với cái khoản nợ đến hạn, thông số khả năng
thanh toán còn được gọi là thông số hoán chuyển tiền mặt vì nó bao hàm khả
năng chuyển đổi các khoản thành tiền trong thời gian ngắn, quy thành một chu
kỳ kinh doanh thường nhỏ hơn hoặc bằng một năm, ý nghĩa chung của thông
này là biểu hiện khả năng trả nợ bằng cách chỉ các quy mô, phạm vi tài sản có
thể dùng để trang trải các yêu cầu của chủ nợ với thời gian phù hợp. Thông qua
phân tích khả năng thanh toán có thể đánh giá thực trạng khả năng thanh toán
các khoản nợ của doanh nghiệp, từ đó có thể đánh giá được tình hình tài chính
của doanh nghiệp, thấy được những tiềm năng cũng như nguy cơ trong hoạt
động huy động và hoàn trả của doanh nghiệp để có biện pháp quản lý kịp thời.
Khả năng thanh toán là một thuật ngữ dùng đề chỉ khả năng thực hiện các
khoản phải thu, các khoản phải trả của một số tổ chức kinh tế, của ngân hàng,
của ngân sách nhà nước trong một thời kỳ nhất định. Với mỗi đối tượng cụ thể
nó lại có một cách định nghĩa khác nhau:
Đối với doanh nghiệp: Khả năng thanh toán là khả năng của một doanh
nghiệp có thể hoàn trả các khoản nợ đến hạn. Khi một doanh nghiệp, một công
ty mất khả năng thanh toán, tòa án tuyên bố phá sản, vỡ nợ. Khả năng thanh toán
của doanh nghiệp thể hiện trên nhiều mặt khác nhau như: khả năng thanh toán
chung ( khả năng thanh toán tổng quát), khả năng thanh toán nợ ngắn hạn, khả
năng thanh toán nhanh, tức thời… Một doanh nghiệp được xem là đảm bảo khả
năng thanh toán khi và chỉ khi doanh nghiệp bảo đảm đáp ứng đủ các mặt khác
nhau của khả năng thanh toán. Trên thực tế, có khá nhiều doanh nghiệp mặc dù
khả năng thanh toán chung rất cao nhưng khả năng thanh toán nợ ngắn hạn hay
khả năng thanh toán nhánh, tức thời không đảm bảo. Tương tự cũng khá nhiều
4
doanh nghiệp có thừa khả năng thanh toán tức thời hay khả năng thanh toán
nhanh nhưng lại không đảm bảo khả năng thanh toán nợ ngắn hạn và khả năng
thanh toán tổng quát… Chính vì vậy, việc đánh giá khái quát khả năng thanh
toán của doanh nghiệp phải được xem xét đầy đủ, toàn diện về khả năng thanh
toán tổng quát, khả năng thanh toán nợ ngắn hạn, nợ dài hạn, khả năng thanh
toán nhanh và khả năng thanh toán tức thời.
Mặc dù có khá nhiều quan điểm cũng như chỉ tiêu sử dụng khi đánh giá về
khả năng thanh toán nhưng hầu hết đều thống nhất: Khả năng thanh toán tổng
quát của một doanh nghiệp thể hiện ở khả năng chung trong việc trang trải các
khoản nợ nói chung về mặt tổng thể, trong thời gian dài; còn khả năng thanh
toán ngắn hạn dùng để đo lường khả năng trả các khoản nợ ngắn hạn của doanh
nghiệp như nợ và các khoản phải trả bằng các tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp
như tiền mặt, các khoản phải thu, hàng tồn kho. Phân tích khả năng thanh toán
ngắn hạn là việc đánh giá khả năng đáp ứng các nghĩa vụ trả nợ có thời hạn
trong vòng một năm. Và khả năng thanh toán dài hạn là chỉ tiêu đánh giá đáp
ứng nghĩa vị trả nợ có thời hạn trên một năm bao gồm việc phân tích khả năng
thanh toán nợ dài hạn và khả năng thanh toán lãi vay.
Trong nền kinh tế thị trường, khả năng thanh toán là chỉ khả năng của
người tiêu thụ có đủ sức mua bằng tiền để mua hàng hóa trên thị trường.
