TRƯỜNG ĐH THỦ ĐÔ HÀ NỘI
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐỖ NGỌC THUẬN
MỘT SỐ ẨN DỤ TIÊU BIỂU TRONG THƠ ĐƯỜNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP (ĐATN)
CHUYÊN NGÀNH: SƯ PHẠM NGỮ VĂN
1
Trang
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
1
Mục lục
3
Lời cam đoan
5
NỘI DUNG
Chương 1 – Cơ sở lí luận liên quan đến đề tài
9
1.1. Khái niệm ẩn dụ
9
1.1.1 Sơ lược về lịch sử nghiên cứu ẩn dụ
11
1.1.2. Một số quan niệm về phép ẩn dụ
13
1.2. Phương pháp phân loại ẩn dụ, các kiểu ẩn dụ
13
1.2.1 Phương pháp phân loại ẩn dụ
15
1.2.2. Các kiểu ẩn dụ
Chương 2 – Một số ẩn dụ tiêu biểu trong thơ Đường
16
16
2.1. Vài nét về thơ Đường
2.1.1. Một số nét khái quát về thơ Đường
18
2.1.2. Một số nhà thơ tiêu biểu
22
2.2. Ẩn dụ trong thơ Đường
2.2.1. Phương pháp phân loại ẩn dụ
27
2.2.2. Các kiểu ẩn dụ trong thơ Đường
27
2
2.2.1.1. Ẩn dụ ý tường
30
2.2.1.2. Ẩn dụ theo quy ước
35
2.2.3. Một số ẩn dụ tiêu biểu trong thơ Đường
46
Chương 3 – KẾT LUẬN
47
TÀI LIỆU THAM KHẢO
3
LỜI CẢM ƠN
Khóa luận tốt nghiệp
Đỗ Ngọc Thuận - Sư phạm Ngữ văn C2016
Trong quá trình thực hiện đề tài này, em xin chân thành cảm ơn Thầy Lê
Thời Tân đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện để em hoàn thành khóa luận của mình.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song có lẽ đề tài nghiên cứu của em vẫn mắc
vài thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự giúp đỡ, góp ý và phê bình của
quý Thầy Cô và các bạn để em có thể hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình.
Em xin chân thành cảm ơn!
LỜI CAM ĐOAN
Sau một thời gian tiến hành nghiên cứu đề tài, em đã thu được một số những
kết quả nhất định. Em xin cam đoan những kết quả mà em thu được trong đề tài
này không trùng với kết quả nghiên cứu của những tác giả khác.
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
4
Tác phẩm văn học là nghệ thuật của ngôn từ bởi mỗi một tác phẩn văn học
là bức tranh phản ánh cuộc sống, thế giới khách quan; nhưng đây không phải là sự
sao chép đơn thuần mà nó được tạo nên từ những điều tinh túy nhất. Thông qua tác
phẩm văn học, người nghệ sĩ muốn bộc lộ tư tưởng, tình cảm, cảm xúc của mình
trước cuộc đời, trước thế giới vạn vật.
Sức mạnh mà mỗi tác phẩm văn chương đem lại chính là việc vận dụng
ngôn ngữ một cách điêu luyện, tài hoa của các thi sĩ. Tuy nhiên, lớp vỏ ngôn từ thì
hữu hạn mà lời nói lại vô hạn. Để giải quyết vấn đề đó, người nghệ sĩ đã chắt chiu,
gạn lọc những từ ngữ, hình ảnh giàu sắc thái ý nghĩa và có tính biểu tượng, biểu
cảm cao để thể hiện nội dung tư tưởng mà mình muốn truyền tải, biểu đạt.
Văn chương nghệ thuật bao giờ cũng ý tại ngôn ngoại, người nghệ sĩ không
bộc lộ trực tiếp suy tư, tình cảm của bản thân mà bao giờ cũng bộc lộ một cách kín
đáo, tế nhị song vẫn đạt được những hiệu quả nhất định. Đó là nhờ sử dụng các
biện pháp tu từ từ vựng.
Ẩn dụ là biện pháp tu từ được sử dụng nhiều trong sáng tác văn chương
nghệ thuật. Đây là phép chuyển nghĩa dựa trên sự tương đồng giữa sự vật, hiện
tượng này với sự vật, hiện tượng khác cùng loại hay khác loại. Thông qua việc sử
dụng biện pháp tu từ này, các thi nhân đã gửi gắm tâm sự, tư tưởng của mình một
cách sâu sắc, độc đáo và tế nhị qua ngôn từ, hình ảnh được chắt chiu, chọn lọc. Và,
cũng thông qua đó, tác giả cũng tạo cho bạn đọc có cơ hội đồng sáng tạo với mình.
Những cấu trúc cơ bản của ngôn ngữ thơ ca Trung Quốc, đặc biệt là trong
thơ Đường, dù chúng đã biểu thị ý nghĩa nhưng cũng không phải là mục đích tự
thân. Bằng cách phá vỡ ngôn ngữ thông thường và đưa vào đó những hình thức đối
lập khác, những cấu trúc đó dường như hướng tới một cấp độ cao hơn; đó chính là
ẩn dụ. Chọn đề tài Một số ẩn dụ tiêu biểu trong thơ Đường, khóa luận mong muốn
5
làm rõ thế giới nghệ thuật độc đáo qua cách sử dụng phép ẩn dụ của một số nhà thơ
đời Đường.
2. Lịch sử vấn đề
Kho tàng văn chương Trung Quốc là một kho tàng đồ sộ, phong phú; đặc
biệt là thơ ca dưới đời Đường. Các sáng tác của hàng nghìn nhà thơ đời Đường
được bảo tồn trong cuốn Toàn Đường thi gồm 48900 bài. Đã có rất nhiều bài viết,
công trình nghiên cứu về thơ ca đời Đường của các tác giả, các nhà nghiên cứu, ta
có thể điểm qua một số bài nghiên cứu, phân tích sau:
Trong bài Cảnh và tình trong Đường thi, Tạp chí Khoa học Đại học Sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh (số 26 năm 2011), tác giả Đinh Phan Cẩm Vân
nhận định: “Thành tựu của thơ Đường căn bản là sáng tạo hệ thống hình ảnh giàu
giá trị thẩm mĩ được kết hợp từ khả năng quan sát, cảm xúc và độ sâu tư tưởng.
Một bài thơ bao giờ cũng gồm hai phương diện: cảnh và tình. Tác động của thơ
đến với người đọc cũng là tác động từ tình và cảnh. Thi nhân có xu hướng khai
thác tính chất của cảnh để gửi gắm những tâm tình tương hợp”.
Trong bài Sự tinh diệu trong nghệ thuật thơ Đường, tác giả Đào Thái Sơn
nhận định: “Thơ Đường là thể loại thơ mà có thể nói sống đúng nghĩa với hai chữ
“trữ tình”. Tình cảm, cảm xúc trở thành mạch nối vô hình để hàn kết các hình ảnh,
ý tưởng, nhạc điệu tạo nên sự vận động của ý thơ trên con đường tạo nên cấu tứ.
Cái độc đáo nhất của thơ Đường là dồn nén biểu cảm để đạt tới sự tập trung cao
độ và trở thành tính khái quát, triết lý. Cái độc đáo thứ hai của Đường thi là luật
thơ có cấu trúc hoàn thiện. Nó là sự hài hòa giữa bằng trắc, âm dương, đối xứng
và phi đối xứng”.
Có thể nói, thơ ca đời Đường được rất nhiều các tác giả, các nhà nghiên cứu
quan tâm. Mỗi một công trình nghiên cứu đều là một đóng góp vô cùng quan trọng
6
trong việc khảo cứu thơ ca Đường thi. Cho đến nay, trong số các công trình nghiên
cứu mà tôi thu thập được, chưa có một chuyên luận nào nghiên cứu sâu về ẩn dụ
trong thơ Đường. Trên cơ sở của những tác giả, những nhà nghiên cứu trước, tôi
tiến hành khảo sát, phân loại và phân tích tác dụng nghệ thuật của một số ẩn dụ
tiêu biểu trong thơ Đường một cách có hệ thống và chuyên sâu hơn.
