Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khảo sát nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi tại phường phú nhuận thành...

Tài liệu Khảo sát nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi tại phường phú nhuận thành phố huế

.DOC
49
1174
60

Mô tả:

1 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các kết quả trong này là trung thực và chưa từng có 1 ai công bố trong bất kỳ công trình nào. Huế, ngày 15 tháng 05 năm 2011 Người cam đoan Đỗ Thị Liên Hương 2 NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT BHYT : Bảo hiểm y tế BVTW : Bệnh viện trung ương CBYT : Cán bộ Y tế CĐ-ĐH : Cao Đẳng – Đại học CSSK : Chăm sóc sức khỏe NCT : Người cao tuổi TCYTTG : Tổ chức Y tế thế giới THCS : Trung học cơ sở THPT : Trung học phổ thông XN : Xét nghiệm 3 MỤC LỤC Trang ĐẶT VẤN ĐỀ..................................................................................................1 Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU.............................................................3 1.1. Khái niệm về người cao tuổi......................................................................3 1.2. Sơ lược về sức khoẻ, bệnh tật của người cao tuổi......................................4 1.3. Chăm sóc sức khoẻ của người cao tuổi......................................................9 1.4. Sơ lược địa điểm nghiên cứu về người cao tuổi tại phường Phú Nhuận Thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế..................................................13 Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU..............15 2.1. Đối tượng nghiên cứu...............................................................................15 2.2. Phương pháp nghiên cứu..........................................................................15 Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.........................................................21 3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu..............................................21 3.2. Sự hiểu biết về bệnh tật của người cao tuổi..............................................24 3.3. Nhu cầu chăm sóc sức khoẻ của người cao tuổi.......................................26 Chương 4. BÀN LUẬN.................................................................................31 4.1. Bàn luận về đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu...........................31 4.2. Sự hiểu biết về bệnh tật của người cao tuổi..............................................33 4.3. Xác định nhu cầu chăm sóc sức khoẻ của người cao tuổi tại phường Phú Nhuận , thành phố Huế................................................35 KẾT LUẬN....................................................................................................40 KIẾN NGHỊ...................................................................................................42 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 4 ĐẶT VẤN ĐỀ Hiện nay, người cao tuổi trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng đang có xu hướng tăng nhanh. Đây là mối quan tâm chung của nhiều quốc gia. Riêng ở nước ta, bảo vệ và chăm sóc người cao tuổi không chỉ mang ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội mà còn mang ý nghĩa nhân đạo sâu sắc thể hiện truyền trống "uống nước nhớ nguồn"của dân tộc ta. Vào tháng 6 năm 2007, thế giới có 6,6 tỉ người. Con số này sẽ tăng lên 8 tỉ vào năm 2025 và là 9,3 tỉ vào năm 2050. Trong khi đó, 3/5 dân số thế giới là cư dân châu Á [2], [33],[37]. Người cao tuổi châu Á đã tăng lên gấp đôi trong vòng 25 năm qua và dự đoán là sẽ tăng hơn 75% vào năm 2050. Tỉ lệ người cao tuổi