1.1.2 Phân loại khả năng thanh toán
Dựa vào đặc điểm của hoạt động thanh toán, khả năng thanh toán chia thành:
- Thanh toán các khoản phải thu
- Thanh toán các khoản phải trả
Dựa vào đối tượng thanh toán, khả năng thanh toán chia thành:
- Thanh toán với nhà cung cấp
- Thanh toán với cấp trên và ngân sách nhà nước
- Thanh toán với khách hàng
- Thanh toán với công nhân viên chức trong doanh nghiệp
- Thanh toán nội bộ doanh nghiệp
- Thanh toán với ngân hàng và tổ chức tín dụng
- Thanh toán với đối tượng khác
5
Dựa vào thời hạn thanh toán, khả năng thanh toán chia thành:
- Thanh toán các khoản nợ ngắn hạn
- Thanh toán các khoản nợ dài hạn
1.1.3 Ý nghĩa khả năng thanh toán
Việc phân tích khả năng thanh toán có vai trò rất quan trọng đối với nhà
quản lý doanh nghiệp cũng như các đối tượng quan tâm:
Đối với nhà quản lý: Việc phân tích này giúp cho nhà quản lý có thể thấy
được xu thế vận động của các khoản nợ phải thu và khoản nợ phải trả, đánh giá
khả năng thu hồi đúng hạn, trễ hạn hay không có khả năng thu hồi các khoản lãi
vay, gốc cho vay và tiền hàng bán chịu. Từ đó xem xét nguyên nhân vì sao nó
tăng cao để có biện pháp hữu hiệu và tăng cường đôn đốc công tác thu hồi công
nợ, cũng như kế hoạch trả nợ và điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn hợp lý tránh nguy
cơ mất khả năng thanh toán
Đối với chủ sở hữu: Phát hiện dấu hiệu cho việc mất quyền kiểm soát
hoặc thất thoát vốn đầu tư trong tương lai. Thông qua việc phân tích này họ còn
có thể rút ra nhận xét là doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hay không từ đó đưa
ra quyết định có tiếp tục đầu tư hay không.
Đối với chủ nợ: Họ có thể đánh giá khả năng chuyển đồi tài sản thành
tiên hay khả năng tạo tiền để thực hiện các nghĩa vị trả nợ đúng hạn, đánh giá
được tình hình tài chính cũng như năng lực hiện tại và tương lai của doanh
nghiệp. Từ đó chủ nợ sẽ quyết định có cho doanh nghiệp vay vốn thêm hay
không, cũng như việc bán chịu hàng hóa cho doanh nghiệp tránh nguy cơ mất
vốn.
1.2 Các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán trong doanh
nghiệp
1.2.1 Khả năng thanh toán ngắn hạn
Để đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp ta thường xem xét đến
mối quan hệ giữa khả năng thanh toán và nhu cầu thanh toán. Vì vây, phân tích
khả năng thanh toán ngắn hạn là để xem xét tài sản của doanh nghiệp có đủ
trang trải cho các khoản nợ phải trả trong ngắn hạn hay không. Hay nói cách
6
khác, đó là khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp có đáp ứng đủ các
nhu cầu thanh toán trong ngắn hạn của doanh nghiệp hay không?
Khả năng thanh toán ngắn hạn bao gồm tất cả các loại tài sản ngắn hạn
của doanh nghiệp ở thời điểm hiện hành. Tài sản ngắn hạn là các tài sản có khả
năng thu hồi vốn trong vòng 12 tháng hoặc một chu kỳ kinh doanh. Thuộc tài
sản ngắn hạn bao gồm:
- Tiền và các khoản tương đương tiền: Tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, tiền
đang chuyển, chứng khoán dễ thanh toán..
- Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn: Cổ phiếu, trái phiếu.
- Các khoản phải thu ngắn hạn: Phải thu của người mua, phải thu người
bán, phải thu nội bộ, phải thu theo tiến độ kế hoạch hợp đồng xây dựng, phải thu
khác,…
- Hàng tồn kho: Vật liệu, thành phẩm, hàng hóa, công cụ
- Các tài sản ngắn hạn khác
Nhu cầu thanh toán ngắn hạn bao gồm nhu cầu thanh toán đến hạn hay
quá hạn bao nhiêu ngày hoặc cũng có thể sắp xếp theo các đối tượng phải trả.
- Phải trả cán bộ công nhân viên bao gồm tiền lương, tiền thưởng, bảo
hiểm xã hội…
- Phải trả cho ngân hàng Nhà nước bao gồm: thuế giá trị gia tăng, thuế thu
nhập doanh nghiệp và các loại thuế khác.
- Phải trả các khoản tiền vay ngắn hạn cho các đối tượng tài chính như
ngân hàng, kho bạc hay các tổ chức tài chính.
- Phải trả người bán về các số tiền mua vật tư, hàng hóa, dịch vụ
- Phải trả cho các đối tượng khác
Trên cơ sở phân tích này các nhà quản lý thường tiến hành so sánh giữa
khả năng thanh toán và nhu cầu thanh toán của từng thời điểm phân tích theo các
nội dụng tương tự. Thông qua các thông tin thu nhận được để đưa ra các quyết
định cho từng hoạt động kinh doanh hàng ngày và kỳ tới nhằm tăng cường khả
năng thanh toán góp phần cho việc ổn định tài chính của doanh nghiệp. Khi
phân tích khả năng thanh toán ngắn hạn ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau đây:
Hệ số khả năng thanh toán ngay
Tiền
Nợ quá hạn và đến hạn
7
Hệ số khả năng thanh toán ngay =
Chỉ tiêu này cho biết doanh nghiệp có khả năng thanh toán ngay bao
nhiêu nợ đến quá hạn, đến hạn bằng các khoản tiền và tương đương tiền hiện có,
đồng thời chỉ tiêu này thể hiện việc chấp hành kỷ luật thanh toán của doanh
nghiệp với chủ nợ. Nguyên tăc cơ bản có thể để đưa ra đánh giá mức độ thanh
toán ngay bằng tiền là là 1:1, nghĩa là tỷ lệ này phải lớn hơn hoặc bằng 1 thì
doanh nghiệp đảm bảo khả năng thanh toán tức thời, nếu nhỏ hơn 1 tức là doanh
nghiệp đang dự trữ quá ít tiền, không đảm bảo được khả năng thanh toán.
