TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI
LƯU THỊ HUYỀN
NGHĨA TƯỜNG MINH VÀ NGHĨA HÀM ẨN
TRONG TRUYỆN CƯỜI DÂN GIAN VIỆT NAM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CAO ĐẲNG HỆ CHÍNH QUY
CHUYÊN NGÀNH: SƯ PHẠM NGỮ VĂN
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN THỊ THU NGA
HÀ NỘI – 2019
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Tiến sĩ Nguyễn Thị Thu
Nga, người hướng dẫn khoa học, đã giúp đỡ em trong quá trình học tập và
thực hiện đề tài khóa luận tốt nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô khoa Khoa học xã hội, Trường
Đại học Thủ Đô Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy, giúp đỡ, động viên chúng em
trong khóa học.
Nhân dịp này em xin gửi tới lời cảm ơn chân thành tới những người
thân trong gia đình, các bạn sinh viên lớp Sư phạm Ngữ Văn C2016 đã giúp
đỡ em, quan tâm khích lệ để em hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Hà Nội, tháng 5 năm 2019
Tác giả khóa luận
Lưu Thị Huyền
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận “Nghĩa tường minh và nghĩa hàm ẩn
trong truyện cười dân gian Việt Nam ” là công trình nghiên cứu của
riêng tôi với sự hướng dẫn của Tiến sĩ Nguyễn Thị Thu Nga, trường
Đại học Thủ Đô Hà Nội. Các kết quả trong khóa luận chưa từng được
công bố ở bất kì công trình nào khác. Các trích dẫn trong khóa luận
đảm bảo tính tin cậy, chính xác.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước lời cam đoan của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2019
Tác giả khóa luận
Lưu Thị Huyền
2
MỤC LỤC:
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU:
1
1. Lý do chọn đề tài.
1
2. Lịch sử nghiên cứu.
2
3. Mục đích nghiên cứu.
3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu.
3
5. Phạm vi nghiên cứu.
3
6. Phương pháp nghiên cứu.
4
7. Nguồn tư liệu.
PHẦN NỘI DUNG:
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI.
4
1. Khái quát về nghĩa tường minh và nghĩa hàm ẩn
4
2. Phân loại tổng quát nghĩa hàm ẩn
5
3. Tiền giả định và hàm ngôn
5
3.1:Quan hệ với nghĩa tường minh
5
3.2: Quan hệ với hình thức ngôn ngữ tạo nên phát ngôn
6
3.3: Lượng tin và tính năng động hội thoại
7
3.4: Phản ứng đối với các dạng phát ngôn
8
4. Cơ chế tạo ra những nghĩa hàm ẩn cố ý
9
4.1: Sự vi phạm quy tắc chiếu vật và chỉ xuất
9
4.2: Các hành động ngôn ngữ gián tiếp
9
4.3: Sự vi phạm các quy tắc lập luận
10
4.4: Sự vi phạm các quy tắc hội thoại
10
4.5: Phương châm cộng tác hội thoại của Grice và nghĩa hàm ẩn.
11
3
CHƯƠNG 2:CÁC CƠ CHẾ TẠO RA NGHĨA HÀM ẨN TRONG TRUYỆN
CƯỜI DÂN GIAN VIỆT NAM- SỰ VI PHẠM PHƯƠNG CHÂM HỘI
THOẠI.
12
1. Sự vi phạm phương châm về lượng.
12
2. Sự vi phạm phương châm về chất.
16
3. Sự vi phạm phương châm về quan hệ .
20
4. Sự vi phạm phương châm về cách thức.
24
Các truyện cười vi phạm phương
- Lợn cưới áo mới
châm về lượng.
- Nói có đầu có đuôi
- Giấy khổ to
- Đánh quân ngũ sắc
Các truyện cười vi phạm phương
- Con rắn vuông
châm về chất.
- Thi nói khoác
- Ăn trộm dây thừng
- Điều kỳ lạ
Các truyện cười vi phạm phương
- Đúng như lời
châm về quan hệ.