ở Việt nam hiện nay là 7% và dự đoán là sẽ hơn 10% vào năm 2014 [30], [35]. Tốc độ dân số người già tăng lên nhanh chóng là do tuổi thọ trung bình tăng, giảm tỷ lệ sinh cũng như giảm tỷ lệ tử vong. Xu hướng già hoá dân số kéo theo đó là vấn đề chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho một số lượng đông đảo người cao tuổi trong cộng đồng đang là một thách thức lớn đối với toàn nhân loại trong thế kỷ 21 [1], [2], [34]. Việt Nam là một nước đang phát triển, mặc dù hiện tại cấu trúc dân số vẫn thuộc loại trẻ, song số người cao tuổi đang có xu hướng tăng nhanh. Theo dự báo, Việt Nam sẽ chính thức trở thành quốc gia có dân số già vào năm 2014 [6], [34], [35]. Người cao tuổi Việt Nam là lớp người đã có những đóng góp to lớn trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước và có bề dày kinh nghiệm, chiều sâu trí tuệ. Chăm sóc đời sống vật chất tinh thần và chăm sóc sức khoẻ cho người cao tuổi là nghĩa vụ và trách nhiệm của toàn xã hội. Do các đặc điểm về sinh lý, người cao tuổi là đối tượng dễ bị mắc bệnh và có nhiều vấn đề sức khoẻ hơn so với các lứa tuổi khác. Tình hình bệnh tật của 5 người dân nói chung và của người cao tuổi nói riêng phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện môi trường, kinh tế, văn hoá - xã hội, chính trị, tập quán... [8]. Song song đó, việc đô thị hóa, công nghiệp hóa và hiện đại hóa làm cho thế hệ trẻ ngày càng bị cuốn vào những hoạt động bên ngoài gia đình hơn. Thế hệ trẻ ngày càng có ít thời gian hơn để chăm sóc người cao tuổi, đặc biệt khi chăm sóc ở bệnh viện. Cùng với sự tác động của các điều kiện kinh tế, xã hội làm cho chi phí y tế cao hơn. Tất cả những điều đó khiến cho người cao tuổi được chăm sóc tại nhà ngày càng nhiều hơn [4],[7], [24],[32]. Xuất phát từ ý tưởng trên, chúng tôi nghiên cứu đề tài:" Khảo sát nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi tại phường Phú Nhuận thành phố Huế" nhằm mục tiêu: 1. Mô tả sự hiểu biết về bệnh tật của bản thân của người cao tuổi tại phường Phú Nhuận, thành phố Huế. 2. Xác định nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi tại phường Phú Nhuận, thành phố Huế. 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. KHÁI NIỆM VỀ NGƯỜI CAO TUỔI 1.1.1. Định nghĩa người cao tuổi Việc phân chia già trẻ theo tuổi không phản ảnh chính xác quá trình sinh học. Có người nhiều tuổi trông vẫn trẻ, khỏe mạnh. Trái lại cũng có người tuổi chưa nhiều nhưng đã có những biểu hiện của tuổi già. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG) thì sắp xếp các lứa tuổi như sau: - Từ 45 tuổi đến 59 tuổi: Người trung niên - Từ 60 tuổi đến 74 tuổi: Người có tuổi - Từ 75 tuổi đến 90 tuổi: Người già - Từ 90 tuổi trở lên: Người già sống lâu Theo quy định của Liên Hiệp Quốc từ năm 1970: Người từ 60 tuổi trở lên được gọi là người cao tuổi (NCT) [14]. Đại hội thế giới về tuổi già tại Viên (Áo) năm 1982 đã thống nhất quy định tuổi già bắt đầu từ 60 tuổi trở lên. Tại nước ta, cho đến khi Pháp lệnh người cao tuổi (NCT) được ban hành vào tháng 4 năm 2000, chúng ta đã có quy định 60 tuổi trở lên là người già. Sau nhiều lần điều hành, đến cuối thập kỷ 80, khái niệm NCT được dùng thay cho người già. Tuy hai khái niệm này không khác nhau về khoa học, song về mặt tâm lý, cụm từ NCT mang ý nghĩa tích cực hơn [5], [ 29]. 1.1.2. Tình hình dân số già Do sự phát triển của kinh tế xã hội nói chung, của khoa học kỹ thuật nói riêng, trong đó có khoa học y học, tuổi thọ con người ngày càng được cải thiện và tỷ lệ NCT ngày càng tăng. Năm 1950 trên thế giới có 214 triệu người 60 tuổi trở lên. Đến năm 1970, theo công bố của TCYTTG, có 291 triệu người, chiếm 8% dân số, năm 2000, con số đó đã là 590 triệu người, ước tính đến năm 2025 là 1121 triệu [1], [28], [34], [37]. Ngay ở các nước đang phát triển, số lượng NCT 7 cũng tăng đáng kể: năm 1970 có 137 triệu người trên 60 tuổi, đến năm 2000 là 354 triệu [33]. Ở Việt Nam, tuổi thọ trung bình đã tăng nhiều, theo kết quả Bộ Y tế Việt Nam đưa ra ngày 2 tháng 1 năm 2006, tuổi thọ trung bình của người Việt là 71,3 tuổi; so với 65 tuổi vào năm 1998. [10], [16]. Nếu tính những người trên 60 tuổi thì ở miền Bắc nước ta năm 1960 có 814.591 người, đến năm 1974 đã có 1.645.659 người, tức là tăng 102% so với năm 1960 [18]. Số liệu năm 1999 cho thấy toàn quốc có 6.199.600 NCT [1], năm 2002 là 7 triệu người, chiếm tỷ lệ 8,65% dân số và dự báo khoảng năm 2014 - 2016 Việt Nam sẽ bước vào thời kỳ già hóa (khi tỷ lệ NCT chiếm 10% dân số) [1], [2], [25]. Các điều tra dịch tễ học cho thấy rằng trong số NCT thì nữ nhiều hơn nam, tỷ lệ NCT ở nông thôn cao hơn ở thành phố và miền núi, những người cao tuổi nhất phần lớn thuộc về dân tộc ít người [7],[12], [17]. 1.2. SƠ LƯỢC VỀ SỨC KHOẺ, BỆNH TẬT NGƯỜI CAO TUỔI 2.2.1. Sự thoái triển chức năng của người cao tuổi Nhìn chung các cơ quan thực hiện mau già hơn các hệ thống phối hợp chức năng, nhất là các hệ thống đảm bảo sự hằng định nội môi. Dĩ nhiên, vai trò của hệ thống này duy trì ở người cao tuổi khó khăn hơn nhiều so với người trẻ. Ở người cao tuổi, mỗi khi gắng sức, mỗi khi bị stress hoặc tăng gánh chức năng, các hệ thống điều hòa phải mất thời gian dài hơn mới đưa trở lại được về tình trạng ban đầu [9], [14], [21]. Các cơ quan gồm phần lớn các tế bào không đổi mới thì bắt đầu thoái hóa chức năng sớm hơn các cơ quan khác. Ví dụ nhân mắt thoái triển sớm, khả năng điều tiết giảm một cách đều đặn, từ lúc trẻ đến lúc bắt đầu già. Trong cùng cơ thể thì sự lão hóa cũng khác nhau giữa các cơ quan như: 2.2.2. Hệ vận động Trong tất cả các cơ quan thực hiện có lẽ hệ vận động bị rối loạn sớm nhất. Hiện tượng “hao hụt xương” theo Nordin (1971) là 3% cho mỗi thập niên ở nam và 8% ở nữ bắt đầu từ tuổi 40. Còn Courprom và cs. (1973), ước lượng sự hao 8 hụt xương từ 20-80 tuổi cho mỗi thập niên là 1% với nam và 1,3% với nữ (từ 20-50 tuổi), 4,9% từ 50-68 tuổi và 0,68% ở mỗi thập niên sau. Dù ở nhóm cơ nào hay dân tộc nào thì cơ lực tối đa cũng ở lúc 30 tuổi và sau đó cơ lực giảm liên tục [7], [8],[14]. 2.2.3. Hệ hô hấp Các trị số thông khí giảm sớm. Thông khí tối đa phút giảm 40% từ 20-80 tuổi (Pump, 1971). Dung tích sống giảm đều đặn, 17,5cm3 cho 1m2 bề mặt cơ thể, mỗi năm. Ngược lại thể tích cặn tăng 13cm 3/m2 mỗi năm và khoảng chết. 2.2.4. Hệ tuần hoàn Ở người cao tuổi, tính đàn hồi của các động mạch giảm do sự xơ cứng và thường tập trung vào một số động mạch và ngay trên động mạch đó cũng tập trung vào một số vùng nhất định. Động mạch chủ cứng nhiều hơn, mặc dù co giãn và chứa máu nhiều hơn ở người trẻ. Do đó thời kỳ tâm thu thì thể tích máu tống không làm tăng áp lực đáng kể. Cho đến 60 tuổi, sự bù trừ tạm đủ. Nhưng về sau việc tăng thể tích làm tăng cung lượng tim do giãn nở không còn bù trừ được. 2.2.5. Hệ thận -Tiết niệu Song song với việc giảm các đơn vị thận gây giảm mức lọc cầu thận, bài tiết ống thận, khả năng hấp thu ống thận và ngay cả dòng máu qua thận. 2.2.6. Hệ tiêu hóa Giảm tiết dịch vị, dịch tụy giảm nồng độ men tiêu hóa protein. Khả năng hấp thu ở ruột chỉ thay đổi từ 50 tuổi trở lên. Ví dụ hấp thu Canxi chỉ giảm sau 55-60 tuổi ở nữ và 65-70 tuổi ở nam (Bullamore, 1970), hấp thu xyloza chỉ thay đổi trên 80 tuổi (Guth,1968). 2.2.7.Hệ nội tiết Những biến đổi của hệ thống phối hợp chức năng các tuyến nội tiết thể hiện sự thích nghi của cơ thể già đối với việc giảm khối lượng chuyển hoá hoạt động và việc trì trệ của một số quá trình chuyển hoá. Cho đến nay, người ta mới nghiên cứu chủ yếu các biến đổi của nồng độ hormone lưu động hoặc các dị hóa của chúng trong nước tiểu. Sự thay đổi rất khác nhau, ví dụ: 9 - Hormone tăng trưởng không có gì thay đổi về lượng tiết ra trên người cao tuổi với người trẻ. Một số tác giả đã nhận thấy có sự giảm độ nhạy cảm của vùng dưới đồi (Dilman, 1970). - Gonadotrophin thuỳ trước tuyến yên không giảm tiết với tuổi. Trái lại, nồng độ FSH (Follicle stimulating hormone) và LH (Luteinizing hormone) trong huyết thanh còn tăng lên ở thời kỳ mãn kinh và có thể cao hơn ở người phụ nữ đứng tuổi trong nhiều năm, từ 10 đến 20 năm. Ở nam, LH lưu hành cũng cao. - Kích giáp tố: sản xuất TSH (thyroid stimulating hormone) vẫn bình thường ở người cao tuổi. - Nồng độ ACTH (adreno-cortico-trophin hormone) không thay đổi với thời gian. - Insulin: nồng độ insulin không thay đổi đáng kể với tuổi, nhưng hoạt động sinh học thì lại giảm ở người cao tuổi. - Hormone tuyến giáp: không thay đổi với tuổi, nhưng lại thấy có sự trì trệ rõ rệt việc sử dụng thyroxin ở ngoại vi do thoái hoá thyroxin giảm khoảng 50% từ tuổi 20 đến 80 (Gregerman, 1962). - Tuyến thượng thận: hoạt động của vỏ thượng thận ít thay đổi với tuổi. Sản xuất cortisol giảm tỷ lệ với chuyển hoá. Các phản ứng của trục dưới đồi tuyến yên – tuyến thượng thận với thử nghiệm insulin, acginin, metapyron, dexametason không thay đổi với tuổi (Jensen, 1967;Friedman, 1969). Sản xuất androsteron giảm. - Testosteron, estrogen: giảm đều đặn Testosteron và dihydrotestosteron từ 18 đến 80 tuổi. Trong lúc đó nồng độ androsteron lại không thay đổi. Testosteron tự do giảm nhanh sau 50 tuổi do tăng globulin liên kết khi bắt đầu già và giảm hơn 1/2 đến 2/3 so với người trẻ. Ở nữ, nồng độ estrogen trong nước tiểu giảm đều đặn từ 30 đến 60 tuổi. 2.2.8. Hệ thần kinh Hệ thần kinh hoá già rất sớm, ngay cả trước khi kết thúc thời kỳ tăng trưởng. Sự thoái triển nơron không đồng đều, rõ nhất là giảm lớp ngang của đôi 10 gai và tế bào tháp ở vùng trước trán và vùng trên của vỏ não thái dương. Ở vùng dưới vỏ nhất là vùng dưới đồi, có sự ứ đọng lipofuscin, biến đổi thành phần các chất trung gian hoá học và men tham gia vào việc tổng hợp giáng hoá các chất trung gian đó. Tiểu não, nhân trước của đồi thị cũng bị thoái hoá khá sớm. 2.2.9.Các giác quan Sau 30 tuổi mới đo được sự hoá già. Khả năng thích nghi với ánh sáng yếu đi. Sau 40 tuổi, bắt đầu có giảm nhạy cảm của các cảm thụ thể sờ của da bàn tay, giảm nhạy cảm vị giác. 2.2.10.Hoạt động tinh thần Sau 30 tuổi thì trí nhớ, khả năng tiếp thu cái mới, khả năng tư duy trừu tượng đều bị giảm. Nhưng sự luyện tập, kinh nghiệm có thể làm thay đổi các kết quả ở nguời cao tuổi, thậm chí có trường hợp lại tăng lên. 2.2.11.Hệ miễn dịch Hệ này cũng hoá già khá sớm. Hoạt động này bắt đầu giảm khi tuyến ức thoái triển. Tuy số lượng tế bào gốc không thay đổi nhưng khả năng biệt hoá của chúng thành tế bào B và T có nhiều rối loạn . Một số công trình cho rằng tế bào T (là tế bào tạo ra lympho bào diệt, có khả năng đào thải tế bào lạ) có lẽ chịu ảnh hưởng nhiều của tuổi tác. Có tác giả cho rằng do cơ chế tự miễn, nhưng ngay trên người, sự xuất hiện các tự kháng thể không phải luôn luôn có trong quá trình hoá già. 2.2.12. Các dạng lão hoá Một trong những vấn đề cơ bản của lão khoa là căn cứ vào gì để nhận định đây là lão hoá bình thường, sinh lý và kia là bất thường, bệnh lý? Therenti Publie là người đầu tiên đưa ra ý tưởng “già là bệnh”, còn Seneka thì nhấn mạnh tuổi già là “căn bệnh không chữa được”. Halen đã tin tưởng rằng già không phải là bệnh, mà là một trạng thái đặc biệt của cơ thể và đồng thời sức khoẻ cũng không phải đặc trưng cho tuổi trẻ. Ông xếp tuổi già nằm lưng chừng giữa sức khoẻ và bệnh tật. Francis Becon quan niệm tuổi già là bệnh và cần phải điều trị. 11 - Lão hoá tự nhiên (sinh lý, bình thường) Có tốc độ và trình tự nhất định về những biến đổi theo tuổi, tương ứng với các khả năng sinh học, thích nghi điều hoà của quần thể. - Lão hoá chậm Tốc độ của những biến đổi theo tuổi chậm so với toàn bộ quần thể. Biểu hiện tối đa của dạng này là hiện tượng trường thọ. - Lão hoá sớm (bệnh lý, tăng tốc) Sớm có những biến đổi theo tuổi hoặc chúng được biểu hiện rõ nét hơn trong độ tuổi nào đó. Chẩn đoán già sớm không chỉ cho phép đề ra được chương trình tăng tuổi thọ cá thể mà còn kịp sử dụng các biện pháp dự phòng trên cơ sở hiểu biết các cơ chế nội sinh, ngoại sinh. Xác định tuổi sinh học là phương pháp chẩn đoán hội chứng lão hoá sớm. Quá trình già sớm có thể do ảnh hưởng của các yếu tố môi trường bên ngoài (khí hậu, nghề nghiệp, kinh tế - xã hội, môi trường, đời sống hàng ngày...), cũng như có thể do các bệnh khác nhau, nhất là những bệnh mạn tính tác động xấu đến các hệ thống và cơ quan. Loại trừ các yếu tố thúc đẩy già sớm được đưa ra như một nhiệm vụ chiến lược chính của y tế và lão khoa xã hội. Hiện nay các chuyên gia lão khoa thống nhất ý kiến là lão hóa sớm thường được phát hiện ở độ tuổi 40-50 với các biểu hiện không tốt về thể chất, tâm lý xã hội và kinh tế. Lão hóa sớm là một trong những nguyên nhân của mất thích nghi sớm, hạn chế những mối quan tâm, không thỏa mãn cuộc sống, nhân cách bất ổn. Trong giai đoạn hiện nay nhiệm vụ của lão khoa không phải là kéo dài tuổi thọ bằng bất kỳ biện pháp nào mà là học cách phát hiện kịp thời những dấu hiệu chủ đạo của lão hóa và nhất là phải kiểm soát sự tiến triển của chúng, góp phần cải thiện vị thế của người cao tuổi trong gia đình và xã hội. [7], [8],[14], [21], [27]. 12 1.3. CHĂM SÓC SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI CAO TUỔI 1.3.1. Sức khỏe và ăn uống Số người cao tuổi ngày càng tăng, tuổi thọ ngày càng cao, điều ấy nói lên những thành công to lớn đã đạt được trong lĩnh vực sinh, y học và các khoa học khác. 1.3.2. Nhà ở và môi trường Nhà ở và môi trường ảnh hưởng sâu sắc đến tuổi thọ, sức khỏe chất lượng sống của mỗi người, đặc biệt là người cao tuổi. Người cao tuổi có những khó khăn rất lớn trong việc đi lại và nhìn chung, họ thiếu phương tiện. Thực tế đó lại càng ảnh hưởng đến tâm trạng cho mình bị tách rời khỏi xã hội và vì vậy dễ mặc cảm về sự cô đơn lúc cuối đời. Nên tạo điều kiện cho người cao tuổi có thể sống ở nhà của mình càng lâu càng tốt. Trong chính sách nhà cửa nên lưu ý đặc biệt đến những người nghèo khổ, thiếu thốn, có khó khăn lớn về chỗ ở, gia đình đông. - Trong việc bố trí nhà ở, mỗi khi có điều kiện nên tạo mọi thuận lợi để người cao tuổi có thể tiếp xúc được với xã hội, tạo cho họ điều kiện đi lại dễ dàng, dùng những phương tiện, biện pháp an toàn nhất trong giao thông [1]. 1.3.3. Gia đình Do gia đình được coi là tế bào cơ sở của xã hội nên cần bảo vệ và củng cố nó tùy theo hoàn cảnh từng bước, nhằm làm cho việc chăm sóc người cao tuổi ở đó được đảm bảo hơn. Cần thắt chặt mối quan hệ giữa các thế hệ với nhau, giữa các thành viên trong gia đình. - Cần có sự ủng hộ mạnh mẽ của toàn thể xã hội, để cho gia đình có thể tiếp tục việc chăm sóc người cao tuổi và phải có kế hoạch cụ thể giúp đỡ các gia đình đó. - Cần đặc biệt quan tâm đến số phận phụ nữ nhất là với những người góa phụ. Bằng mọi cách khuyến khích con cháu chăm sóc bố mẹ, ông bà già; Vai trò của giáo dục rất quan trọng bên