Tuy nhiên, tỷ lệ này cũng không được quá cao, vì khi tỷ lệ này quá cao
đồng nghĩa với việc sử dụng không hiệu quả quỹ tiền mặt, doanh nghiệp luôn
sẵn tiền để trả nợ, nhưng thời điểm xảy ra trả nợ không liên tục, nguồn tiền sẽ
đứng im không vận động, như vậy sẽ rất lãng phí. Tỷ lệ này thấp quá kéo dài
chứng tỏ doanh nghiệp không có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn
và quá hạn. Trong trường hợp chỉ tiêu này thấp quá kéo dài liên tiếp ảnh hưởng
đến uy tín của doanh nghiệp và có thể dẫn tới doanh nghiệp bị giải thể hoặc phá
sản.
8
Hệ số khả năng thanh toán nhanh trong thời hạn 3 tháng
Hệ số khả năng thanh toán nhanh
Tiền và các khoản tương đương
=
tiền
Nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu này cho biết khả năng thanh toán nhanh của tiền và các khoản
tương đương tiền đối với các khoản nợ ngắn hạn. Chỉ tiêu này cao quá, kéo dài
chứng tỏ khả năng thanh toán nhanh tốt, tuy nhiên chỉ tiêu này quá cao có thể
dẫn tới hiệu quả sử dụng vốn giảm. Chỉ tiêu này thấp quá, kéo dài chứng tỏ
doanh nghiệp không đủ khả năng thanh toán các khoản công nợ ngắn hạn, dấu
hiệu rủi ro tài chính xuất hiện nguy cơ phá sản có thể xảy ra. Ta có thể tham
khảo hệ số khả năng thanh toán nhanh (k), qua thực tế nghiên cứu các doanh
nghiệp: k < 0,5 thấp; 0,5 ≤ k ≤ 1 trung bình và k > 1 cao.
Hệ số khả năng thanh toán nhanh bình thường
Hệ số khả năng thanh toán nhanh bình
TSNH - HTK
Nợ ngắn hạn
thường
=
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng thanh toán nợ ngắn hạn bằng tài sản ngắn
hạn của doanh nghiệp trừ đi hàng tồn kho. Loại bỏ hàng tồn kho của doanh
nghiệp trong hệ số này là do hàng tồn kho của doanh nghiệp là tài sản có tính
thanh khoản kém nhất, chi phí tài chính bỏ ra để chuyển đổi là nhiều nhất nên
khi xét khả năng thanh toán nhanh trong doanh nghiêp ta loại bỏ hàng tồn kho.
Đây là chỉ tiêu mà chủ nợ quan tâm để đánh giá tại thời điểm phân tích doanh
nghiệp có khả năng thanh toán ngay các khoản nợ ngắn hạn hay không, chủ nợ
yên tâm hơn nếu chỉ tiêu này cho thấy doanh nghiệp luôn có khả năng phản ứng
nhanh và đảm bảo được hầu hết các khoản nợ ngắn hạn. Hệ số khả năng thanh
toán nhanh cho biết tương ưng với một đồng nợ ngắn hạn có bao nhiêu đồng tài
sản ngắn hạn có thể thanh lý nhanh chóng để trả nợ
Ngưỡng so sánh của chỉ tiêu này là 0.5, tức là nếu khả năng thanh toán
nhanh của doanh nghiệp nhỏ hơn hoặc bằng 0.5, điều đó có nghĩa là hàng tồn
kho của doanh nghiệp khá lớn chiếm trên 50% tài sản ngắn hạn, lượng vốn của
9
doanh nghiệp bị ứ đọng nhiều trong hàng tồn kho dẫn đến doanh nghiệp thiếu
các phương tiện để thực hiện khả năng thanh toán nhanh.
Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn
Tỷ lệ thanh toán nợ ngắn hạn thể hiện mối quan hệ so sánh giữa tài sản
ngắn hạn và nợ ngắn hạn.
Khả năng thanh toán nợ ngắn
Tài sản ngắn
hạn =
hạn
Nợ ngắn hạn
Tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp thường bao gồm các khoản tiền, các
loại chứng khoán ngặn hạn, các khoản phải thu và dự trữ; còn nợ ngắn hạn
thường bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng thương mại và các tổ chức
tín dụng khác, các khoản phải trả nhà cung cấp, phải trả, phải nộp khác…Tài sản
ngắn hạn và nợ ngắn hạn có thời hạn nhất định – tới một năm. Tỷ số khả năng
thanh toán nợ ngắn hạn là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn trong doanh
nghiệp, tỷ lệ này cho biết cứ tương ưng với một đồng nợ ngắn hạn thì có bao
nhiêu đồng tài sản ngắn hạn dùng để thanh toán. Tỷ lệ này cho thấy khả năng
thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp có được đảm bảo hay không, chỉ tiêu
càng cao chứng tỏ doanh nghiệp hoàn toàn đủ khả năng để thanh toán các khoản
nợ ngắn hạn.