- Chẳng phải tay ông
- Anh Cả Ngố “ còn gì bằng”
- Thấy mình về tôi mừng
quá
Các truyện cười vi phạm phương
- Cưỡi ngỗng mà về
châm về cách thức.
- Giàn hoa Thiên Lí sắp đổ
- Mất rồi
- Trung thần nghĩa sĩ
PHẦN KẾT LUẬN
4
PHẦN MỞ ĐẦU:
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Ngữ dụng học là một môn học tiếp cận ngôn ngữ một cách toàn diện nên việc
tìm hiểu về bộ môn này trở thành một điều thiết yếu, cần thiết đối với ai quan
tâm và tìm hiểu về tiếng Việt.
Trong học phần ngữ dụng học,lý thuyết nghĩa tường minh và nghĩa hàm ẩn
là một phần quan trọng, trong đó hội thoại là một bộ phận, hội thoại được
dùng trong hoạt động giao tiếp. Và trong giao tiếp sẽ có những cấu trúc phức
tạp, có nhiều qui định mà người tham gia giao tiếp cần phải tuân thủ theo, nếu
không thì sẽ không đạt được đúng nội dung và mục đích giao tiếp.
Là một trong số các thể loại đặc sắc của nền văn học Việt Nam, truyện cười
đã sử dụng các qui tắc hội thoại . Truyện cười đem đến cho chúng ta nhiều
cảm xúc, đặc biệt là tiếng cười, tiếng cười mua vui, tiếng cười châm biếm.
Nhưng nhiều lúc chúng ta tự hỏi tại sao cười? điều gì tạo nên tiếng cười? cơ
chế tạo nên đó là gì? Ít người có thể trả lời được câu hỏi đó. Do đó, đã có
những công trình nghiên cứu về truyện cười , để lý giải, cung cấp kiến thức về
lĩnh vực này.
Từ những điều nêu trên.Chúng tôi chọn đề tài Nghĩa tường minh và nghĩa
hàm ẩn trong truyện cười dân gian Việt Nam làm đề tài nghiên cứu. Đi sâu
vào các quy tắc hội thoại để phân tích cơ chế tạo ra tiếng cười .
Điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc dạy đọc hiểu các truyện cười dân
gian Việt Nam trong chương trình Ngữ văn THCS.
5
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU:
Truyện cười ra đời từ rất sớm, nhưng chúng ta khó có thể khẳng định chính
xác thời gian của nó, có thể nói truyện cười ra đời từ lúc con người ra đời và
nhu cầu muốn trao đổi tư tưởng tình cảm bắt đầu và giao tiếp bắt đầu.
Trong thời gian tìm hiểu và nghiên cứu, tôi nhận thấy và biết được có không
ít công trình nghiên cứu về truyện cười dưới góc độ của ngữ dụng học như:
1. Các công trình nghiên cứu về cấu trúc truyện cười dân gian Việt Nam:
1.1: Trịnh Sâm ,”Nghệ thuật tổ chức văn bản trong truyện cười bác
Ba Phi”, Ngôn ngữ, số 12, năm 2000.
Trong bài nghiên cứu ông đã chỉ ra được cách tổ chức cấu trúc và sử dụng
dụng một số thủ pháp nghệ thuật trong Truyện cười. Thông qua 56 truyện
cười bác Ba Phi Trịnh Sâm đã chỉ ra bốn cấu trúc tổ chức văn bản: Cấu trúc
tuyến tính, cấu trúc đảo trình tự, cấu trúc song hành và cấu trúc hỗn hợp. Và
một số thủ pháp như:Thủ pháp tăng tiến, thủ pháp khuếch , thủ pháp chuẩn bị
ngữ cảnh.Và tác giả tập trung vào hai cấu trúc đó là cấu trúc tuyến tính và
cấu trúc đảo trật tự.
1.2. Trần Hoàng, “Những sắc thái độc đáo của tiếng cười dân gian
Nam Bộ qua truyện kể BaPhi”, Ngôn ngữ, số 8, năm 2002.