cạnh những quy định của luật pháp. 13 1.3.4. Bảo trợ xã hội Các tổ chức bảo trợ xã hội là những cơ quan thực hiện chính sách của nhà nước, nhằm làm cho người cao tuổi có vị trí xứng đáng trong xã hội. Cần bảo đảm cho người cao tuổi được độc lập trong gia đình đồng thời vẫn là những công dân hoạt động, hữu ích trong cộng đồng. 1.3.5. Bảo hiểm, trợ cấp nhằm chăm sóc sức khỏe người cao tuổi Hết tuổi lao động là bước vào tuổi thứ ba. Những người cao tuổi thuộc lứa tuổi thứ ba đa số còn sức khỏe nhưng cũng không ai đảm bảo là trong quãng đời còn lại họ không có những tai nạn rủi ro, bệnh tật cần chữa chạy. Vì thế đóng góp một số tiền trong lúc mình còn sung sức, ở tuổi lao động, hay trong lúc mình còn khỏe mạnh, để đến khi cần có thể dùng vào những yêu cầu đột xuất về sức khỏe là việc hợp lý. Trên nét đại cương bảo hiểm xã hội và đặc biệt bảo hiểm ở lứa tuổi già, với trọng tâm là bảo hiểm y tế lúc tuổi già, có ý nghĩa như vậy. Nó là một nhân tố không thể thiếu được trong hệ thống an ninh. Có nó mọi người đều sống an tâm hơn vì cuộc sống được đảm bảo hơn, nhất là trong giai đoạn cuối của cuộc đời đầy bất trắc. Như trên đã nêu, lương hưu không thể đủ, trợ cấp tuổi già còn ít hơn nữa, hệ thống dịch vụ tuy cần nhưng chỉ đáp ứng được phần nào trong cuộc sống bình thường. Nếu có sự cố bất thường nhất là về phương diện sức khỏe, thì rõ ràng bảo hiểm xã hội nhất là bảo hiểm y tế có vị trí không thể thiếu được. Chăm lo đầu tư cho tổ chức này là một trong những việc cần làm sớm. Lúc đầu có thể còn chưa quan tâm nhưng qua thực tế, sẽ điều chỉnh dần. Chế độ bảo hiểm sẽ góp phần đáng kể trong hệ thống an sinh rất cần ở lứa tuổi già [4], [5], [6], [7], [14]. 1.3.6. Lợi tức và công ăn việc làm Đa số các nước phát triển có hệ thống bảo trợ toàn xã hội dưới dạng bảo hiểm xã hội. Ở các nước đang phát triển, người dân phần lớn chỉ có mức sống tối thiểu nên việc bảo hiểm xã hội khó thực hiện và đó là mối lo của mọi độ tuổi. Về phương diện lợi tức và công ăn việc làm đối với người cao tuổi phụ nữ lại càng đáng lo ngại hơn. 14 - Thành lập và củng cố hệ thống bảo hiểm xã hội cho người cao tuổi. Nếu không thực hiện được như vậy thì cũng nên giúp đỡ vật chất trực tiếp cho các gia đình phải nuôi người cao tuổi, các trại dưỡng lão. Đảm bảo lợi tức do gửi tiết kiệm cho người cao tuổi, bù lỗ những khi có lạm phát. Khi quyết định cho nghỉ hưu phải nghiên cứu đảm bảo cuộc sống cho những năm tháng còn lại. Đảm bảo cho người cao tuổi có ý muốn làm việc để cống hiến cho xã hội, phải được làm việc, tránh thành kiến về tuổi tác. Vấn đề chính là bố trí những công tác thích hợp với sức khoẻ và kinh nghiệm sẵn có. - Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi để người cao tuổi có thể tham gia và hoạt động kinh tế, phát triển sản xuất. - Những người cao tuổi khi còn lao động, cần phải được đảm bảo điều kiện làm việc tốt hơn, lưu ý phòng tránh mọi tai nạn lao động dễ xảy ra ở người cao tuổi. Các điều kiện làm việc môi trường, giờ giấc tổ chức lao động, cần chú ý thích đáng đến đặc điểm của tuổi tác. - Tìm mọi cách để chuyển từ thời kỳ hoạt động sang thời kỳ nghỉ hưu. Quy định tuổi nghỉ hưu cũng phải mềm dẻo tùy từng trường hợp, từng hoàn cảnh. Khuyến khích chuẩn bị mở các lớp dạy cho tuổi hưu, giảm nhẹ công việc trong những năm trước khi về hưu, cải thiện các điều kiện, môi trường, tổ chức lao động ở thời kỳ cuối này; có thể giảm dần giờ làm việc, tăng giờ nghỉ ngơi, giải trí [7], [14]. 