Tuy nhiên tỷ lệ này quá cao cũng không hẳn là tốt, nó chỉ cho thấy sự dồi
dào đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp, nhưng có thể dẫn đến việc
quản lý và sử dụng không hiệu quả các loại tài sản của mình và điều này có thể
làm cho tình hình tài chính của doanh nghiệp không lành mạnh.
Nguyên tắc cơ bản cho thấy tỷ lệ này là 1:1 hay ngưỡng so sánh của tỷ lệ
này là 1, điều này có nghĩa là tỷ lệ này lớn hơn hoặc bằng 1 thì doanh nghiệp sẽ
đảm bảo được khả năng thanh toán nợ ngắn hạn, tình hình tài chính bình thường.
Tuy nhiên sự biến động của hệ số này còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố và điều
kiện khác nhau của doanh nghiệp như: Loại hình kinh doanh, chu kỳ hoạt động
của doanh nghiệp
10
Thông thường nếu hệ số này thấp sẽ thể hiện khả năng thanh toán nợ ngắn
hạn của doanh nghiệp là yếu và cũng là những dấu hiệu báo cho thấy việc mạo
hiểm về tài chính vì mất cân bằng tài chính, công ty đã dùng một phần nguồn
vốn ngắn hạn để đầu tư dài hạn.
Để đánh giá khả năng thanh toán ngắn hạn, thông thường chúng ta
thường phân tích thêm chỉ tiêu khả năng chuyển đổi tài sản ngắn hạn thành tiền
của doanh nghiệp.
Hệ số chuyển đổi thành tiền từ
TSNH
=
Tiền
Tài sản ngắn hạn
Chỉ tiêu này cho biết khả năng chuyển đổi của tài sản ngắn hạn doanh
nghiệp thành tiền tại thời điểm phân tích. Chỉ tiêu này cao quá, chứng tỏ khả
năng chuyển đổi thành tiền lớn dẫn đến tình trạng thanh toán dồi dào. Chỉ tiêu
này nhỏ khả năng chuyển đổi kém, gây áp lực tài chính trong quá trình đi tìm
kiếm nguồn thanh toán. Chỉ tiêu này thường phụ thuộc vào điều lệ thanh toán
của doanh nghiệp đối với các khách hàng trong các hợp đồng kinh tế. Ngưỡng
so sánh của trị số được so sánh với:
- Khi trị số <0,1: Tính thanh khoản của tài sản ngắn hạn kém, khả năng thanh
toán không được đảm bảo
- Khi trị số ≥0,5: Tính thanh khoản của tài sản quá cao dẫn đến việc sử dụng
nguồn vốn không tốt.
- Khi trị số thỏa mãn 0,1≤ trị số ≤0,5: Tài sản ngắn hạn có tính thanh khoản tốt,
đảm bảo khả năng thanh toán
Qua các chỉ tiêu trên có thể thấy thông thường nếu các tỷ số trên cao, có
thể đem lại sự an toàn về khả năng bù đắp cho sự giảm giá trị của tài sản ngắn
hạn. Điều đó thể hiện tiềm năng thanh toán cao so với nghĩa vụ phải thanh toán.
Tuy nhiên trong thực tế các tỷ số này được chấp nhận là cao hay thấp còn tùy
thuộc vào đặc điểm, tính chất kinh doanh, mặt hàng kinh doanh của mỗi ngành
kinh doanh, cơ cấu, chất lượng của tài sản ngắn hạn… Vì vậy, trong phân tích
cần hiểu rõ các yếu tố cấu thành chỉ tiêu, những nhân tố tác động đến sự chuyển
11
hóa thành tiền của các yếu tố cấu thành trong mỗi doanh nghiệp, với ngành kinh
doanh cụ thể, trong các điều kiện cũng như hoàn cảnh cụ thể.
Vốn lưu động ròng
Vốn lưu động ròng = TSNH – Nợ ngắn hạn
= NVDH – TSDH
Vốn lưu chuyển hay vốn lưu động ròng là bộ phận của nguồn vốn dài hạn
sau khi đã tài trợ cho tài sản dài hạn và còn dư thừa. Bộ phận dư thừa sẽ được
chuyển sang đầu tư tài sản ngắn hạn. Chỉ tiêu nay phản ánh phần tài sản lưu
động được tài trợ từ nguồn vốn cơ bản, lâu dài mà không cần đòi hỏi chi trả
trong thời gian ngắn, vốn lưu động dòng càng lớn phản ánh khả năng chi trả
càng cao khi đến hạn. Đây cũng là yếu tố quan trọng và cần thiết cho đánh giá
điều kiện cân bằng tài chính của doanh nghiệp. Nó được xác định là phần chênh
lệch giữa tổng tài sản lưu động và tổng nợ ngắn hạn, hoặc là phân chênh lệch
giữa vốn thường xuyên ổn định với TSCĐ ròng. Khả năng đáp ứng nghĩa vụ
thanh toán, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh và khả năng nắm bắt thời cơ
thuận lợi của nhiều doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào vốn lưu động ròng. Do
vậy sự phát triển của không ít doanh nghiệp còn thể hiện ở sự tăng trưởng của
vốn lưu động ròng.