Tác giả đã rút ra một số biện pháp gây cười là “ngoa dụ”, một số biện pháp
tu từ, giọng điệu mang tính khẩu ngữ người Nam Bộ, từ ngữ địa phương . Có
thể nói những biện pháp mà Trần Hoàng đã chỉ ra là những biện pháp chung
và thường xuyên để tạo nên yếu tố gây cười.
1.3: Bùi Khắc Viện, “Tiếng cười trong phong cách ngôn ngữ của
Bác qua tác phẩm bằng Tiếng Việt”, Ngôn ngữ, số 2 , năm 1980.
Ông cho rằng có hai biện pháp gây cười là chủ yếu, đó là : Ngôn ngữ học và
phi ngôn ngữ học. và Ngôn ngữ học là biện pháp đặc thù để khai thác truyện
6
cười, ông còn chỉ ra nmoojt số biện pháp nghệ thuật sự dụng tạo tiếng cười
trong truyện cười dân gian là : Chơi chữ, tương phản,… Biện pháp phi ngôn
ngữ học gồm các thao tác lựa chọn và sắp xếp các chi tiết.
2 .Các công trình nghiên cứu hàm ý hội thoại và hiện tượng mơ hồ trong
truyện cười dân gian Việt Nam:
2.1 :Nguyễn Đức Dân, ”Hiện tượng mơ hồ trong nghệ thuật gây
cười”, Người Hà Nội, số 51, năm 1987.
Ông cho rằng hiện tượng mơ hồ chẳng những được dùng trong những câu
truyện cười , những nụ cười ngắn gọn, mà nó được dùng để xây dựng những
câu truyện cười . Những câu truyện cười Việt Nam thường được dựa trên hiện
tượng mơ hồ về ngôn ngữ.
2.2: Nguyễn Thị Hoàng Yến , “Hàm ý hội thoại trong các truyện cười
dân gian:Khoe của và Hai kiểu áo ”, Ngôn ngữ , số 8, năm 2002.
Tác giải khai thác tiếng cười trong các truyện này nhằm mục đích làm rõ
đặc tính của truyện cười, và hàm ý hội thoại là một phần không thể thiếu để
tạo nên yếu tố gây cười.
Và em cũng tìm được khá nhiều các công trình khác về truyện cười những
mang tính biên soạn và tuyển tập như:
1. Đinh Gia Khách, NXB Giáo dục, năm 2002: “ Văn học dân gian Việt
Nam’’ . Nội dung chủ yếu tìm hiểu và tiếng cười trong tập truyện cười.
Tiếng cười mua vui giải trí,tiếng cười mỉa mai,phê phán, sâu cay,...
2. Hoàng Tiến Tựu, NXB Giáo dục, năm 2002: “ Văn học dân gian Việt
Nam”
3. Trương Chính& Phong Châu, NXB Lao động- Xã hội năm 2006: “Tiếng
cười dân gian Việt Nam” , Với các nội dung như: Nêu khái quát về
7
truyện cười, đối tượng, biện pháp gây cười, ý nghĩa của tiếng cười trong xã
hội,…
4. Văn Tân ,NXB Văn – Sử - Địa, năm 1957“ Tiếng cười Việt Nam”: Tác
giả đã nêu ra một số biện pháp để gây cười như: Phóng đại,kịch tính, tiếu
lâm và cái tục,…
5. Nguyễn Hồng Phong ,NXB Văn – Sử - Địa, năm 1957: “ Truyện tiếu
lâm’’ .Tác giả đã chỉ ra các đặc điểm để gây cười đó là: Sự khai thác triệt
để mâu thuẫn trái tự nhiên,sự sắp đặt các mâu thuẫn trong thế tương phản
để gây cười, phương pháp nói ngoa- phóng đại, lối nói thắt nút.
3.
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Từ việc nghiên cứu và phân tích sự vi phạm phương châm hội thoại
trong các truyện cười dân giân Việt Nam, khóa luận đã chỉ ra và lí giải cơ
chế tạo ra nghĩa hàm ẩn trong truyện cười.
4.
NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU :
4.1: Nghiên cứu lí luận về Ngữ dụng học và truyện cừi dân gian
Việt Nam.