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Ở khóa luận này, tôi tập trung đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu phương pháp phân
loại ẩn dụ, các kiểu ẩn dụ trong thơ Đường và tiến hành khảo sát, phân loại và phân
tích tác dụng nghệ thuật của một số ẩn dụ tiêu biểu trong thơ Đường.
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
Thông qua việc khảo sát về một số ẩn dụ tiêu biểu trong thơ Đường, khóa
luận mong muốn giúp người đọc phần nào hiểu rõ hơn về các kiểu ẩn dụ trong thơ
Đường cũng như sự đóng góp của ngôn từ trong sáng tác văn chương nghệ thuật.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tập hợp những vấn đề lí luận có liên quan đến đề tài nghiên cứu và tiến
hành khảo sát, phân loại và phân tích tác dụng nghệ thuật của một số ẩn dụ tiêu
biểu trong thơ Đường; từ đó rút ra những kết luận cần thiết.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp hệ thống – cấu trúc.
- Phương pháp loại hình.
7
- Phương pháp so sánh – đối chiếu.
- Phương pháp liên ngành.
- Phương pháp phân tích – tổng hợp.
5. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận tiến hành khảo sát các tác phẩm của những tác giả sau:
- Trương Cửu Linh: Tự quân chi xuất hĩ.
- Đỗ Phủ: Nguyệt dạ, Xuân dạ hỉ vũ, Văn quan quân thu Hà Nam, Hà Bắc.
- Vương Duy: Y hồ.
- Đỗ Mục: Khiển hoài.
- Vương Xương Linh: Khuê oán.
- Lý Hạ: Bài dẫn về đàn Không hầu.
- Lý Thương Ẩn: Vô đề, Cẩm sắt.
- Lý Bạch: Tĩnh dạ tứ, Ngọc giai oán.
6. Cấu trúc của khóa luận
Khóa luận cấu trúc ba chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận liên quan đến đề tài
Chương 2: Một số ẩn dụ tiêu biểu trong thơ Đường
Chương 3: Kết quả
7. Đóng góp của khóa luận
- Về mặt lí luận:
8
Kết quả nghiên cứu về một số ẩn dụ tiêu biểu trong thơ Đường sẽ góp phần
làm sáng tỏ những nét độc đáo trong thơ Đường, đồng thời khẳng định giá trị của
phương thức ẩn dụ trong việc xây dựng văn bản nghệ thuật.
- Về mặt thực tiễn:
Khóa luận giúp chúng ta có cái nhìn đầy đủ hơn về tác phẩm văn học dựa
trên mối quan hệ giữa nội dung và hình thức, nhất là con đường tiếp cận ngôn ngữ
tác phẩm ở cấp độ từ ngữ. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu khóa luận còn mở ra một
hướng phân tích mới cho việc tìm hiểu, học tập và giảng dạy thơ Đường trong nhà
trường.
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Khái niệm ẩn dụ
1.1.1. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu ẩn dụ
Ẩn dụ là một hiện tượng đã được nghiên cứu từ thời cổ đại. Ẩn là bí mật, là
giấu giếm; dụ là tương tự, ví von. Hiểu theo cách đơn giản, ẩn dụ có nghĩa là so
sánh ngầm.
9
Ẩn dụ, tiếng Anh là metaphor, xuất phát từ métaphore – một tiếng Pháp cổ
thế kỉ thứ XVI; và từ này lại xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ metaphora, có nghĩa là
dịch chuyển (transfer). Ẩn dụ là sự dịch chuyển ý nghĩa từ hạn từ này sang hạn từ
khác, dựa trên một yếu tố tương tự nào đó. Đó là một cách nói bóng bẩy, trong đó,
một điều được ví von với một điều khác bằng cách nói “cái này là cái kia”.