Nguồn vốn ngắn hạn được dùng để đầu tư TSLĐ, còn nguồn vốn dài hạn
được dùng để đầu tư TSCĐ. Nếu vốn dài hạn được dùng để đầu tư vào TSNH
thì sẽ tạo ra khe hở kỳ hạn, chính là phần vốn lưu động ròng, khe hở kỳ hạn
càng lớn thì rủi ro của doanh nghiệp càng cao, khe hở kỳ hạn càng nhỏ thì rủi ro
càng thấp.
- VLĐ ≥ 0 tức là khả năng thanh toán của doanh nghiệp khả quản, TSLĐ
đủ để doanh nghiệp chi trả các khoản nợ ngắn hạn.
- VLĐ < 0 nghĩa là TSLĐ không đủ để đáp ứng nhu cầu thanh toán nợ ngắn
hạn, cán cân thanh toán của doanh nghiệp mất cân bằng. Doanh nghiệp phải
dùng một phần TSCĐ để thanh toán nợ ngắn hạn đến hạn trả.
Các khoản phải thu
Vòng quay các khoản phải
Doanh thu thuần
Các khoản phải thu bình
thu=
quân
12
Chỉ tiêu này cho biết mức hợp lý của số dư của các khoản phải trả và hiệu
quả của việc thu hồi nợ. Nếu số vòng luân chuyển các khoản phải thu lớn, chứng
tỏ doanh nghiệp đã làm tốt công tác thu hồi nợ, ít bị chiếm dụng vốn vì khả năng
chuyển các khoản phải thu thành tiền càng nhanh, đáp ứng nhu cầu thanh toán
và các khoản nợ đến hạn. Tuy nhiên số vòng luân chuyển các khoản phải thu
quá cao sẽ không tốt vì ảnh hưởng đến việc tiêu thụ hàng hóa, làm giảm hiệu
quả kinh doanh do phương pháp thanh toán của khách hàng với doanh nghiệp
quá chặt chẽ.
Thời gian 1 vòng quay các khoản phải
thu =
Thời gian của kỳ phân tích
Vòng quay các khoản phải
thu
Thời gian quay vòng các khoản phải thu ngắn chứng tỏ tốc độ thu hồi tiền
hàng càng nhanh, doanh nghiệp ít bị chiếm dụng vốn. Ngược lại nếu thời gian
quay vòng các khoản phải thu càng dài, chứng tỏ tốc độ thu hồi tiền càng chậm.
Tuy nhiên thời gian 1 vòng quay các khoản phải thu cao hay thấp trong
nhiều trường hợp chưa thể kết luận chắc chắn mà còn phải xem xét lại mục tiêu
và chính sách của doanh nghiệp như: mục tiêu mở rộng thị trường, chính sách
tín dụng của doanh nghiệp.
Hàng tồn kho
Hàng tồn kho là những tài sản được giữ bán để trong kỳ sản xuất – kinh
doanh bình thường; đang trong quá trình sản xuất kinh doanh dở dang; nguyên
vật liệu, công cụ, dụng cụ để sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh hay
cung cấp dịch vụ. Hệ số vòng quay hàng tồn kho thể hiện khả năng quản trị hàng
tồn kho. Vòng quay hàng tồn kho là số lần mà hàng hóa tồn kho bình quân luân
chuyển trong kỳ. Hệ số vòng quay hàng tồn kho được xác định bởi công thức sau:
Vòng quay hàng tồn
kho
=
Giá vốn hàng bán
Hàng tồn kho bình
quân
Hệ số này thường được so sánh qua các năm để đánh giá năng lực quản trị
hàng tồn kho là tốt hay xấu qua từng năm. Hệ số này lớn cho thấy tốc độ quay
13
vòng của hàng tồn kha là nhanh, hệ số này càng cao càng cho thấy doanh nghiệp
bán hàng nhanh và hàng tồn kho không ứ đọng nhiều, đẩy mạnh khả năng thanh
toán của doanh nghiệp. Nếu hệ số này nhỏ, cho thấy tốc độ quay hàng tồn kho
thấy, doanh nghiệp bị ứ động vốn lớn làm giảm khả năng thanh toán trong ngắn
hạn của doanh nghiệp
Tuy nhiên, khi hệ số này quá cao cũng không tốt, vì như vậy có nghĩa là
lượng hàng dự trữ không nhiều, nếu nhu cầu thị trường tăng đột ngột thi có khả
năng doanh nghiệp bị mất khách hàng và bị đối thủ cạnh tranh giành thị phần.
Hơn nữa, dự trữ nguyên vật liệu đầu vào cho khâu sản xuất không đủ khiến sản
xuất bị ngưng trệ.
Kỳ luân chuyển hàng tồn
kho
=
360
Vòng quay hàng tồn
kho
Kỳ luân chuyển hàng tồn kho cho biết khoảng thời gian cần thiết để công
ty có thể thanh lý được hết số hàng tồn kho của mình bao gồm cả hàng hóa đang
trong quá trình sản xuất. Thời gian kỳ luân chuyển ngắn chứng tỏ tốc độ thanh
lý hàng tồn kho nhanh, thu hồi được vốn bị ứ đọng, nâng cao khả năng thanh
toán. Ngược lại thời gian lỳ luân chuyển dài thì lượng vốn ứ đọng dài, khả năng
thanh toán kém.
Tuy nhiên, hàng tồn kho mang đậm tính chất ngành nghề kinh doanh nên
không phải mức tồn kho thấp là tốt, cao là xấu.
1.2.2 Khả năng thanh toán dài hạn
Bên cạnh những chỉ tiêu phân tích đảm bảo khả năng thanh toán ngắn hạn
được trình bày ở phần trên chúng ta cần phải xem xét triển vọng của doanh
nghiệp trong tương lại. Nợ dài hạn là các khoản nợ mà đơn vị có nghĩa vụ thanh
toán trong thời hạn trên một năm kể từ ngày phát sinh. Nợ dài hạn của doanh
nghiệp là một bộ phận của nguồn vốn ổn định dung để đầu tư các tài sản dài hạn
khác như tài sản cố định, bất động sản đầu tư, chứng khoán dài hạn… Mặc dù
việc thanh toán các khoản nợ dài hạn có thời gian trả nợ lâu hơn các khoản nợ
ngắn hạn, doanh nghiệp ít bị sức ép hơn của việc thanh toán các khoản nợ ngắn
14
hạn. Tuy nhiên, các khoản nợ dài hạn rồi cũng đến lúc doanh nghiệp phải chịu
thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Để đánh giá khả năng thanh toán dài hạn của
doanh nghiệp ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau:
1.2.2.1 Khả năng thanh toán tổng quát
Đây là một chỉ tiêu tài chính cơ bản, nhằm cung cấp thông tin cho các cấp
quản lý đưa ra các quyết định đúng đắn phục vụ cho hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Các quyết định cho doanh nghiệp vay bao nhiêu tiền, thời hạn
bao nhiêu, có nên bán chịu hàng hóa cho khách hàng không… Tất cả những
quyết định đó đều dựa vào thông tin về khả năng thanh toán tổng quát của doanh
nghiệp. Khả năng thanh toán tổng quát của doanh nghiệp càng cao, càng tốt đó
là nhân tố quan trọng hấp dẫn các tổ chức tín dụng cho vay tiền. Khả năng thanh
toán tổng quát quá thấp có thể dẫn đến nguy cơ doanh nghiệp bị giải thể hoặc
phá sản. Vì vậy để đánh giá chính xác khả năng thanh toán tổng quát của doanh
nghiệp, ta thường xem xét mối quan hệ giữa khả năng thanh toán và nhu cầu
thanh toán. Khả năng thanh toán và nhu cầu thanh toán là tổng hợp các chỉ tiêu
tài chính phản ánh tại một thời điểm phân tích. Do vậy, khi phân tích chỉ tiêu
này cần liên hệ với đặc điểm và ngày nghề kinh doanh của doanh nghiệp.
Khả năng thanh toán của doanh nghiệp bao gồm tất cả các tài sản mà
doanh nghiệp có khả năng thanh toán tại thời điểm nghiên cứu. Các tài sản đó
được sắp xếp theo trình tốc độ vòng quay về vốn lần lượt về tài sản ngắn hạn và
tài sản dài hạn. Ở phần trên khi phân tích về khả năng thanh toán ngắn hạn đã
nhắc đến khả năng và nhu cầu trong ngắn hạn, sau đây sẽ trình bày thêm về tài
sản dài hạn để hiểu rõ và đánh giá chính xác được khả năng thanh toán tổng quát
trong doanh nghiệp.
Tài sản dài hạn của doanh nghiệp bao gồm: Các khoản phải thu dài hạn
như các khoản phải thu của khách hàng, phải thu nội bộ, phải thu khác; Giá trị
thực của tài sản cố định hữu hình và vô hình; Đầu tư bất động sản; Các khoản
đầu tư tài chính dài hạn như góp vốn liên doanh, mua cổ phiếu dài hạn…
Nhu cầu thanh toán trong dài hạn bao gồm: phải trả tiền vay Ngân hàng,
các tổ chức tín dụng, công ty tài chính; Số tiền mua vật tư, hàng hóa; Phải trả
các đối tượng khác về việc nhận ký cược, ký quỹ…
15
Khi phân tích khả năng thanh toán tổng quát của doanh nghiệp ta thường
xác định như
Khả năng thanh toán tổng quát
Tổng tài sản
Tổng nợ phải trả
=
Hệ số này cho biết mối quan hệ giữa tổng tài sản mà doanh nghiệp đang
quản lý, sử dụng với tổng nợ mà doanh nghiệp phải trả (gồm cả nợ ngắn hạn và
nợ dài hạn). Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vay nợ có mấy đồng tài sản đảm
bảo. Nếu hệ số này quá cao thì cần phải xem xét lại vì khi đó việc sử dụng đòn
bẩy tài chính của công ty sẽ kém hiệu quả. Chỉ tiêu này càng nhỏ có thể dẫn đến
doanh nghiệp sắp bị giải thể hoặc phá sản trong tương lại.
Trên cơ sở phân tích trên kết hợp với việc phân tích khả năng và nhu cầu
thanh toán trong ngắn hạn ta có thể tóm tắt trong bảng sau.