4.2: Miêu tả và phân tích truyện cười có vi phạm phương châm hội
thoại.
5.
PHẠM VI NGHIÊN CỨU: Nghiên cứu nghĩa tường minh và
nghĩa hàm ẩn trong truyện cười được tạo ra từ cơ chế nào? Vi phạm quy tắc
phương châm hội thoại nào? Nghiên cứu trong truyện cười dân gian Việt
Nam.
6.
PHƯƠNG PHÁP NGHÊN CỨU: Phân tích diễn ngôn, chuyên
gpia, tổng hợp, thống kê, phân tích,…
PHẦN NỘI DUNG:
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI :
8
Toàn bộ phần lý thuyết, cơ sở lí luận của đề tài được dựa trên sự tham khảo
của cuốn giáo trình “Ngữ dụng học” của Đỗ Hữu Châu & Đỗ Việt HùngNXB Đại học Sư Phạm, ngày 4 tháng 1 năm 2007.
1. Khái quát về nghĩa tường minh và nghĩa hàm ẩn.
Muốn nghiên cứu về đề tài trước hết ta cần hiểu nghĩa tường minh và nghĩa
hàm ẩn là gì?
- Nghĩa trực tiếp do các yếu tố ngôn ngữ đem lại được gọi là nghĩa tường
minh.
-. Các nghĩa nhờ suy ý mới nắm bắt được gọi là nghĩa hàm ẩn.
VD: Người mẹ nói với con gái mình:
“Con năm nay 28 tuổi rồi đó!’’
-Phát ngôn này ngoài nghĩa tường minh người mẹ muốn nói với đứa con gái
của mình về tuổi của cô ấy thì nghĩa hàm ẩn của bà mẹ muốn truyền đạt đến
cô ấy rằng:” Năm nay con đã 28 tuổi rồi, hãy mau lo việc lấy chồng ổn định
gia đình đi chứ”( ở Việt Nam con gái 28 tuổi chưa lấy chồng là muộn)
2. Phân loại tổng quát nghĩa hàm ẩn.
Nghĩa hàm ẩn có 2 loại:Tiền giả định
Hàm ngôn
*Tiền giả định là những căn cứ cần thiết để người nói tạo ra ý nghĩa tường
minh trong phát ngon của mình.
*Hàm ngôn là tất cả những nội dung có thể suy ra từ một phát ngôn cụ thể
nào đó từ nghĩa tường minh cùng với tiền giả định của nó.
9
VD:”Hôm qua mẹ thấy con đã đi chơi với một người bạn nam đến 11h đêm
mới về đó”
-Nghĩa tường minh:Tối hôm qua người con đã đi chơi với một bạn nam đến
11h đêm .
-Nghĩa hàm ẩn là:
+Tiền giả định: >Cô con gái có một cuộc hẹn vào tối hôm qua
>Đối với con gái Việt Nam đi chơi với một bạn nam vào buổi
tối đến 11h đêm là không tốt.
+Hàm ngôn: Người mẹ muốn nhắc nhở con gái rằng “hãy dừng lại ngay việc
đó, đừng để nó tiếp diễn lần thứ hai”
3.Tiền giả định và hàm ngôn.
Tiền giả định và hàm ngôn cùng nằm trong một phạm trù lớn hơn là phạm
trù nghĩa hàm ẩn của phát ngôn bởi chúng đều không được nói ra một cách
tường minh , chúng chỉ nắm bắt nhờ thao tác suy nghĩ , Cho đến nay , phân
biệt tiền giả định và hàm ngôn vẫn còn là một vấn đề lớn của ngữ dụng học.
Và để phân biệt tiền giả định và hàm ngôn chúng ta cố thể dựa vào những
đặc điểm sau:
3.1. Quan hệ với nghĩa tường minh:
Tiền giả định là những hiểu biết được xem là bất tát phải bàn cãi , bát tất
phải đặt ván đề, đã được các nhân vật giao tiếp mặc nhiên thừa nhận, dựa vào
chúng mà người nói tạo nên các nghĩa tường minh trong phát ngôn của mình,
có thể được hiểu là tiền giả định luôn luôn đúng.(trừ những trường hợp người
nói tạo ra một phát ngôn mà nghĩa tường minh dựa trên một tiền giả định sai,
bịa đặt.