Từ rất sớm trong tư tưởng Hy Lạp, ẩn dụ đã phát triển rực rỡ qua huyền
thoại và thi ca. Aristotle được xem như là người đầu tiên trong lịch sử đề cập đến
ẩn dụ, ông cho rằng triết lý cần ẩn dụ để tăng cường thêm cho luận cứ và nhằm
thuyết phục người khác.
Vào thời Trung Cổ, quan điểm về ẩn dụ có hai khía cạnh: ẩn dụ là tốt khi
dùng trong Thánh Kinh và xấu khi lạm dụng để ngụy trang những điều phản chân
lý.
Thời hiện đại cũng xuất hiện rất nhiều các công trình nghiên cứu của các nhà
ngôn ngữ học về ẩn dụ. Thomas Hobbes (1588 - 1679) là người đầu tiên mở ra
cuộc tấn công trực diện vào ẩn dụ. Sau Thomas Hobbes, ta có thể kể đến John
Locke, Richard Whately, George Campbell, Hegel, ... Về cấu trúc của ẩn dụ, theo
Ivor Armstrong Richards trong cuốn The Philosophy of Rhetoric (Tu từ học)
(1936), bao gồm hai phần: “ “ý nghĩa” và “phương tiện biểu lộ”. Ý nghĩa là điều ẩn
chứa bên trong chủ thể còn phương tiện là thứ mà chủ thể dùng để truyền tải ý
nghĩa”.
Trong các công trình nghiên cứu của các học giả Trung Hoa cổ đại thì ẩn dụ
được thể hiện qua cách chỉ sự ví von và thường ẩn chứa trong lời khởi đầu của các
bài ca dao dân ca.
10
Ở Việt Nam, ẩn dụ đã được các nhà nghiên cứu quan tâm nhiều. Ta có thể kể
đến một số công trình nghiên cứu với các nhà nghiên cứu tiêu biểu như Đỗ Hữu
Châu, Nguyễn Thiện Giáp, Đinh Trọng Lạc, Cù Đình Tú, ...
Hiểu theo cách đơn giản thì đây là một hình thái trong văn nói hay một cụm
từ được dùng để thể hiện một cụm từ khác có cùng hoặc gần sắc thái nghĩa. Lối ẩn
dụ này được sử dụng thường xuyên trong văn học – đặc biệt là thơ – một bài viết
có ít từ vựng, nơi mà cảm xúc và những ý tứ trong nó lại được dùng để liên tưởng
đến những vật hay đặc tính trong bài khác. Nó so sánh hai sự vật mà không dùng
những cụm từ hoặc từ “như”, “như là”, “giống như”. Khác với lối so sánh, lối ẩn
dụ đạt tới một mức độ cao hơn. Thay vì yêu cầu chúng ta mô tả một sự vật, hiện
tượng một cách thông thường, lối ẩn dụ yêu cầu ta mô tả một sự vật, hiện tượng mà
lại lấy hình ảnh của một sự vật, hiện tượng khác
1.1.2. Một số quan niệm về phép ẩn dụ
Từ thời cổ đại, Aristotle đã thảo luận về ẩn dụ trong hai tác phẩm The
Poetics (Thi pháp học) và The Rhetoric (Tu từ học). Ông cho rằng: “Ẩn dụ có
nghĩa là quy cho sự vật nào đó một cái tên mà tên này thuộc về một sự vật khác, sự
dịch chuyển có thể hoặc là giống (genus) thay cho loại (species), hoặc loại thay
cho giống, hoặc là loại thay cho loại, hoặc dựa trên nền tảng của sự tương tự”. Ẩn
dụ trong Aristotle đứng giữa hai lĩnh vực: tu từ học và thơ.
Cũng như Aristotle, Cicero bàn về ẩn dụ theo văn phong hơn là theo diễn
ngôn có ý nghĩa. Ông xem ẩn dụ là “một hình thức rút gọn của so sánh, cô đọng
vào trong một chữ; chữ này được đặt vào một vị trí không thuộc về nó y như thể đó
là vị trí riêng của nó và nếu nó được thừa nhận là mang lại điều khoái trá nhưng
nếu nó không chứa đựng sự tương tự thì nó bị bác bỏ”.
11
Ở Việt Nam, khái niệm ẩn dụ được các nhà nghiên cứu trình bày theo nhiều
cách khác nhau:
Trong cuốn Phong cách học tiếng Việt của Cù Đình Tú - Lê Anh Hiền Nguyễn Thái Hoà – Võ Bình (1982) khái niệm được định nghĩa: “Ẩn dụ là cách
lấy tên gọi của đối tượng này để lâm thời biểu thị một đối tượng khác trên cơ sở
thừa nhận ngầm một nét giống nhau nào đấy giữa hai đối tượng”.
Trong cuốn 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, Đinh Trọng Lạc
cho rằng: “Ẩn dụ là sự định danh thứ hai mang ý nghĩa hình tượng dựa trên sự
tương đồng hay giống nhau giữa khách thể A được định danh với khách thể B có
tên gọi được chuyển sang dùng cho A”.
Trên cơ sở những quan điểm về ẩn dụ nêu trên, ta có thể hiểu như sau: Ẩn dụ
là cách thức chuyển đổi tên gọi dựa trên sự so sánh ngầm giữa hai sự vật có nét
tương đồng hay giống nhau. Bản chất của ẩn dụ là sự thay thế tên gọi dựa trên sự
đồng nhất hoá các sự vật, hiện tượng, tính chất khi tư duy liên tưởng của con người
phát hiện ra ở chúng ít nhất có cùng một nét hay một đặc điểm nào đó.
1.2. Phương pháp phân loại ẩn dụ, các kiểu ẩn dụ
1.2.1. Phương pháp phân loại ẩn dụ
1.2.1.1. Cách phân loại thứ nhất: dùng truyện ngụ ngôn: là cách sử dụng các câu
truyện để truyền đạt ý nghĩa
1.2.1.2. Cách phân loại thứ hai: dùng cách nói lái: là cách pha trộn các lối ẩn dụ do
tự nghĩ ra hoặc tình cờ dùng sai phép tu từ
1.2.1.3. Cách phân loại thứ ba: dùng tục ngữ: là một lối dùng tu từ khá nâng cao,
bằng cách dùng một số câu thơ, vè, ... để dạy hoặc truyền đạt một bài học ý nghĩa.
1.2.2. Các kiểu ẩn dụ
12
1.2.2.1. Các hình thức ẩn dụ theo Pierre Fontanier
Theo Pierre Fontanier, ẩn dụ là: “Trình bày một ý tưởng dưới kí hiệu của một
ý tưởng khác sinh động hơn hay được biết nhiều hơn, mà ý tưởng này lại chẳng có
một liên hệ nào với ý tưởng đầu tiên ngoài liên hệ của một sự giống nhau hay
tương tự nào đó”. Pierre Fontanier rút gọn thành năm loại ẩn dụ:
1. Loại ẩn dụ thứ nhất: Trình bày một sự vật sinh động bằng một sự vật sinh động
khác; nghĩa là chuyển đến một sự vật sinh động cái vốn là đặc điểm của một sự vật
sinh động khác.
Ví dụ: Cô ấy là một con mèo.
→ Chuyển ý nghĩa (hiền lành) của con mèo (một sự vật sinh động) đến cho
con người (một sự vật sinh động khác); ý nói “cô ấy” hiền lành như “con mèo”.
2. Loại ẩn dụ thứ hai: Trình bày một sự vật trừu tượng bằng một sự vật lý không
sinh động.
Ví dụ: Những bông hoa của cuộc sống.
→ Chuyển ý nghĩa “con người tốt đẹp” chứa đựng trong “những bông hoa”
là sự vật vật lý không sinh động đến “cuộc sống” là một sự vật không sinh động có
tính cách trừu tượng.
3. Loại ẩn dụ thứ ba: Trình bày một sự vật sinh động bằng một sự vật không sinh
động.
Ví dụ: Cậu bé này là mầm non của đất nước.
→ Dùng “mầm non” là sự vật không sinh động để chỉ “cậu bé” - một con
người là sự vật sinh động.
13
4. Loại ẩn dụ thứ tư: Trình bày một sự vật vật lý không sinh động bằng một sự vật
vật lý sinh động. Là loại ẩn dụ qua đó, người ta nói về một sự vật không sinh động
có tính cách vật lý bằng một cái thường để chỉ một sự vật sinh động.
Ví dụ: Dày vò bởi lòng hối hận.
→ Dùng “lòng hối hận” là những điều bất động có tính cách vật lý được
trình bày như sự vật sinh động: “dày vò”. Vì cả hai đều thuộc về thế giới vật lý,
Pierre Fontanier gọi đây là “ẩn dụ vật lý”.
5. Loại ẩn dụ thứ năm: Trình bày một sự vật trừu tượng bằng một sự vật sinh động.
Là loại ẩn dụ qua đó, người ta nói về một sự vật không sinh động có tính cách tinh
thần bằng một cái vốn được dùng để nói về sự vật sinh động, có tính cách trí tuệ và
tự do.
Ví dụ: Kinh nghiệm là bậc thầy của nghệ thuật.
→ “Bậc thầy” là sự vật sinh động (có tính cách tinh thần) để chỉ sự vật trừu
tượng là “kinh nghiệm”. Vì cả hai yếu tố đều có tính cách trừu tượng, thuộc về tinh
thần nên Pierre Fontaniet gọi đây là những “ẩn dụ tinh thần”.
1.2.2.2. Các kiểu ẩn dụ theo Nguyễn Thiện Giáp
Trong cuốn Từ vựng học tiếng Việt, tác giả Nguyễn Thiện Giáp đưa ra tám
kiểu ẩn dụ như sau:
1. Ẩn dụ hình thức: là những ẩn dụ dựa trên sự giống nhau về hình thức giữa các
sự vật.
Ví dụ: vì mũi là một bộ phận cơ thể con người có đặc điểm nhọn, nhô ra nên
phần đất nhô ra còn được gọi là mũi đất.
2. Ẩn dụ chuyển tính chất của sự vật, hiện tượng này sang sự vật, hiện tượng khác
14
Ví dụ:
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
(Ông đồ - Vũ Đình Liên)
3. Ẩn dụ dựa trên sự giống nhau về một thuộc tính, tính chất nào đó
Ví dụ:
Người Cha mái tóc bạc
Đốt lửa cho anh nằm
(Đêm nay Bác không ngủ - Minh Huệ)
Sự giống nhau về phẩm chất là Người Cha, đang ẩn dụ cho Bác Hồ. Bác
đang chăm lo cho giấc ngủ của các chiến sĩ như người cha ruột đang chăm lo cho
các đứa con của mình.
4. Ẩn dụ chức năng
Ví dụ: bến trong bến xe, bến đò, bến sông → tất cả các từ này đều thể hiện
chức năng giống nhau là đầu mối giao thông.
5. Ẩn dụ đặc điểm hình thức, dáng vẻ bên ngoài
Ví dụ: Người phụ nữ đẹp được gọi là Tây Thi.
6. Ẩn dụ màu sắc
Ví dụ: màu cánh sen – màu hồng như màu của cánh sen
7. Ẩn dụ chuyển tên gọi của con vật thành con người.
Ví dụ: cún con của mẹ, cún con của cha ...
15
8. Ẩn dụ từ cụ thể đến trừu tượng
Ví dụ: hạt nhãn là cái cụ thể để chỉ phần bên trong của quả được dùng để chỉ
trung tâm quan trọng nhất của vấn đề.
Trên đây là cách phân loại ẩn dụ của một số nhà nghiên cứu ngôn ngữ học.
Quan niệm và cách phân loại về ẩn dụ tu từ của các nhà ngôn ngữ học được trình
bày theo những cách khác nhau nhưng không hề mâu thuẫn, đối lập mà chúng bổ
sung cho nhau, đem lại những cách hiểu thống nhất và đầy đủ nhất về phép ẩn dụ
tu từ từ vựng.
Trong khóa luận này, tôi tập trung đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu phương pháp
phân loại ẩn dụ, các kiểu ẩn dụ trong thơ Đường và tiến hành khảo sát, phân loại và
phân tích tác dụng nghệ thuật của một số ẩn dụ tiêu biểu trong thơ Đường.
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ ẨN DỤ TIÊU BIỂU TRONG THƠ ĐƯỜNG
2.1 Vài nét về thơ Đường
2.1.1. Một số nét khái quát về thơ Đường
Thơ Đường hay Đường thi là toàn bộ thơ ca đời Đường được các nhà thơ
Trung Hoa sáng tác từ khi Đường Cao Tổ Lý Uyên dựng triều đại cho đến khi nhà
Đường mất; ròng rã mấy trăm năm trong khoảng từ thế kỉ 7 đến thế kỉ 10 (618 –
907). Các sáng tác của các nhà thơ đời Đường được bảo tồn trong cuốn Toàn
16
Đường thi gồm 48900 bài. Nhiều bài thơ hay đã được lưu truyền hàng ngàn năm.
Thơ Đường có ảnh hưởng rất lớn đối với nền văn hóa Trung Hoa.
Thơ Đường rất trọng âm nhạc, hình ảnh, sâu sắc về nội dung, đẹp về hình
thức; yếu tố hiện thực và lãng mạn trong thơ Đường đều đạt tới đỉnh cao.
Thơ Đường được chia làm hai loại: thơ cổ thể và thơ tân thể (luật). Trong
thơ cổ thể lại có bài ngũ ngôn (năm chữ) và bài thất ngôn (bảy chữ). Trong thơ tân
thể (luật) lại có loại tuyệt cú (bốn câu) và bát cú (tám câu). Mỗi phần trong bài bát
cú đều có quy tắc cụ thể để thành một quy định về cấu trúc (phá, thừa, thực, luận,
kết). Ngoài ra còn có luật bằng trắc để tạo thành âm điệu và vần, làm phong phú
cho bài thơ.
Thơ Đường có thể chia ra làm bốn giai đoạn: Sơ Đường (618 – 713), Thịnh
Đường (714 – 766), Trung Đường (766 – 835) và Vãn Đường (835 – 907).
Thời Sơ Đường (618- 713), trong gần một trăm năm của thời kì này, Trung
Quốc sống trong cảnh thái bình, an lạc. Vì vậy, thơ làm trong thời kì này phần
nhiều là ca tụng cảnh đất nước thanh bình, tán dương thịnh đức của triều đại, có
văn từ hoa mỹ diễm lệ. Nổi trội nhất có các nhà thơ được mệnh danh là “Sơ Đường
Tứ kiệt” bao gồm: Dương Quýnh, Lư Chiểu Lân, Lạc Tân Vương và Vương Bột.
Thời Thịnh Đường (713 – 766) được chia làm hai giai đoạn: thái bình và tán
loạn do cuộc nổi loạn của An Lộc Sơn năm 755. Trước loạn An Lộc Sơn là thời
của những bài thơ chứa đầy tình, nhạc và rượu. Từ cuộc loạn ấy về sau, thi ca phản
ánh một xã hội điêu tàn, thống khổ. Thơ thời Thịnh Đường có thể chia ra làm ba
phái chính: phái Biên tái, phái Điền viên và phái Xã hội. Các nhà thơ tiêu biểu cho
thời Thịnh Đường có thể kể đến Vương Hàn, Vương Chi Hoán, Vương Xương
Linh, Lý Bạch, Mạnh Hạo Nhiên, Vương Duy, Đỗ Phủ, ...
17
Thời Trung Đường (766 – 835), đây là gian đoạn thời Đường bị ngoại bang
quấy nhiễu, triều đình thối nát, quan lại lộng quyền, xã hội bất an, nhân dân cực
khổ. Tình trạng thi ca kém hẳn thời trước, các nhà thơ chỉ quanh quẩn trong phạm
vi cũ. Trong thời Đại Lịch (776 – 779), có mười thi sĩ được gọi là “Đại Lịch thập
tài tử” bao gồm Lư Luân, Cát Trung Phu, Hán Hoằng, Tiền Khởi, Tư Không Thự,
Miêu Phát, Thôi Đồng, Cảnh Vi, Hạ Hầu Thẩm và Lý Đoan.
Thời Vãn Đường (836 – 907) là giai đoạn tình trạng chính trị, kinh tế, xã hội
ngày càng suy đồi, quan lại tham nhũng, thuế má nặng nề đã dẫn đến loạn Vương
Tiên Chi và loạn Hoàng Sào làm sụp đổ nhà Đường. Ba nhà thơ nổi trội nhất thời
này là Lý Thương Ẩn, Đỗ Mục và Ôn Đình Quân.
2.1.2. Một số nhà thơ tiêu biểu thời Đường
Vương Duy
18
Vương Duy (701 – 761), tự Ma Cật, hiệu Ma Cật cư sĩ. Ông là một trong
những nghệ sĩ tài năng nhất của thời Thịnh Đường. Thơ ca, âm nhạc, hội họa ông
đều rất giỏi. Thi sĩ trứ danh Tô Đông Pha đời Tống khi viết về Vương Duy có câu:
“Thưởng thức thơ của Ma Cật, trong thơ có họa đồ; ngắm họa đồ của Ma Cật,
trong họa đồ có thơ”. Năm 721, ông đỗ Tiến sĩ đời Đường Huyền Tông nhưng sau
phạm phải triều cấm nên bị phạt đến Tế Châu. Loạn An Lộc Sơn xảy ra, ông bị
buộc phải phục vụ quân phản loạn, điều đó khiến cho lúc hòa bình được lập lại,
ông đã bị giam trong một thời gian ngắn. Là tín đồ của Thiền Tông, ông là một
người trầm tư mặc tưởng tinh tế. Ông đã đưa hội họa và thơ ca với cách nhìn từ
bên trong đạt tới một đỉnh cao. Tại biệt thự Võng Xuyên dưới chân núi Chung
Nam, ông trải qua những năm tháng cuối đời bằng hoạt động sáng tác thơ ca. Ông
chuyên tâm nghiên cứu Phật giáo và thi ca của ông phản ánh tính Phật nên hậu bối
tôn xưng ông là “Thi Phật”.
19
Lý Bạch
Lý Bạch (701- 762), tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ. Lý Bạch và Đỗ
Phủ được coi là hai nhà thơ lớn nhất của Trung Quốc. Nhà thơ Hạ Tri Chương lần
đầu gặp ông đã gọi ông là “trích tiên nhân” – tiên bị đày xuống trần gian. Nghiện
rượu, hấp thụ tinh thần hiệp sĩ, là một tín đồ của Đạo giáo, Lý Bạch khước từ con
đường tìm kiếm quan chức bình thường mà chủ yếu là sống một cuộc đời phóng
lãng và lang thang. Năm hai mươi lăm tuổi, ông từ giã quê hương Tứ Xuyên để đi
ngao du ở một số tỉnh phía Bắc và phía Nam. Năm 742, Lý Bạch được tiến cử vào
triều và được hưởng những ân huệ chưa từng thấy; nhưng sự ghen ghét của những
kẻ đối địch đã nhanh chóng làm giảm uy tín và vinh dự của ông. Trong cuộc biến
loạn An Lộc Sơn, vì dính líu đến sự kiện hoàng tử Lý Lân, ông bị kết án đi đày ở
Dạ Lang thuộc tỉnh Vân Nam nhưng giữa đường thì được ân xá. Theo truyền
thuyết, vào một đêm uống rượu say, ông đã chết đuối do muốn vồ bắt ánh trăng
trên dòng sông Dương Tử. Nhờ sự lỗi lạc của mình, ông đã được hậu bối tôn xưng
là “Thi Tiên”.
20
- Xem thêm -