16
Bảng 1.1: Mối quan hệ giữa nhu cầu thanh toán và khả năng thanh toán
Khả năng thanh toán
1. Khả năng thanh toán kỳ hiện hành
Nhu cầu thanh toán
1. Nhu cầu thanh toán kỳ hiện hành
- Tiền mặt: Tiền Việt Nam, vàng bạc, - Các khoản công nợ quá hạn: Cán bộ
kim loại, đá quý, ngoại tệ.
công nhân viên, thuế nộp ngân sách
- Tiền gửi ngân hàng: tiền Việt Nam, Nhà nước, phải trả người bán, phải trả
vàng bạc, kim loại, đá quý, ngoại tệ.
cho các đối tượng cho vay, phải trả nội
- Tiền đang chuyển
bộ và phải trả khác.
- Chứng khoán dễ thanh khoản: Cổ - Các khoản nợ đến hạn: phải trả người
phiếu, trái phiếu
bán, phải trả tiền vay, thuế phải nộp…
2. Khả năng thanh toán của kỳ tới
2. Nhu cầu thanh toán kỳ tới
- Các khoản phải thu của khách hàng
- Các khoản thuế phải nộp
- Các khoản đầu tư ngắn hạn
- Các khoản phải trả cho người bán
- Các khoản tiền thu từ bán hàng tồn
kho
3. Khả năng thanh toán của các tháng
tiếp theo.
Cộng xxxx
Chỉ tiêu này có ngưỡng so sánh là 1
Cộng xxxx
- Khi khả năng thanh toán tổng quát ≥ 1: Chứng tỏ doanh nghiệp có đủ và
thừa khả năng thanh toán, khi đó tình hình doanh nghiệp có vẻ khách quan, tác
động tích cực đến hoạt động kinh doanh.
- Khi khả năng thanh toán tổng quát < 1: Doanh nghiệp không đủ khả năng
thanh toán các khoản nợ, dẫn đến khả năng phá sản.
Trên thực tế, mặc dù lượng tài sản có đủ hay thừa dùng để trang trải nợ
nhưng khi đến hạn trả nợ, nếu không đủ tiền và tương đương tiền, hiếm khi các
doanh nghiệp đem bán tài sản của mình để trả nợ. Do đó, thông thường trị số
này ≥ 2 thì các chủ nợ mới thu hồi được nợ khi đáo hạn.
1.2.2.2 Khả năng thanh toán nợ dài hạn
Khả năng thanh toán nợ dài hạn
Khả năng thanh toán nợ dài hạn
=
Tài sản dài hạn
Nợ dài hạn
17
Chỉ tiêu này cho biết tương ứng với một đồng nợ dài hạn thì có bao nhiêu
đồng tài sản dài hạn dùng để thanh toán. Nguyên tắc cơ bản để đánh giá khả
năng thanh toán nợ dài hạn 1:1, tức là khả năng thanh toán nợ dài hạn lớn hơn 1
thì doanh nghiệp đảm bảo khả năng thanh toán ngược lại doanh nghiệp không
đảm bảo được khả năng thanh toán trong dài hạn.
Khi xem xét chỉ tiêu này cần lưu ý: Mặc dù trị số của chỉ tiêu càng lớn,
khả năng đảm bảo thanh toán nợ dài hạn càng cao nhưng nếu trị số này quá lớn,
doanh nghiệp sẽ dễ lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ ngắn hạn do
một bộ phận tài sản dài hạn được hình thành từ nợ ngắn hạn. Vì thế, khi xem xét
chỉ tiêu “ khả năng thanh toán nợ dài hạn”, cần phải kết hợp với chỉ tiêu “ Hệ số
giới hạn đầu tư an toàn vào TSDH” đề đánh giá.
Tài sản dài hạn
Hệ số giới hạn đầu tư an
=
toàn vào TSDH
Tổng nợ dài hạn và vốn chủ sở hữu
Để đảm bảo khả năng thanh toán nợ dài hạn mà không ảnh hưởng đến khả
năng thanh toán nợ ngắn hạn, tránh cho doanh nghiệp không bị rơi vào tình
trạng phá sản, các nhà quản lý cần thiết phải xác định giới hạn đầu tư an toàn
vào TSDH. Nguyên tắc đầu tư TSDH đòi hỏi tổng các khoản nợ dài hạn và vốn
chủ sở hữu phải luôn luôn lớn hơn hoặc bằng tổng giá trị tài sản dài hạn.
Nếu trị số của chỉ tiêu này > 1, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong thanh
toán nợ ngắn hạn, nguy cơ lâm vào tình trạng phá sản dễ xảy ra. Trong thường
hợp này, một bộ phân nợ ngắn hạn đã được doanh nghiệp sử dụng để đầu tư tài
sản dài hạn. Vì thế, các nhà quản lý doanh nghiệp phải có giải pháp kịp thời huy
động và tăng cường các nguồn lực để đảm bảo khả năng thanh toán nợ ngắn
hạn; đồng thơi, phải nhanh chóng xử lý số TSDH không cần dùng hoặc điều
chỉnh cơ cấu đầu tư.
Trong trường hợp trị số này < 1 nhưng hệ số khả năng thanh toán lại có trị
số ≥1, doanh nghiệp không những đảm bảo được khả năng thanh toán nợ dài hạn
mà còn thừa khả năng thanh toán nợ ngắn hạn. An ninh tài chính của doanh
nghiệp trong trường hợp này hoàn toàn đảm bảo cho hoạt động của doanh
nghiệp. Còn trường hợp chỉ tiêu hệ số giới hạn đầu tư vào TSDH và chỉ tiêu khả
18
năng thanh toán nợ dài hạn đều < 1, doanh nghiệp sẽ không đảm bảo được khả
năng thanh toán nợ dài hạn nhưng an ninh tài chính vẫn đảm bảo, doanh nghiệp
không gặp khó khăn trong thanh toán.
Khả năng thanh toán nợ dài hạn đến hạn phải trả của doanh nghiệp.
Chỉ tiêu này được sử dụng dựa trên quan điểm:
Các khoản tiền vay dài hạn của doanh nghiệp dùng để đầu tư tài sản cố
định, bất động sản kinh doanh
- Gốc tiền vay dài hạn được thanh toán cho các tổ chức tín dụng theo từng
năm đã quy định trong hợp đồng vay.
-
Doanh nghiệp áp dụng phương pháp khâu hao bình quân đối với tài sản
cố đinh và bất động sản kinh doanh để thu hồi vốn đầu tư.
=
Chỉ tiêu này cho biết khả năng thanh toán nợ dài hạn đến hạn phải trả của
năm tới bằng nguồn vốn khấu hao thu về theo dự kiến và lợi nhuận sau thuế. Chỉ
tiêu này càng cao chứng tỏ doanh nghiệp có đủ và thừa khả năng thanh toán các
khoản tiền gốc vay dài hạn đến hạn phải trả, đó là nhân tố giúp cho các chủ
doanh nghiệp chủ động trong các kế hoạch tài chính của mình. Chỉ tiêu này thấp
(<1) chứng tỏ doanh nghiệp cần phải có các biện pháp huy động vốn để chuẩn bị
thanh toán nợ gốc tiền vay đến hạn thanh toán.
Chỉ tiêu khả năng thanh toán nợ dài hạn đến hạn phải trả phụ thuộc vào
chính sách khấu hao tài sản cố định của doanh nghiệp, điều khoản thanh toán tín
dụng vay dài hạn theo các năm hay cuối kỳ, kết quả kinh doanh…
Hệ số khả năng thanh toán lãi tiền vay
Khả năng thanh toán lãi tiền
LNTT và chi phí lãi vay
Chi phí lãi vay
vay =
Chỉ tiêu này là cơ sở để đánh giá khả năng đảm bảo của doanh nghiệp đối
với vay nợ dài hạn. Nó cho biết bằng toàn bộ lợi nhuận trước thuế và lãi váy
19
sinh ra trong mỗi kỳ có thể đảm bảo cho doanh nghiệp thanh toán được bao
nhiêu lần tổng lãi vay phải trả từ huy động nguồn vốn nợ.
Khi khả năng trả nợ lãi nợ vay càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn
càng cao lợi nhuận tạo ra được sử dụng để thanh toán nợ vay và tạo phần tích
lũy cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Qua kinh nghiệm phân tích người ta rút ra rằng: Khi hệ số này lớn hơn 2
thì doanh nghiệp được đánh giá là có khả năng đảm bảo cho việc thanh toán các
khoản nợ dài hạn (theo lý thuyết ngưỡng so sánh của chỉ tiêu này là 1). Nếu chỉ
tiêu này nhỏ hơn 2 hay cụ thể là nhỏ hơn hoặc bằng 1 chứng tỏ doanh nghiệp sử
dụng vốn không hiệu quả và doanh nghiệp phải sử dụng hết vốn chủ sở hữu để
trả lãi nợ vay. Tuy nhiên vấn đề này còn phụ thuộc vào khả năng tạo ra lợi
nhuận lâu dài của doanh nghiệp và chỉ tiêu này cũng để đánh giá hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp.
1.2.3 Khả năng thanh toán qua báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là BCTC tổng hợp phản ánh việc hình thành và
sử dụng lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp. Đây là một báo
cáo tài chính mới được quy đinh nhằm trình bày và cung cấp thông tin về các
dòng tiền thu vào và chi ra trong kỳ, cung cấp thông tin về hoạt động đầu tư và
hoạt động tài chính của doanh nghiệp làm cơ sở cho các đối tượng khác nhau
với mục đích sử dụng khác nhau ra quyết định phù hợp.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cho phép người sử dụng báo cáo tài chính
đánh giá khả năng của doanh nghiệp trong việc tạo ra các luồng tiền tệ và nhu
cầu của doanh nghiệp về việc sử dụng luồng tiền tệ này. Sử dụng báo cáo lưu
chuyển tiền tệ cho phép dự đoán các luồng tiền trong kỳ tiếp theo cũng như hình
thành các chỉ số đáng tin cậy để kiểm tra khả năng thanh toán và xác định khả
năng hoạt động liên tục của một doanh nghiệp. Để phân tích khả năng thanh
toán của doanh nghiệp thông qua báo cáo lưu chuyển tiền tệ ta cần tập chung
phân tích và so sanh dòng tiền thu chi từ các hoạt động.
Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh
20
- Xem thêm -