10
Hàm ngôn là những hiểu biết hàm ẩn có thể suy ra từ nghĩa tường minh
và tiền giả định của nghĩa tường minh
Nếu không có nghĩa tường minh và tiền giả định của nó, không thể suy
ra được nghĩa hàm ngôn thích hợp .
VD: “Hôm nay lại uống trà sữa à anh?”
- Tiền giả định : Hôm qua, thậm trí là mấy ngày liên tục trước thì chàng
trai đều mời cô gái uống trà sữa.
- Nghĩa tường minh: Cho đến ngày hôm nay thì chàng trai vẫn tiếp tục
mời cô gái uống trà sữa.
Từ tiền giả định và nghĩa tường minh trên thì cô gái muốn dẫn tới hàm
ngôn:
- Em không muốn đi chơi với anh nữa.
- Em không muốn uống nữa
- Em sợ béo
- Uống nhiều rồi , khá nhàm chán em muốn đổi thức uống khác,…
3.2: Quan hệ với hình thức ngôn ngữ tạo nên phát ngôn.
- một phát ngôn có thể có nhiều tiền giả định nhưng chỉ có một hoặc một số
dính líu đến ( quan yếu với) nghĩa tường minh của phát ngôn.
- C. Kerbrat Orecchionni đưa ra định nghĩa về tiền giả định như sau: ‘’
chúng tôi xem là tiền giả định tất cả những thông tin mặc dầu không được
truyền báo một cách tường minh ( tức không cấu thành đối tượng truyền báo
chân chính một thông điệp) nhưng phải được tự động diễn đạt bởi tổ chức
hình thức của phát ngôn nằm sẵn trong tổ chức của phát ngôn bất kể hoàn
cảnh của phát ngôn như thế nào’’ . Định nghĩa này nhấn mạnh một đặc điểm
: Tiền giả định nhấn mạnh một tính chất ‘’ bất tất phải bàn cãi của nó’’ phải
có quan hệ với các yếu tố ngôn ngữ đánh dấu nó.
11
- tiền giả định tương đối ít lệ thuộc và ngữ cảnh , trái lại , hàm ngôn không tất
yếu phải được đánh dấu bởi các dấu hiệu ngôn ngữ, mà nó lệ thuộc sâu sắc
vào ngữ cảnh.
VD: Tôi đã không đi tập gym một tháng nay rồi.
+ Cơ thể tôi thấy uể oải
+ Vóc dáng tôi xấu quá
3.3: Lượng tin và tính năng động hội thoại.
- Nhiều tác giả cho rằng bởi tiền giả định là những điều ‘’bất tất phải bàn cãi
‘’ cho nên không có tính thông tin . Qủa vậy, tiền giả định là những hiểu biết
mà người nói và người nghe có chung, dựa vào đó mà tạo nên ý nghĩa tường
minh và hàm ngôn, cho nên không phải là cái mới , do đó có lượng tin thấp.
- Trong một văn bản như đã biết, những điều nói ở tiền ngôn được xem là
tiền giả định cho những phát ngôn sau, bởi vậy thong tin mà tiền giả định
cung cấp đẫ là quan yếu ở tiền ngôn , không còn có thể quan yếu đối với phát
ngôn đang xem xét.
- Tuy nhiên , cần phân biệt khái niệm hiệu quả thông tin và lượng tin . Xét
trong một phát ngôn, tiền giả định không quả hiệu quả thông tin nhưng vẫn có
lượng tin . Lượng tin này không quan yếu đối với hiệu quả thông tin của phát
ngôn đang xem xét nhưng vẫn là cần thiết để lý giải hiệu quả thông tin của
phát ngôn.
- Mặt khác, tiền giả định không phải bao giờ cũng có hiệu quả thông tin,.
Chúng ta đã nói tới các nghĩa hàm ẩn cố ý , các nghĩa hàm ẩn trong ý định
truyền báo của phát ngôn. Trong trường hợp hàm ẩn cố ý rời vào tiền giả định
thì chính tiền giả định lại có hiệu quả thông tin cao hơn là nghĩa tường minh
và hàm ngôn.
12
- Có lẽ điều quan trọng đối với giao tiếp là ở tính năng động hội thoại của
tiền giả định , nghĩa tường minh và hàm ngôn. Nói chung nghĩa tường minh
và hàm ngôn có tính năng động hội thoại cao hơn là tiền giả định , có nghĩa
là nghĩa tường minh và hàm ngôn là một giai đoạn trong hội thoại , từ giai
đoạn này mà hội thoại tiến thêm bước mới.
- Tiền giả định thì khác , kể cả trường hợp tiền giả định là nghĩa cố ý , có thể
là một bước để tiếp tục cuộc hội thoại. Nhưng nếu tiếp tục cuộc hội thoại dựa
vào tiền giả định thì cuộc hội thoại sẽ giật lùi, đôi khi luẩn quẩn, thậm trí gây
ra cãi vã, làm hỏng cuộc hội thoại, cuộc hội thoại sẽ không tiến lên được.
3.4: Phản ứng đối với các dạng phát ngôn:
Trừng những tiền giả định đóng vai trò nghĩa hầm ẩn cố ý( đối tượng
truyền báo chính của phát ngôn) , các tiền giả định thong thường có những
đặc điểm sau đây khi phát ngôn biến đổi:
a.Tính chất kháng phủ định
Tiền giả định giữ nguyên khi phát ngôn chuyển từ dạng khẳng định sang
phủ định ( kháng phủ định) .
b. Tính chất bất biến khi phát ngôn thay đổi về hành động ngôn ngữ tạo ra
nó.
Tiền giả định của phát ngôn xác tín vẫn giữ nguyên khi phát ngôn này
chuyển sang phát ngôn hỏi, mệnh lệnh…
c. Tính chất không thể khử bỏ .
Bởi tiền giả định là điều đã được xem là ‘’ bất tất phải bàn cãi’’ cho nên
nó không thể loại bỏ ngay trong cùng một phát ngôn. Việc khử tiền giả định
bằng những kết tử lập luận nghịch hướng sẽ dẫn tới sự vô nghĩa hoặc mâu
thuẫn.
13
Gắn bó với tính chất này là tính chất không thể nối kết phát ngôn có nghĩa
tường minh với tiền giả định của nó.
Đối chiếu với tiền giả định, các hàm ngôn không có các đặc điểm nói trên.
Cụ thể là:
Hàm ngôn không giữ nguyên khi phát ngôn chuyển từ phur định sang
khẳng định.
Hàm ngôn cũng không giữ nguyên khi hành động ngôn ngữ thay đổi
với ý nghĩa tường minh.
Hàm ngôn có thể khử một cách dễ dàng nhờ kết tử đối nghịch
4.Cơ chế tạo ra những nghĩa hàm ẩn cố ý:
Các nghĩa hàm ẩn tạo ra dựa vào tất cả các quy tắc của ngữ dụng :
- Quy tắc chiếu vật và chỉ xuất.
- Quy tắc chi phối các hành động ngôn ngữ.
- Quy tắc lập lập.
- Quy tắc hội thoại.
Muốn tạo ra được nghĩa hàm ẩn cố ý, người nói một mặt phải tôn trọng
các quy tắc này và gủa định người nghe cũng biết và tôn trọng chúng, mặt
khác lại cố ý vi phạm chúng và giả định rằng người nghe cũng ý thức được
chỗ vi phạm đó của mình . Nghĩa hàm ẩn cố ý xuất hiện và được lí giải ở chỗ
vi phạm đó.
Và chúng ta có một số trường hợp vi phạm sau đây:
4.1. Sự vi phạm quy tắc chiếu vật và chỉ xuất:
Trong Tiếng Việt của chúng ta , hệ thống các từ xưng hô trong hội thoại
hết sức phong phú , tế nhị. Mỗi cặp xưng hô đều tiền giả định những kiểu
14
quan hệ vị thế xã hội nhất định và việc sử dụng cặp từ xưng hô nào sẽ quy
định quan hệ giao tiếp cần phải giữ trong suốt cuộc hội thoại:
VD1: Cặp từ xưng hô “ bố’’/’’con’’ có tiền giả định là hai đối tượng có
quan hệ gia đình . Hiện nay, trong giao tiếp , giữa hai người xa lạ, chẳng có
quan hệ huyết thống , quan hệ gia đình , cũng không có gì than mật, cặp từ
xưng hô bắt đầu cuộc hội thoại là ‘’ bác’’/’’tôi’’,’’bác’’/’’cháu’’,
‘’cụ’’/’’cháu’’…. Bỗng nhiên đối tượng thay đổi xưng hô bằng cặp
‘’bố’’/’’con’’. Với sự thay đổi cố ý này nhân vật ngầm tỏ rằng quan hệ xa lạ
trước kia nay đã thay đổi hoặc tỏ ra một cách hàm ẩn rằng:
- Tôi xem quan hệ giữa ông và tôi là con quan hệ bố con.
- Tôi muốn quan hệ thân mật với ông như người nhà trong gia đình.
VD2: Trong các cuộc cãi lộn giữa vợ chồng , không ít trường hợp người
vợ và người chồng chuyển từ xưng hộ ‘’anh “/ ‘’em’’ sang ‘’anh ‘’/ ‘’tôi’’ ,
cuối cùng thì là ‘’mày’’/’’tao’’.
VD3: Tương tự như cuộc cãi vã của anh em trong nhà thường ngày, họ
chuyển từ xưng hô “anh”/”em” sang “mày”/”tao”.
Sự thay đổi cách xưng hô như vậy tỏ ra rằng có sự thay đổi trong quan hệ
giữa hai người mà không cần tuyên bố ‘’tường minh’’ nó ra.
4.2 . Các hành động ngôn ngữ gián tiếp.
Khi chúng ta sử dụng các hành động ngôn ngữ theo lối gián tiếp là biện
pháp rất có hiệu lực để truyền báo các nghĩa hàm ẩn, đặc biệt là nghĩa có ý
ngữ dụng học .
VD: Người mẹ hỏi con gái của mình đi chơi về muộn vào buổi đêm:
-‘’ Bây giờ là mấy giờ rồi?’’
15
Đặt câu hỏi này người mẹ rõ ràng vi phạm điều kiện chuẩn bị và điều kiện
tâm lý của hành động hỏi – người mẹ đã biết giờ quá muộn vào ban đêm.
Trong tình thế của mình , người con gái biết ngay ý định nhắc nhở , cảnh cáo
của mẹ về việc đi chơi về muộn.
Đáp lại những câu hỏi kiểu như vậy , không phải là những câu trả lời ‘’nhơn
nhơn’’ như ‘’ dạ, 12h đêm rồi mẹ ạ’’ mà phải là những phát ngôn xin lỗi ,
thanh minh… như: ’’ con xin lỗi ạ!”
4.3. Sự vi phạm quy tắc lập luận:
Người nói chỉ đưa ra lập luận cứ để người nghe đưa ra kết luận hoặc đưa ra
kết luận để người nghe suy ra luận cứ. Không hoàn tất các bước lập luận là
cách thường được dùng để tạo ra các hàm ngôn.
4.4. Sự vi phạm các quy tắc hội thoại:
Trước hết chúng ta xét hai ví dụ sau:
VD1: Người anh trai hỏi bác về đứa em gái họ của mình lâu ngày không gặp:
-“ em Thủy học có giỏi không ạ?”
-“ hai năm học lớp 1, ba năm học lớp 2,bốn năm học lớp 3,năm nay mới
được lên lớp 4”
Thay vì dùng hành động hỏi đáp cho câu hỏi, thì người mẹ đã vi phạm một
cách cố ý quy tắc hội thoại chi phối chức năng ở lời của các hành động trong
cặp hội thoại. Phát ngôn của người mẹ ngầm trả lời cho đứa cháu trai của
mình rằng “ Thủy học dốt”.
VD2: Hai người bạn học sinh nói với nhau:
- “ Ê Hương! Tao vừa biết một tin động trời của con Lan này, nó..”
- “ Mày ăn gì chưa, có muốn đi ăn với tao không?”
16
Người bạn Hương đã vi phạm quy tắc hội thoại, vi phạm quy tắc tôn trọng
thể diện ở chỗ vi phạm lãnh địa hội thoại , Hương đã ngắt lời người bạn của
mình khi người bạn đang kể về việc xấu hổ của nhân vật Lan. Và câu trả lời
của Hương thì không hề liên quan đến câu chuyện đang kể .
Nhưng chúng ta không thể cho rằng Hương là một người thô lỗ khi xét về
nghĩa hàm ẩn trong sự vi phạm đó: Hương muốn nhắn với người bạn của
mình rằng pải cảnh giác, việc nói xấu không nên nói to chỗ đông người, như
thế là không hay và mất lịch sự, chỉ nên nói lúc chit có hai chúng ta mà thôi,
để trách phiền hà.”
Qua hai ví dụ trên chúng ta tháy sự vi phạm cố ý các quy tắc điều khiển cấu
trúc chức năng hội thoại,… cũng là biện pháp để truyền đạt các nghĩa hàm ẩn
cố ý.
4.5. Phương châm cộng tác hội thoại của Grice và nghĩa hàm ẩn.
Grice cho rằng người nói có tính “xúc phạm” một hoặc một số nguyên tắc
để khai thác chúng. Ông đặt tên cho cách dùng này là “sự xúc phạm” hay là
“sự khai thác” các nguyên tắc cộng thoại .
Các nghĩ hàm ẩn này dựa vào tính vững chắc của phương châm cộng tác
hội thoại và hoạt động theo cơ chế: Khi phát ngôn trệch ra khỏi nguyên tác
nào đó thì người nghe vẫn tiếp tục lí giải nó sao cho phù hơp với sự cộng tác
trong hội thoại càng nhiều càng tốt .
Như vậy , bằng cách vi phạm nguyên tắc cộng tác hội thoại , người nói
buộc người nghe phải vận dụng thao tác suy ý để đạt đến một nghĩa nào đó
,và chỉ với nghĩa được suy ra đó, người nói mới được xem là vẫn tôn trọng
phương châm cộng tác.
Những hàm ẩn hội thoại đặc thù là cơ sở của môt số ‘’biện pháp tu từ’’
trong từ học của Aristole như:
17
Nguyên tắc về chất.
Nguyên tắc về lượng.
Nguyên tắc về quan hệ.
Nguyên tắc về cách thức.
18
Tiểu kết:
Xét về toàn bộ phần lý thuyết, cơ sở lý luận của đề tài, ta có thể thấy, cơ chế
tạo ra tiếng cười trong truyện cười dân gian Việt Nam thuộc nhóm phần lý
thuyết 4.4 : Sự vi phạm qui tắc hội thoại và 4.5: Phương châm cộng tác hội
thoại của Grice và nghĩa hàm ẩn. Việc sử dụng , tuân thủ các phương châm
hội thoại sẽ giúp chúng ta thàng công trong việc giao tiếp , truyền đạt , trao
đổi thông tình và gửi gắn tình cảm hằng ngày. Nhưng đôi khi chúng ta chúng
ta không tuân thủ các phương thức hội thoại, cố ý tại ra những hàm ẩn, mà đối
phương muốn hiểu phải suy ý mới có thể rõ được. Đó là một điều vô cùng đặc
biệt và tinh tế trong ngôn ngữ Việt Nam và truyện cười dân gian cũng sử dụng
khía cạnh vi phạm phương châm hội thoại và cố ý vi phạm phương châm hội
thoại để tạo nên tiếng cười mua vui, hài hước hay mỉa mai hàm ẩn cho truyện
cười.
19
- Xem thêm -