1.3.7. Công tác giáo dục Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện nay tạo nên một sự bùng nổ về kiến thức và thông tin. Quy mô rộng lớn và tính chất liên tục của cuộc cách mạng đó dẫn đến những thay đổi ngày càng to lớn và sâu sắc trong xã hội. Điều đó nói lên sự cần thiết phải không ngừng nâng cấp trình độ của mọi người kể cả người cao tuổi. Mặt khác, người cao tuổi cũng có những kinh nghiệm nhất định qua cuộc sống lâu năm của họ. Vì vậy việc phổ biến các kinh nghiệm cho thế hệ sau là rất cần thiết. Công tác giáo dục đảm bảo cho tính liên tục giữa các thế hệ. - Mục tiêu của giáo dục là phải làm cho mọi người đánh giá đúng vai trò 15 và vị trí của người cao tuổi trong xã hội, duy trì và phát triển những phong tục tập quán tốt đẹp quý trọng của người cao tuổi. 1.3.8. Bồi dưỡng sức khỏe và phòng bệnh 1.3.8.1.Bồi dưỡng sức khoẻ Nội dung bồi dưỡng sức khỏe, phòng bệnh, phát hiện và xử trí bệnh sớm cần được hướng dẫn chu đáo cho mọi người biết, trước nhất là cho cán bộ y tế vì họ phải là cán bộ tư vấn trong lĩnh vực này. 1.3.8.2. Phòng bệnh Phòng bệnh hơn chữa bệnh, chân lý này ai cũng biết. Đối với người cao tuổi người ta chú trọng trước hết đến ba vấn đề: một là đề phòng viêm phổi, hai là đề phòng ung thư và ba là đề phòng gãy xương. Viêm phổi rất hay thường gặp ở người cao tuổi và bao giờ cũng có tiên lượng xấu. Cho dù mắc bệnh gì, biến chứng hay gặp nhất dẫn đến tử vong ở người cao tuổi là viêm phổi. Phòng viêm phổi bao gồm vacxin chống cúm, tránh bị nhiễm lạnh, nhất là vào mùa Đông ẩm ướt, tránh nằm lâu. Bệnh nhân già bị viêm phổi có thể không sốt, bạch cầu không cao, ho ít do sức đề kháng kém. Bệnh lại hay chuyển nặng nhanh chóng. Chữa loại bệnh này phải cho kháng sinh mạnh. Bệnh ung thư cũng rất hay gặp ở người cao tuổi là một trong những nguyên nhân tử vong chính. Cần khuyên nhủ mọi người bỏ không hút thuốc lá nữa. Tất cả các thống kê đều chứng minh giữa hút thuốc lá nhiều và dài ngày với ung thư phổi có mối liên quan. Đối với gãy xương, đây là tai nạn hay gặp ở người cao tuổi. Nguyên nhân là do ngã. Yếu tố làm cho dễ gãy là do xương đã bị xốp, loãng xương, mất nhiều chất vôi vốn tạo nên độ cứng của xương. Hướng phòng bệnh phải là làm cho mọi người cao tuổi tránh bị ngã. Phải phòng và chữa loãng xương như đã nêu ở trên. Một trong những biện pháp chống biến chứng của nhiều bệnh ở người cao tuổi là định kỳ khám bệnh, khi phát hiện bệnh nhất là ở giai đoạn rất sớm thì nên 16 có kế hoạch phòng chống ngay. Các cuộc khám bệnh kiểm tra này còn sử dụng cả lâm sàng lẫn cận lâm sàng [1], [14], [17], [32]. 1.4. SƠ LƯỢC ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU VỀ NGƯỜI CAO TUỔI TẠI PHƯỜNG PHÚ NHUẬN THÀNH PHỐ HUẾ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ Phú Nhuận là một phường thuộc Trung tâm thành phố Huế. Phường được thành lập vào tháng 3 năm 1996 sau khi chia tách từ phường Vĩnh Lợi cũ. Vị trí: - Phía Bắc giáp sông Hương - Phía Đông giáp phường Phú Hội - Phía Nam giáp sông An Cựu - Phía Tây giáp phường Vĩnh Ninh Diện tích: 72 ha Khu vực dân cư, tổ dân phố: Địa bàn phường Phú Nhuận có 6 khu vực 12 tổ với dân số 1606 hộ, 10.432 nhân khẩu. Ngành nghề chính của phường: Đa số lao động phổ thông và buôn bán nhỏ, làm các ngành nghề truyền thống như: đúc hồ lô, thợ nề, xe thồ… Trạm Y tế: Có 1 bác sĩ, 2 y sĩ, 1 nữ hộ sinh, 1 dược tá và 1 công tác dân số 17 Bản đồ Phường Phú Nhuận Tình hình người từ 60 tuổi trở lên tại phường Phú Nhuận, thành phố Huế. Theo báo cáo của Hội người cao tuổi phường Phú Nhuận cho thấy tổng số người cao tuổi từ 60 tuổi trở lên gồm có 580 người được phân theo các tổ như sau: Tổ Số hộ Tổ 1 Tổ 2 Tổ 3 Tổ 4 Tổ 5 Tổ 6 Tổng 110 100 141 148 113 150 762 Số NCT 27 33 41 64 24 71 260 Tổ Số hộ Tổ 7 Tổ 8 Tổ 9 Tổ 10 Tổ 11 Tổ 12 Tổng 146 117 100 144 120 217 844 Số NCT 56 41 29 62 58 74 320 Tổng số hộ 256 217 241 292 233 367 1606 Tổng số NCT 83 74 70 126 82 145 580 18 Chương 2 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 2.1.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là những người từ 60 tuổi trở lên đang sinh sống trên địa bàn phường Phú Nhuận, thành phố Huế. 2.2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu - Địa điểm: Phường Phú Nhuận – Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế - Thời gian nghiên cứu từ tháng 04 năm 2010 đến tháng 05 năm 2011. 2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Phương pháp nghiên cứu cắt ngang mô tả 2.2.1. Cỡ mẫu 2 n  Zα 2 p(1  p) c2 [14] Trong đó: - n: là cỡ mẫu nhỏ nhất hợp lý; - Z 2 : là trị số tùy thuộc vào mức tin cậy mong muốn của ước lượng. Mức tin cậy mong muốn trong nghiên cứu này là 95% nên Z 2 = 1,96 - p: Theo kết quả nghiên cứu của Trần Thị Vỹ tại huyện Hương Thủy thừa Thiên Huế nhu cầu khám chữa bệnh NCT là 71,83% [31], nên chúng tôi ước tính p = 0,7. - c: mức chính xác của nghiên cứu, là sự khác biệt giữa tỷ lệ p thu được trên mẫu và tỷ lệ p thật trong quần thể Chọn mức chính xác là 5% nên c = 0,05. 19 Do đó, ta có cỡ mẫu n 1,962 0,7(1  0,7) 0,052 ≈ 323 Thực tế chúng tôi đã điều tra được 350 đối tượng người cao tuổi. 2.2.2. Phương pháp chọn mẫu Chọn mẫu theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn. - Chọn đối tượng người cao tuổi từ 60 tuổi trở lên có khả năng trao đổi, trả lời các câu hỏi. - Cách tiến hành: + Phường Phú nhuận có 580 người từ 60 tuổi trở lên, lập danh sách người cao tuổi theo tổ dân phố và đánh số thứ tự từ 001 đến 580. Dùng bảng số ngẫu nhiên để chọn đối tượng nghiên cứu theo danh sách. + Chọn ngẫu nhiên một số trong bảng số ngẫu nhiên sao cho số đó nhỏ hơn hoặc bằng 580. Có thể quy ước sẽ lấy số ngẫu nhiên gồm 3 chữ số liền nhau về phía bên phải con số “vào bảng” rồi lần lượt đi xuống phía dưới chẳng hạn, nếu gặp số nào bằng và nhỏ hơn 580 thì số đó được chọn vào mẫu, tiếp tục như vậy đến bao giờ đủ được số ngẫu nhiên bằng với số cỡ mẫu đã định, cụ thể như sau. Tổ dân phố 1: 14 người Tổ dân phố 7: 34 người Tổ dân phố 2: 25 người Tổ dân phố 8: 30 người Tổ dân phố 3: 25 người Tổ dân phố 9: 20 người Tổ dân phố 4: 36 người Tổ dân phố 10: 42 người Tổ dân phố 5: 10 người Tổ dân phố 11: 38 người Tổ dân phố 6: 42 người 2.2.3. Nội dung nghiên cứu Tổ dân phố 12: 34 người - Tình hình mắc bệnh của người cao tuổi bao gồm : + Bệnh mạn tính + Loại bệnh mạn tính + Loại bệnh thông thường 20 - Xác định nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người cao tuổi tại phường Phú Nhuận bao gồm : + Tỷ lệ mua bán bảo hiểm y tế + Hình thức bán bảo hiểm y tế + Đánh giá khám chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế + Lý do khám chữa bệnh không tốt + Nơi khám bệnh + Lý do không thuận lợi + Đánh giá chất lượng khám bệnh + Nhu cầu chăm sóc sức khỏe bệnh tật + Biện pháp để nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe 2.2.4. Thu thập và xử lý số liệu: * Thu thập số liệu Bước 1: Chuẩn bị cho công tác điều tra - Tìm tài liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu - Soạn bộ câu hỏi: gồm có 3 phần. + Phần 1: Tìm hiểu đặc tính chung của đối tượng nghiên cứu (từ câu 1 đến câu 8). Giới, trình độ học vấn, thu nhập, số lượng thành viên trong gia đình, điều kiện kinh tế.. + Phần 2: Khảo sát tình hình bị mắc bệnh của người cao tuổi: bệnh mạn tính, bệnh thông thường (từ câu 1 câu 3). + Phần 3: Xác định nhu cầu chăm sóc sức khỏe (từ câu 1 đến câu 15). Bước 2: Các biến số cần thu thập : - Giới tính : Nam, nữ - Tuổi : Theo Tổ chức Y tế thế giới, độ tuổi người cao tuổi được phân chia như sau :
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất