Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khả năng tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tài chính của các doanh nghiệp ngoài quốc...

Tài liệu Khả năng tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tài chính của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh

.DOCX
150
3
94

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ---------***--------- NGUYỄN THỊ THANH HẢI KHẢ NĂNG TIẾP CẬN, SỬ DỤNG CÁC DỊCH VỤ TÀI CHÍNH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH Chuyên ngành: Kinh tế chính trị Mã số LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN THỊ THÁI HÀ HÀ NỘI - 2008 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT DNNQD Doanh nghiệp ngoài quốc doanh ĐTMH Đầu tư mạo hiểm HTX Hợp tác xã IPO Phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu NDT Nhân dân tệ NHNN Ngân hàng Nhà nước NHTM Ngân hàng thương mại NHTW Ngân hàng trung ương TCTD Tổ chức tín dụng TTCK Thị trường chứng khoán USD Đô la Mỹ VND Việt Nam đồng WB Ngân hàng thế giới WTO Tổ chức thương mại thế giới XHCN Xã hội chủ nghĩa 1 MỤC LỤC CHƢƠNG 1: 1.1 1.1.1 1.1.2 1.2 1.2.1 1.2.2 1.2.3 1.3 1.3.1 1.3.2 1.3.3 1.3.4 CHƢƠNG 2: 2.1 2.1.1 2.1.2 2.1.3 2.1.4 2.2 2.2.1 2.2.2 2.2.3 CHƢƠNG 3: 3.1 3.2 3.2.1 3.2.2 4 LỜI MỞ ĐẦU 1. SỰ CẦN THIẾT NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI Kể từ khi Luật doanh nghiệp được ban hành, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Việt Nam đã có sự phát triển nhanh chóng. Các DNNQD đóng vai trò ngày càng quan trọng và trở thành động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, sự phát triển của các DNNQD còn gặp không ít khó khăn, trong đó nổi lên vấn đề tiếp cận, sử dụng dịch vụ tài chính của các DNNQD Việt Nam còn yếu và gặp một số rào cản so với các DNNN. Các dịch vụ tài chính có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các hoạt động sản xuất – kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung, DNNQD nói riêng: cung cấp vốn, nâng cao hiệu quả quản lý tài chính, phân tán và giảm thiểu rủi ro… Vì vậy, khả năng tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tài chính còn hạn chế đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của các DNNQD ở Việt Nam. Điều này không chỉ có nguyên nhân từ phía các tổ chức cung cấp dịch vụ, mà còn do những yếu kém trong hoạt động của các DNNQD và các yếu tố thuộc về môi trường kinh doanh. Do đó, việc nghiên cứu, khảo sát nhằm đánh giá khả năng, tìm ra những hạn chế và nguyên nhân, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao khả năng tiếp cận, sử dụng dịch vụ tài chính của các DNNQD là cần thiết và rất có ý nghĩa thực tiễn. Việt Nam gia nhập WTO đã đem đến cơ hội hợp tác cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, trong đó có DNNQD. Cơ hội nhiều nhưng thách thức cũng nhiều, các DNNQD có khả năng vượt qua những thách thức đó không khi mà các doanh nghiệp này còn gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là khó khăn trong việc tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tài chính? Câu hỏi này được tháo gỡ dần trong luận văn thạc sỹ: “Khả năng tiếp 5 cận, sử dụng các dịch vụ tài chính của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh”. 6 2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Đã có những nghiên cứu về các dịch vụ tài chính, nghiên cứu về hoạt động của các DNNQD, cụ thể là: Luận án tiến sỹ khoa học kinh tế của tác giả Nguyễn Xuân Sinh đề cập đến “Vấn đề tín dụng ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh”. Luận án đã phân tích thực trạng khả năng tiếp cận, sử dụng dịch vụ ngân hàng đối với các DNNQD. Từ đó đi đến những giải pháp giúp các DNNQD tiếp cận, sử dụng dịch vụ ngân hàng đạt hiệu quả hơn. Tuy nhiên hệ thống các giải pháp mà luận án đưa ra chỉ đứng trên góc độ kinh tế, không mang tính chất kinh tế chính trị. Ngoài ra sự phát triển của các DNNQD không chỉ phụ thuộc vào dịch vụ ngân hàng mà còn phụ thuộc các dịch vụ khác như dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ chứng khoán. Do đó, khi nghiên cứu một loại hình dịch vụ ngân hàng, hiệu quả đưa lại cho các DNNQD là chưa cao. Khoảng thời gian mà luận án tiến sỹ của tác giả Nguyễn Xuân Sinh nghiên cứu là từ năm 2000 – 2004 nên số liệu đã không còn cập nhật với tình hình thực tế hiện nay. Đặc biệt, sự kiện Việt Nam chính thức ra nhập WTO đã đem đến nhiều cơ hội và thách thức cho toàn bộ nền kinh tế nói chung, trong đó bao gồm cả các DNNQD. Luận án tiến sỹ của tác giả Nguyễn Xuân Sinh được nghiên cứu trước thời điểm này nên chưa đề cập đến sự kiện có ý nghĩa quan trọng, đánh dấu một bước ngoặt lớn trong nền kinh tế của Việt Nam. Nền kinh tế càng phát triển thì những rủi ro tiềm tàng đối với các doanh nghiệp càng cao, đặc biệt là những DNNQD. Do đó, các doanh nghiệp này ngày càng quan tâm hơn đến biện pháp phòng tránh rủi ro, một trong những biện pháp hữu hiệu là mua bảo hiểm. Luận văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Thị Huyền “Những giải pháp chủ yếu để mở rộng và nâng cao hiệu quả dịch vụ bảo hiểm đối với các DNNQD”nghiên cứu dịch vụ bảo hiểm đứng trên góc độ các công ty bảo 7 hiểm tác động đến các doanh nghiệp chứ không quan tâm đến việc các DNNQD tiếp cận, sử dụng dịch vụ bảo hiểm như thế nào. Giống như luận án tiến sỹ trên, luận văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Thị Huyền cũng chỉ mới đề cập đến một loại dịch vụ, đó là bảo hiểm, hiệu quả do vậy cũng chưa cao đối với các DNNQD. Đồng thời, trong số các giải pháp tác giả đưa ra, nhóm giải pháp mang tính chất kinh tế chính trị cũng chưa được đề cập đến. Bên cạnh ngân hàng và bảo hiểm, chứng khoán là dịch vụ khá mới mẻ, được rất nhiều doanh nghiệp quan tâm và DNNQD cũng không phải ngoại lệ. Vì vậy, bên cạnh việc nghiên cứu dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm, luận văn thạc sỹ của tôi còn đề cập đến dịch vụ chứng khoán. Khi nghiên cứu đồng bộ cả ba loại hình dịch vụ này chắc chắn hiệu quả đem lại sẽ cao hơn rất nhiều. Một điểm cần nhấn mạnh trong luận văn thạc sỹ này, là một học viên chuyên ngành kinh tế chính trị , tôi rất quan tâm đến những vấn đề mang tính chất kinh tế chính trị: hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách, cơ quan quản lý nhà nước… 3. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU  Mục tiêu nghiên cứu: Từ những vấn đề lý luận chung về dịch vụ tài chính cho các DNNQD, luận văn phân tích thực trạng tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tài chính của các DNNQD ở Việt Nam hiện nay. Từ đó, đưa ra đưa ra quan điểm và giải pháp giúp các DNNQD tiếp cận, sử dụng dịch vụ tài chính đạt hiệu quả cao.  Nhiệm vụ nghiên cứu: - Làm rõ khả năng tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tài chính của các DNNQD ở Việt Nam hiện nay. - Nhận diện các yếu tố hạn chế khả năng tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tài chính của các DNNQD ở Việt Nam hiện nay. 8 - Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao khả năng tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tài chính của các DNNQD ở Việt Nam trong thời gian tới. 4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU  Về mặt không gian: Đối tượng nghiên cứu là khả năng tiếp cận, sử dụng một số dịch vụ tài chính của các DNNQD ở Việt Nam hiện nay. Luận văn tập trung nghiên cứu các loại hình dịch vụ tài chính sau: Dịch vụ ngân hàng, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ chứng khoán  Về mặt thời gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng năng lực tiếp cận, sử dụng các dịch vụ ngân hàng, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ chứng khoán của các DNNQD từ năm 2000 đến nay. 5. CÁCH TIẾP CÂN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Cách tiếp cận: so sánh, hệ thống, cấu trúc…  Phƣơng pháp nghiên cứu: Ngoài các phương pháp truyền thống, luận văn có sử dụng kết quả của một số chương trình khảo sát có liên quan đến lĩnh vực dịch vụ tài chính. 6. - DỰ KIẾN NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN Nêu bật được cơ sở lý luận và thực tế về khả năng tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tài chính của các DNNQD ở Việt Nam hiện nay. - Phân tích được các yếu tố hạn chế khả năng tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tài chính của các DNNQD ở Việt Nam hiện nay. - Đề xuất các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao khả năng tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tài chính của các DNNQD ở Việt Nam trong thời gian tới. 9 10 7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN Ngoài các phần: danh mục các từ viết tắt, mục lục, lời mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu làm 3 chương: - Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tế về khả năng tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tài chính của các DNNQD ở Việt Nam hiện nay. - Chương 2: Thực trạng tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tài chính của các DNNQD ở Việt Nam. - Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao khả năng tiếp cận, sử dụng dịch vụ tài chính của các DNNQD trong thời gian tới. 11 CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TẾ VỀ KHẢ NĂNG TIẾP CẬN, SỬ DỤNG CÁC DỊCH VỤ TÀI CHÍNH CỦA CÁC DNNQD 1.1. KHÁI QUÁT VỀ DỊCH VỤ TÀI CHÍNH 1.1.1. Một số vấn đề cơ bản về dịch vụ tài chính Dịch vụ tài chính là một khái niệm tương đối mới được WTO đưa ra nhằm thúc đẩy hoạt động thương mại dịch vụ trên toàn cầu. Là một khái niệm mới, nhưng khái niệm về dịch vụ tài chính đã được nghiên cứu khá nhiều. Do tính chất quan trọng của dịch vụ tài chính đối với phát triển kinh tế, nhất là trong bối cảnh mở cửa và hội nhập hiện nay, cần phải có cách hiểu chung và thống nhất để thuận tiện cho việc phát triển lĩnh vực này tại mỗi nước và trên toàn thế giới. Chính vì vậy WTO đã thống nhất đưa ra khái niệm về dịch vụ tài chính nhằm hình thành các quy tắc ứng xử giữa các nước thành viên WTO trong hoạt động thương mại dịch vụ như sau: Một dịch vụ tài chính là bất kỳ dịch vụ nào có tính chất tài chính, được một nhà cung cấp dịch vụ tài chính cung cấp. Dịch vụ tài chính bao gồm mọi dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ liên quan tới bảo hiểm, mọi dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính khác (ngoại trừ bảo hiểm). Khái niệm trên được WTO đưa ra năm 1995 trong GATS nhằm từng bước tự do hoá thương mại về dịch vụ. Theo GATS dịch vụ tài chính bao gồm: 1.Bảo hiểm gốc, tái bảo hiểm, môi giới bảo hiểm và các dịch vụ hỗ trợ bảo hiểm khác; 12 2.Dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác, kể cả các dịch vụ liên quan đến chứng khoán, cung cấp thông tin tài chính và quản lý tài sản. Theo quan niệm trên của WTO, các loại dịch vụ tài chính được chia thành các loại cơ bản sau: - Dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính khác, bao gồm: Dịch vụ tiết kiệm (tiền gửi tiết kiệm, tài khoản tiết kiệm, tín phiếu, trái phiếu); Cho vay (tín dụng, thuê mua tài chính, cầm cố thế chấp, cho vay ký quỹ, bảo lãnh thanh toán, chiết khấu giấy tờ có giá); Thanh toán (thanh toán, chuyển tiền, thẻ tín dụng, thẻ thanh toán, séc du lịch và hối phiếu…); Giao dịch (thị trường tiền tệ, ngoại hối); Môi giới và đầu tư (môi giới đầu tư chứng khoán…); Tư vấn tài chính. - Dịch vụ bảo hiểm và các dịch vụ liên quan đến bảo hiểm bao gồm: Các loại hình bảo hiểm (bao gồm cả đồng bảo hiểm và tái bảo hiểm) về trách nhiệm dân sự, tài sản, con người…; Sử dụng quỹ bảo hiểm (đầu tư nguồn vốn bảo hiểm dưới các hình thức khác nhau như đầu tư chứng khoán, góp vốn…) và các dịch vụ phụ trợ liên quan đến bảo hiểm như dịch vụ tư vấn, dịch vụ đánh giá xác suất rủi ro, khiếu nại, đại lý bảo hiểm… Bên cạnh các loại dịch vụ tài chính nêu trên, có một số loại dịch vụ kinh doanh có liên quan chặt chẽ và mật thiết đến dịch vụ tài chính, đó là dịch vụ kế toán. Dịch vụ kế toán bao gồm các loại hình dịch vụ cơ bản như tư vấn thuế, tư vấn kế toán và kiểm toán… Quá trình hoạt dộng của các dịch vụ kế toán, kiểm toán diễn ra song song và có mối quan hệ chặt chẽ với các dịch vụ tài chính. Do vậy người ta xếp các loại dịch vụ này vào loại hình dịch vụ tài chính. 13 Ở Việt Nam hiện nay, các dịch vụ tài chính bao gồm: dịch vụ ngân hàng, dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ chứng khoán. (Dịch vụ kế toán không đề cập đến trong luận văn này ) 1.1.1.1. Dịch vụ ngân hàng Dịch vụ ngân hàng là loại hình dịch vụ tài chính xuất hiện sớm nhất và đa dạng nhất. Ngân hàng là tổ chức tạo lập và cung ứng một số loại hình dịch vụ cho các chủ thể trong nền kinh tế. Trong các loại dịch vụ ngân hàng, bên cạnh một số loại hình dịch vụ truyền thống, gần đây, đã xuất hiện một số loại hình dịch vụ mới. Các loại hình dịch vụ ngân hàng bao gồm: Nhận tiền gửi: Các ngân hàng nhận các khoản tiết kiệm của khách hàng, dưới dạng quĩ sinh lời được gửi tại ngân hàng với những thời hạn và lãi suất khác nhau. Cung cấp các tài khoản giao dịch: Ngân hàng cung cấp cho khách hàng dịch vụ mở tài khoản tiền gửi giao dịch, cho phép người mở tài khoản viết séc thanh toán cho việc mua hàng hoá và dịch vụ. Quản lý tiền mặt: Ngân hàng cung ứng dịch vụ cho các công ty kinh doanh trong việc quản lý các khoản thu và chi, tiến hành việc đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lời và tín dụng ngắn hạn đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán. Trao đổi ngoại tệ (dịch vụ ngoại hối): Đây là loại hình dịch vụ ngân hàng xuất hiện sớm nhất. Dịch vụ về tín dụng: Đây là loại hình dịch vụ rất đa dạng, bao gồm các loại hình cơ bản như chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại, cho vay tài trợ dự án, cho vay tiêu dùng… 14 Dịch vụ uỷ thác: Các ngân hàng thực hiện việc quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính cho các cá nhân và doanh nghiệp. Cho thuê tài chính: Đây là dịch vụ khá phổ biến, ngân hàng cho khách hàng là doanh nghiệp lựa chọn mua các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó, ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê. Khách hàng phải trả tiền thuê thiết bị, chịu chi sửa chữa và thuế. Tư vấn tài chính: Ngân hàng cung cấp cho khách hàng dịch vụ tư vấn về tiết kiệm và đầu tư. Bán các dịch vụ bảo hiểm: Các ngân hàng thực hiện việc bán bảo hiểm tín dụng cho khách hàng nhằm đảm bảo việc hoàn trả của khách hàng khi họ rơi vào tình trạng không thể trả được nợ. Môi giới đầu tư chứng khoán: Ngân hàng cung cấp cho khách hàng của họ cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các loại chứng khoản khác mà không cần phải thông qua các nhà môi giới chứng khoán khác. Dịch vụ quỹ tương hỗ và trợ cấp: Hợp đồng trợ cấp là kế hoạch tiết kiệm dài hạn cam kết thanh toán một khoản tiền mặt hàng năm cho khách hàng bắt đầu tư một ngày nhất định trong tương lai (ví dụ ngày nghỉ hưu). Dịch vụ qũy tương hỗ chính là việc cung cấp các chương trình đầu tư một cách chuyên nghiệp nhằm vào việc mua cổ phiếu, trái phiếu hay chứng khoán phù hợp với mục tiêu của quỹ (tối đa hoá thu nhập hoặc tăng giá trị của vốn). 1.1.1.2.Dịch vụ bảo hiểm Theo các phân ngành về dịch vụ của WTO, dịch vụ bảo hiểm và liên quan đến bảo hiểm bao gồm: - Bảo hiểm nhân thọ, tai nạn, và sức khoẻ; - Bảo hiểm phi nhân thọ; 15 - Tái bảo hiểm và nhượng tái bảo hiểm; lý). Dịch vụ hỗ trợ bảo hiểm (bao gồm các dịchvụ môi giới và đại Về các loại hình dịch vụ bảo hiểm, có thể phân chia thành bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ: Bảo hiểm nhân thọ: là loại nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống hoặc chết, bao gồm các loại hình: -Bảo hiểm sinh kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống đến một thời hạn nhất định, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng, nếu người được bảo hiểm vẫn sống đến thời hạn thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm. - Bảo hiểm tử kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng, nếu người được bảo hiểm chết trong thời hạn được thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm. - Bảo hiểm hỗn hợp là nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp bảo hiểm sinh kỳ và bảo hiểm tử kỳ. - Bảo hiểm trọn đời là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm chết vào bất kỳ thời điểm nào trong cuộc đời của người đó. - Bảo hiểm trả tiền định kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống đến một thời hạn nhất định; sau thời hạn đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm định kỳ cho người thụ hưởng theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Bảo hiểm phi nhân thọ: là loại nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, trách nhiệm dân sự và các nghiệp vụ bảo hiểm khác không thuộc bảo hiểm nhân thọ. 16 1.1.1.3.Dịch vụ chứng khoán Khi nói đến hoạt động của thị trường dịch vụ chứng khoán, người ta đề cập đến TTCK và nhất là vai trò của các định chế tài chính trung gian tham gia hoạt động kinh doanh trên TTCK. Các định chế này có thể là các công ty môi giới và kinh doanh chứng khoán giữ vai trò cầu nối trung gian giữa bên cầu vốn và bên cho vay vốn, tham gia vào quá trình huy động các nguồn lực tài chính trên thị trường tài chính để đáp ứng các nhu cầu về tài trợ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và các tổ chức Chính phủ. Dịch vụ trên thị trƣờng sơ cấp Bảo lãnh phát hành: Bảo lãnh phát hành là hoạt động hỗ trợ cho công ty phát hành hoặc chủ sở hữu chứng khoán trong việc phân phối chứng khoán thông qua thoả thuận mua đến bán lại. Đại lý phân phối chứng khoán cho các tổ chức phát hành: Khi các định chế tài chính nhận làm đại lý phát hành cổ phiếu cho doanh nghiệp, họ sẽ bán cổ phiếu phát hành theo giá định sẵn và hưởng hoa hồng phát hành theo doanh số bán. Dịch vụ trên thị trƣờng thứ cấp Môi giới chứng khoán: Môi giới chứng khoán ở đây được hiểu theo nghĩa rộng là hoạt động thực hiện các trung gian hoặc đại diện mua hoặc bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Tư vấn đầu tư chứng khoán: Dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán là hoạt động tư vấn liên quan đến lĩnh vực đầu tư chứng khoán; hoặc công bố và phát hành các báo cáo phân tích có liên quan đến chứng khoán. Dịch vụ ngân quỹ: Ngân hàng hay công ty tài chính sẽ mở cho công ty tài khoản để theo dõi việc bán cổ phần cho công chúng. Với nghiệp vụ chuyên 17 môn của mình, các ngân hàng, công ty tài chính sẽ làm cho việc bù trừ và thanh toán cổ phiếu được thực hiện nhanh chóng, dễ dàng và hiệu quả hơn. Quản lý danh mục đầu tư chứng khoán: Dịch vụ quản lý danh mục đầu tư chứng khoán là hoạt động quản lý vốn của khách hàng thông qua việc mua, bán và giữ các chứng khoán vì quyền lợi của khách hàng theo hợp đồng bằng văn bản với khách hàng. Công ty phải nghiêm ngặt tách rời hoạt động này với hoạt động tự doanh và hoạt động môi giới để bảo đảm tránh mâu thuẫn về lợi ích. Lưu ký và đăng ký chứng khoán: Dịch vụ lưu ký chứng khoán là việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng và giúp khách hàng thực hiện các quyền của mình đối với chứng khoán, nhằm tránh rủi ro, hư hỏng, mất mát, giả tạo… Dịch vụ dăng ký chứng khoán là việc ghi nhận quyền sở hữu, các quyền và nghĩa vụ liên quan của người nắm giữ chứng khoán bằng một hệ thống thông tin lưu giữ trong các tài khoản lưu ký chứng khoán. 1.1.2.Vai trò của các dịch vụ tài chính 1.1.2.1.Thúc đẩy nâng cao tiết kiệm, tập trung và đầu tư vốn Đây là vai trò cơ bản, quan trọng nhất của thị trường dịch vụ tài chính quốc gia. Với sự phát triển của thị trường dịch vụ tài chính, thông qua hàng loạt các dịch vụ tài chính đa dạng với rất nhiều các sản phẩm dịch vụ tài chính, mọi nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi đều được đưa vào tiết kiệm dưới các hình thức khác nhau như đầu tư cổ phiếu, trái phiếu, gửi tiết kiệm… Nói cách khác, thị trường dịch vụ tài chính đã góp phần thúc đẩy hoạt động tiết kiệm dưới mọi hình thức của các tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế - xã hội; đồng thời các nguồn vốn nhỏ lẻ trong nền kinh tế được tích tụ, tập trung thành những quỹ tài chính lớn phục vụ nhu cầu đầu tư lớn, dài hạn trong nền kinh tế. 18 Bên cạnh đó, sự phát triển của thị trường dịch vụ tài chính còn tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ doanh nghiệp, doanh nhân… dễ dàng và nhanh chóng tìm được nguồn tài chính với chi phí và chất lượng phù hợp nhu cầu đầu tư sản xuất kinh doanh của mình. Ngoài nguồn vốn của chủ sở hữu, vay ngân hàng truyền thống, còn có thể huy đông vốn qua thị trường chứng khoán, huy động từ các tổ chức bảo hiểm… Chính vì vậy hoạt động đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế được đẩy mạnh nhờ yếu tố về vốn thuận lợi hơn. Việc mọi nguồn lực tài chính luôn được vận động thông qua các dịch vụ tài chính khác nhau làm cho vòng quay của vốn được tăng lên, nói cách khác là khả năng cung ứng về vốn cho đầu tư trong nền kinh tế tăng lên. 1.1.2.2. Phân tán và giảm thiểu rủi ro Với sự phát triển của thị trường dịch vụ tài chính, hàng loạt các loại dịch vụ tài chính khác nhau đã và đang hình thành, phát triển. Dịch vụ tài chính phong phú cho phép đa dạng hoá các kênh dẫn nguồn tiết kiệm đến đầu tư, giúp giảm thiểu rủi ro. Ví dụ, đối với các cá nhân có tiền vốn tạm thời nhàn rỗi, thay vì chỉ có thể gửi tiết kiệm ngân hàng, nhờ sự phát triển của thị trường chứng khoán, họ có thể tham gia đầu tư trên thị trường chứng khoán dưới nhiều hình thức như đầu tư trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp, cổ phiếu, tham gia đầu tư vào hệ thống các quỹ đầu tư… Như vậy khi có một số rủi ro xảy ra đối với một số loại dịch vụ tài chính nhất định (như một ngân hàng bị phá sản), các cá nhân này không bao giờ bị mất vốn hoàn toàn mà chỉ bị thiệt hại một phần. Dịch vụ bảo hiểm ra đời và tồn tại có thể nói rằng là để đáp ứng những hậu quả tài chính của một số rủi ro nhất định, đem lại cảm giác yên tâm cho những cá nhân hay tổ chức sử dụng dịch vụ bảo hiểm. Điều này không những 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan