Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hợp tác xã nông nghiệp ở việt nam thực trạng, vấn đề và giải pháp ...

Tài liệu Hợp tác xã nông nghiệp ở việt nam thực trạng, vấn đề và giải pháp

.DOCX
132
3
56

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ĐỖ THỊ TÌNH HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM: THỰC TRẠNG, VẤN ĐỀ VÀ GIẢI PHÁP LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ Hà Nội-Năm 2009 MỤC L BÌA MỤC LỤC DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT DANH MỤC MÔ HÌNH, BIỂU ĐỒ DANH MỤC BẢNG BIỂU MỞ ĐẦU CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP 1.1 1.1.1 Cơ sở lý luận về HTXNN Khái niệm HTX và phân loại HTX 1.1.2 Khái niệm HTXNN và các loại hìn 1.1.3 Đặc trưng của HTXNN 1.1.4 Những nguyên tắc cơ bản trong xâ 1.1.5 Vai trò của HTXNN 1.1.6 Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát 1.2 Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và quan đ Nhà nƣớc về HTX và HTXNN 1.2.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về HTX v 1.2.2 Quan điểm của Đảng, chính sách c HTX và HTXNN 1.2.2.1 Quan điểm của Đảng về vị trí, vai trong nền kinh tế thị trường định h 1.2.2.2 Chính sách hỗ trợ và khuyến khích của Nhà nước 1.3 Kinh nghiệm của một số nƣớc tr Hợp tác xã nông nghiệp và nhữn khảo đối với Việt Nam 1.3.1 Kinh nghiệm phát triển Hợp tác xã trên thế giới 1.3.1.1 Kinh nghiệm phát triển HTXNN củ 1.3.1.2 Kinh nghiệm phát triển HTXNN ở 1.3.1.3 Kinh nghiệm phát triển HTXNN ở 1.3.2 Những bài học kinh nghiệm rút ra của phong trào HTXNN ở các nướ 1.3.3 Mô hình hoá hoạt động của HTXN quan KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM TỪ KHI CÓ LUẬT HTX ĐẾN NAY (TỪ NĂM 1996 ĐẾN NAY) 2.1 Khái quát tình hình HTXNN trƣ năm 1996) 2.2 Thực trạng HTXNN từ khi có Lu 2.2.1 Thực trạng HTXNN từ năm 1996 đ 2.2.2 Thực trạng HTXNN từ khi có Luật 2.2.2.1 Kết quả thể chế hoá và thực hiện c triển khai Luật HTX ở các địa phư 2.2.2.2 Tình hình tổ chức, quản lý và hoạt 2.3 Đánh giá kết quả hoạt động của Luật HTX năm 1996 đến nay KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 CHƢƠNG 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HTXNN PHÁT TRIỂN TRONG GIAI ĐOẠN TỚI 3.1 Bối cảnh kinh tế quốc tế và trong HTXNN 3.1.1 Bối cảnh kinh tế quốc tế 3.1.2 Bối cảnh kinh tế trong nước và tình nước ta 3.2 Định hƣớng phát triển HTXNN 3.2.1 Quan điểm tiếp tục phát triển kinh tế HTXNN nói riêng trong quá trình CNH-H nông thôn 3.2.2 Mục tiêu phát triển 3.2.3 Định hướng phát triển HTXNN ở các vùn 3.2.4 Phương hướng phát triển các loại hình H 3.2 Những giải pháp chủ yếu thúc đẩy HT 3.2.1 Giải pháp về nhận thức 3.2.2 Thúc đẩy phát triển kinh tế nông hộ sản x sở phát triển HTXNN 3.2.3 Hoàn thiện mô hình và phương thức quản 3.2.4 Hoàn thiện hệ thống các chính sách của N triển HTXNN 3.2.5 Đẩy mạnh liên kết giữa HTXNN với nha kinh tế khác, đặc biệt là các doanh nghiệp 3.2.6 Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý HTXN 3.2.7 Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, q nhằm hỗ trợ HTXNN phát triển KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Kinh tế hợp tác nói chung và hợp tác xã nói riêng là những hình thức tổ chức kinh tế-xã hội ra đời một cách khách quan trong quá trình phát triển của xã hội hiện đại. Từ những năm cuối của thế kỷ XVIII, khi các nước Tây Âu, tiêu biểu là nước Anh và Pháp chuyển mạnh sang nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh và tập trung mọi nỗ lực để thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp, tư tưởng về HTX đã được khởi nguồn và một số mô hình thí điểm đầu tiên đã xuất hiện ở khu vực này. Về sau, song hành với quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường, hình thức HTX tiếp tục được nhân rộng, trở thành một trào lưu quốc tế và cho đến nay đã có lịch sử trên 100 năm. Theo đánh giá mới đây (năm 2003) của Liên hợp quốc, ngày nay “Hợp tác xã là trào lưu có tổ chức lớn nhất của xã hội văn minh”. Ở Việt Nam, trong thời kỳ áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung, các HTXNN có vai trò không thể phủ nhận đối với đời sống kinh tế-xã hội và đã từng là một trong những điểm tựa quan trọng của cuộc chiến tranh cách mạng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Từ năm 1986, khi Việt Nam thực hiện chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường thì lý luận, đường lối, chính sách liên quan đến HTX nói chung và HTXNN nói riêng cũng được đổi mới. Mô hình HTXNN kiểu kế hoạch hoá tập trung không còn thích hợp và được chuyển sang những hình thức mới. HTX được xem là bộ phận quan trọng nhất của thành phần kinh tế tập thể, trong đó HTXNN có “sứ mệnh” giúp các hộ nông dân cá thể sản xuất nhỏ lẻ có thể hợp tác với nhau để tồn tại và phát triển được trong cơ chế kinh tế thị trường. Ngoài “sứ mệnh” kinh tế, các HTXNN còn có vai trò chính trị, xã hội theo hướng tạo mọi cơ hội bình đẳng trong kinh doanh cho những người có ít vốn, đồng thời góp phần xoá đói, giảm nghèo ở nông thôn. Nhận thức được vai trò quan trọng của HTX nói chung và HTXNN nói riêng, từ trước đến nay Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc phát triển HTX. Khi mô hình HTX kiểu cũ (trước khi có Luật HTX năm 1996) lâm vào tình trạng trì trệ, không còn phù hợp với xu hướng đổi mới của nền kinh tế, Đảng và Nhà nước đã có 1 chủ trương đổi mới HTX bằng việc ban hành Luật HTX năm 1996, tạo cơ sở pháp lý cho sự ra đời của mô hình HTX kiểu mới, một mô hình phù hợp với sự đổi mới, phát triển của đất nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, trên thực tế, các HTXNN kiểu mới vấp phải rất nhiều khó khăn trong quá trình hoạt động làm cho hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp. Tổng kết 5 năm thực hiện chuyển đổi HTX theo Luật HTX năm 1996, Hội nghị Trung ương 5 khóa IX (3/2002) đã ra Nghị quyết về: Tiếp tục đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, trong đó nhấn mạnh Nhà nước phải tạo điều kiện thuận lợi cho HTXNN phát triển. Trên cơ sở Nghị quyết của Đảng và thực tiễn hoạt động của HTX kiểu mới, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XI (ngày 26/11/2003) đã thông qua Luật HTX mới (Luật HTX năm 2003 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2004). Từ khi triển khai Luật HTX năm 1996 và năm 2003 đến nay, các HTXNN đã có bước phát triển mới, đáp ứng được một phần nhu cầu của nông dân, của hộ sản xuất kinh doanh nông nghiệp, đóng góp quan trọng vào quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi ở nông thôn, thúc đẩy sản xuất nông sản hàng hóa phát triển và góp phần vào quá trình CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, HTXNN ở nước ta cũng còn tồn tại một số yếu kém như: một số HTXNN chuyển đổi còn mang tính hình thức, năng lực nội tại của HTXNN còn hạn chế, các HTXNN thụ động và không nhanh nhạy nắm bắt tín hiệu và cơ hội của thị trường, số HTXNN làm ăn có hiệu quả còn ít, các nội dung hoạt động nghèo nàn, lợi ích đem lại cho xã viên chưa nhiều vậy. HTXNN phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và vai trò kinh tế-xã hội vốn có của nó. Những hạn chế yếu kém của HTXNN có nhiều nguyên nhân, gồm cả các nguyên nhân xuất phát từ chính bản thân HTXNN và từ sự quản lý của nhà nước. Để HTXNN đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của kinh tế hộ nông dân và phát triển ổn định, bền vững trong nền kinh tế thị trường hội nhập kinh tế quốc tế, cần phải khắc phục những nguyên nhân và tồn tại yếu kém của HTXNN. Với những lý do nêu trên, “Hợp tác xã nông nghiệp ở Việt Nam: Thực trạng, vấn đề và giải pháp” được tác giả chọn làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị. 2 2. Tình hình nghiên cứu: Trong hơn 10 năm đổi mới và phát triển HTXNN theo Luật HTX ở nước ta, vấn đề HTXNN là chủ đề được nhiều cơ quan khoa học, nhiều nhà nghiên cứu xem xét dưới nhiều góc độ, phạm vi và mức độ khác nhau. Có thể nêu một số công trình tiêu biểu như: - Lương Xuân Quỳ, Nguyễn Thế Nhã, Đổi mới tổ chức và quản lý HTX trong nông nghiệp nông thôn, Nxb Nông nghiệp, 1999. Các tác giả đã khái quát toàn bộ quá trình phát triển của các hình thức tổ chức, quản lý các HTX trong nông nghiệp nông thôn Việt Nam từ trước khi chuyển sang kinh tế thị trường và phân tích thực trạng mô hình tổ chức quản lý các HTX ở một số địa phương tiêu biểu. Trên cơ sở đó phác họa một số phương hướng và giải pháp chủ yếu để xây dựng mô hình tổ chức có hiệu quả cho các loại hình HTX. - GS.TS Nguyễn Kế Tuấn, Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam, con đường và bước đi, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006. Tác giả đề cập đến vai trò của các HTX trong quá trình CNH-HĐH ở khu vực kinh tế nông nghiệp nông thôn. PGS.TS Nguyễn Văn Bích, TS.Chu Tiến Quang, GS.TS Lưu Văn Sùng, Kinh tế hợp tác và HTX ở Việt Nam, thực trạng và định hướng phát triển, Nxb Nông nghiệp, 2001. Các tác giả đã hệ thống hóa quá trình hình thành, phát triển các loại hình kinh tế hợp tác, HTX trên thế giới và ở Việt Nam với những thành công và tồn tại, từ đó nêu lên định hướng phát triển phù hợp đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước. - PGS.TS Lâm Quang Huyên, Kinh tế nông hộ và kinh tế hợp tác trong nông nghiệp Việt Nam, Nxb Trẻ, TPHCM, 2004, phân tích tương đối sâu và khá hệ thống về mối quan hệ giữa kinh tế nông hộ và kinh tế hợp tác. - TS. Chử Văn Lâm, Sở hữu tập thể và kinh tế tập thể trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu kinh tế, số 12, 2005. Tác giả tập trung nghiên cứu về quan hệ sở hữu trong các loại hình kinh tế hợp tác và HTX của thành phần kinh tế tập thể. 3 - Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, Kinh nghiệm hoạt động của một số HTX sau sáu năm thực hiện Luật HTX ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2003. Nội dung đề cập đến một số HTX đổi mới theo Luật HTX năm 1996 làm ăn có hiệu quả. Ngoài ra, còn có các diễn đàn thảo luận về đổi mới, phát triển các HTXNN trên các trang web. Nhìn chung, các công trình và tài liệu nói trên đã nghiên cứu nhiều khía cạnh của HTXNN, trong đó, các công trình nghiên cứu trước năm 2001 chủ yếu đi vào làm rõ những yếu kém của mô hình HTXNN kiểu cũ, luận giải sự cần thiết phải đổi mới HTXNN theo Luật HTX năm 1996. Các công trình nghiên cứu sau năm 2001, nghiêng về nghiên cứu sự phát triển của kinh tế tập thể theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX hoặc nghiên cứu về HTXNN hoạt động theo luật HTX nhưng chỉ trong phạm vi một tỉnh, một huyện hoạc một vùng địa lý. Cho đến nay chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách toàn diện HTXNN trên cả nước để đưa ra một mô hình tổng thể, khái quát nhưng đầy đủ, logic và khoa học về mô hình hoạt động HTXNN theo đúng nghĩa là một “HTX thực sự”. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: Mục đích của luận văn là vận dụng lý luận HTXNN để khảo sát, đánh giá hoạt động của HTXNN kiểu mới trên cả nước từ năm 1996 đến nay và đề xuất một số phương hướng, giải pháp thúc đẩy phát triển HTXNN trong thời gian tới. Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: Làm rõ những nguyên tắc và bản chất của loại hình kinh tế HTX nói chung và HTXNN nói riêng. - Luận chứng về sự cần thiết khách quan phải phát triển HTXNN ở Việt Nam. - Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển HTXNN ở Việt Nam từ khi có Luật HTX năm 1996 đến nay. Đề xuất định hướng và các giải pháp phát triển HTXNN trong thời gian tới. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu về các HTXNN ở Việt Nam. 4 - Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu thực trạng các HTXNN ở Việt Nam từ năm 1996 đến nay. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh, thống kê và xử lý các tài liệu tham khảo có liên quan đến nội dung nghiên cứu. Luận kế thừa có chọn lọc các công trình nghiên cứu khoa học có nội dung gần với đề tài. 6. - Dự kiến đóng góp của luận văn: Phân tích cơ sở lý thuyết của mô hình HTXNN hoạt động theo Luật HTX và từ thực tiễn phong trào HTXNN ở các nước trên thế giới để xây dựng mô hình tổng quát về hoạt động của HTXNN và các nhân tố có liên quan đến HTXNN một cách chính xác, logic và dễ hiểu nhất. - Đánh giá những thành công và bất cập tồn tại trong quá trình phát triển HTXNN theo Luật HTX từ năm 1996 đến. - Đưa ra định hướng và các giải pháp góp phần thúc đẩy HTXNN phát triển trong thời gian tới. 7. Kết cấu của luận văn: Luận văn gồm 03 chương như sau: Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế về Hợp tác xã nông nghiệp Chƣơng 2: Thực trạng phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở Việt nam từ khi có luật HTX đến nay (từ năm 1996 đến nay) Chƣơng 3: Định hướng và các giải pháp thúc đẩy HTXNN phát triển trong giai đoạn tới 5 CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP 1.1 Cơ sở lý luận về HTXNN 1.1.1 Khái niệm HTX và phân loại HTX * Khái niệm HTX ở một số nước trên thế giới: HTX là một loại hình kinh tế hợp tác, một tổ chức kinh tế có đặc thù riêng. Ở nhiều nước trên thế giới, HTX đã hình thành và phát triển hơn 100 năm. Liên minh HTX quốc tế (International Cooperative Alliance- ICA) được thành lập vào năm 1895 nhằm thực hiện sứ mệnh liên kết, đại diện và hỗ trợ phong trào HTX trên toàn thế giới, đã định nghĩa về HTX như sau: “HTX là một tổ chức tự trị của những người tự nguyện liên hiệp lại để đáp ứng các nhu cầu và nguyện vọng chung của họ về kinh tế, xã hội và văn hoá thông qua một xí nghiệp cùng sở hữu và quản lý dân chủ.” Định nghĩa này được ICA hoàn thiện vào năm 1995 thông qua tuyên bố như sau: “ HTX dựa trên ý nghĩa tự cứu giúp mình, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng, công bằng và đoàn kết. Theo truyền thống của những người sáng lập ra HTX, các xã viên HTX tin tưởng vào ý nghĩa đạo đức về tính trung thực, cởi mở, trách nhiệm xã hội và quan tâm chăm sóc người khác”. Tổ chức lao động quốc tế (ILO) định nghĩa: “HTX là sự liên kết của những người đang gặp phải những khó khăn kinh tế giống nhau, tự nguyện liên kết nhau lại trên cơ sở bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, sử dụng tài sản mà họ đã chuyển giao vào HTX phù hợp với các nhu cầu chung vfa giải quyết những khó khăn đó chủ yếu bằng sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm và bằng cách sử dụng các chức năng trong tổ chức hợp tác phục vụ cho lợi ích vật chất và tinh thần chung”. Luật HTX của Cộng hoà Liên bang Đức định nghĩa: “HTX đăng ký là những viên tập thể với đa số thành viên không hạn chế nhằm khuyến khích việc sản xuất, kinh doanh chung”. 6 Luật HTX của INĐÔNÊXIA định nghĩa: “HTX là tổ chức kinh tế của nhân dân mang tính xã hội, gồm những người hoặc những tổ chức ở địa phương và thành viên lập nên một hệ thống kinh tế như là nỗ lực chung đặt trên cơ sở nguyên tắc của tình anh em”. Luật HTX của PHILIPPIN định nghĩa: “HTX là sự hiểu biết của những người có cam kết chung và tập hợp nhau lại một cách tự nguyện để đạt được mục đích xã hội hoặc kinh tế chung, có sự đóng góp công bằng vào vốn và chấp nhận phần đóng góp hợp lý vào các công việc và phần lợi ích của việc kinh doanh theo nguyên tắc HTX đã được chấp nhận chung”. Như vậy, từ các định nghĩa về HTX được nêu ở trên cho thấy, các định nghĩa về HTX ở các nước tuy có khác nhau về chi tiết nhưng tất cả đều thể hiện rõ những tiêu chí chung của HTX, đó là: - HTX là sự liên kết của những người tham gia, cùng góp vốn. Trong HTX nhấn mạnh yếu tố con người chứ không phải số vốn mà họ góp. - HTX là một tổ chức kinh tế đặc thù chứ không phải là một công ty cổ phần hoặc một tổ chức từ thiện. Đặc trưng của HTX là thông qua hoạt động kinh doanh để liên kết các thành viên với nhau. Những thành viên hay những người góp vốn vào HTX có lợi ích chung và nhu cầu chung mà họ muốn được thoả mãn. - HTX là doanh nghiệp được quản lý theo nguyên tắc dân chủ. Mỗi xã viên chỉ có một và chỉ một phiếu biểu quyết không phân biệt vốn góp nhiều hay ít. Khẩu hiệu của HTX là phục vụ cho xã viên hơn là kiếm lời. Tuy lợi nhuận luôn gắn với HTX, nhưng mục đích chính của HTX vẫn là phục vụ các xã viên và phục vụ tối đa là nhiệm vụ hàng đầu của HTX. Phương châm chủ đạo của HTX là giúp đỡ lẫn nhau và tự giúp mình. - Một trong những nguyên tắc cơ bản của HTX là tự nguyện, bình đẳng và cùng có lợi. Lợi nhuận được phân phối không chỉ căn cứ vào vốn góp mà còn căn cứ vào mức độ sử dụng dịch vụ của các xã viên. - HTX còn có một nhiệm vụ quan trọng là phục vụ cộng đồng. * Khái niệm HTX ở Việt Nam: Trong Điều 1 của Luật Hợp tác xã của Việt Nam năm 1996 định nghĩa: 7 “HTX là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước”. Theo định nghĩa này, HTX là một tổ chức kinh tế có tổ chức chặt chẽ, có tư cách pháp nhân, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Vì vậy, mục tiêu của HTX trước hết phải là kinh doanh có hiệu quả, trên cơ sở đó để thực hiện mục tiêu tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các xã viên và mục tiêu xã hội. HTX cũng là phương tiện để kết hợp sức mạnh của từng xã viên với sức mạnh của cả tập thể, thông qua kết quả kinh doanh của HTX mà cải thiện đời sống của xã viên, góp phần xoá đói giảm nghèo ở nông thôn và phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn. Để phù hợp với Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX và thực tiễn hoạt động của các HTX, năm 2003, Quốc hội đã ban hành Luật HTX năm 2003 thay thế cho Luật HTX năm 1996. Luật HTX năm 2003 đã mở rộng hơn định nghĩa về HTX, đó là: “ HTX là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. HTX hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích luỹ và các nguồn vốn khác của HTX theo quy định của pháp luật”. Theo khái niệm này, ngoài những tính chất và đặc thù do Luật HTX (năm 1996) qui định, HTX kiểu mới do các thành viên bao gồm cả thể nhân và pháp nhân, cả người có ít vốn và người có nhiều vốn, có thể góp sức hoặc góp vốn xây dựng nên, trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc: tự nguyện, bình đẳng cùng có lợi và quản lý dân chủ. HTX được thừa nhận hoạt động theo điều chỉnh của Luật Doanh 8 nghiệp trong cơ chế thị trường như các thành phần kinh tế khác; được khẳng định quyền “tự chủ” trong sản xuất kinh doanh; được huy động “các nguồn vốn khác theo qui định của pháp luật” như các loại hình doanh nghiệp khác. Trước đây, luật không qui định điều này. Theo định nghĩa này, HTX được vay vốn bình đẳng như đối với doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác, các HTX được thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay để vay vốn ngân hàng, được vay vốn bằng tín chấp và vay theo dự án sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, các HTX được tham gia các chương trình dự án quốc gia của Chính phủ và các tổ chức phi chính phủ. Ngân hàng Nhà nước phải có hướng dẫn chỉ đạo chặt chẽ đối với các hoạt động tín dụng trong nội bộ HTX; khuyến kích phát triển quỹ tín dụng nhân dân một cách vững chắc. Đây là tư tưởng đối mới của Đảng và Nhà nước ta, tạo điều kiện và giúp đỡ kinh tế hợp tác và HTX phát triển. * Phân loại HTX: Từ các tiêu thức phân loại khác nhau đã hình thành nhiều loại hình HTX với những đặc điểm và nội dung hoạt động, cơ cấu tổ chức, vai trò tác dụng và tên gọi khác nhau tương ứng với những điều kiện cụ thể của từng loại hình HTX. Ở nhiều nước, người ta thường phân loại HTX theo mục đích, chức năng hoạt động, theo đặc điểm về qui mô, tính chất và hình thức pháp lý. Có một số nước việc xác định các loại hình HTX được nêu ngay trong Luật HTX như: Luật HTX của Philippin, Inđônêxia, Thái Lan, Cộng hòa Liên bang Đức.… Thông thường, có các loại hình HTX: HTX tín dụng; ngân hàng; HTX sản xuất; HTX mua- bán; HTX đa chức năng; HTX dịch vụ; HTX sản xuất tập trung; HTX cấp I; cấp II; cấp III; HTX trách nhiệm hữu hạn; HTX trách nhiệm vô hạn v.v… Trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, để phân loại HTX, thường căn cứ vào chức năng hoạt động, tính chất trình độ xã hội hóa, qui mô và đặc điểm hình thành HTX. 9 - HTX dịch vụ: bao gồm 3 loại: HTX dịch vụ từng khâu, HTX dịch vụ tổng hợp đa chức năng và HTX dịch vụ “đơn mục đích” hay HTX dịch vụ “chuyên ngành”. + HTX dịch vụ từng khâu còn gọi là HTX chuyên khâu có nội dung hoạt động tập trung ở từng lĩnh vực trong quá trình tái sản xuất hoặc từng khâu công việc trong quá trình sản xuất và phục vụ cho sản xuất. + HTX dịch vụ tổng hợp- đa chức năng có nội dung hoạt động đa dạng, gồm nhiều khâu dịch vụ cho sản xuất, cung ứng vật tư đầu vào, tiêu thụ sản phẩm (đầu ra), dịch vụ giống, phòng trừ sâu bệnh, tưới tiêu,v.v… + Hợp tác xã dịch vụ “đơn mục đích” hay hợp tác xã dịch vụ “chuyên ngành”. Hợp tác xã loại này được hình thành từ nhu cầu của các hộ thành viên cùng sản xuất kinh doanh một loại hàng hóa tập trung hoặc cùng làm một nghề giống nhau (HTX trồng rừng, HTX trồng mía, HTX trồng chè.v.v…). Hợp tác xã thực hiện các khâu dịch vụ của kinh tế hộ như chọn giống, cung ứng vật tư, trao đổi hướng dẫn kỹ thuật, dịch vụ vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm, đại diện các hộ thành viên quan hệ với cơ sở chế biến, ngân hàng.v.v… - Hợp tác xã sản xuất kết hợp dịch vụ. Hợp tác xã loại này có đặc điểm: nội dung hoạt động sản xuất là chủ yếu, dịch vụ là kết hợp. - Hợp tác xã sản xuất-kinh doanh ở mức độ hợp tác toàn diện. Đặc điểm cơ bản của mô hình hợp tác xã lọai này là: cơ cấu tổ chức, nội dung hoạt động, bộ máy quản lý và chế độ hạch toán, kiểm kê, kiểm soát, phân phối theo nguyên tắc của Hợp tác xã kiểu mới và tương tự một “ doanh nghiệp” tập thể. 1.1.2 Khái niệm HTXNN và các loại hình HTXNN * Khái niệm hợp tác xã nông nghiệp HTXNN là tổ chức kinh tế tự chủ do nông dân, những người lao động ở nông thôn và các pháp nhân có nhu cầu, lợi ích chung tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động dịch vụ hỗ trợ cho kinh tế hộ gia đình các xã viên và kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản và các ngành-nghề khác; cải thiện đời sống xã viên; góp phần phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. 10 Ngoài những đặc điểm chung của HTX như: Xã viên liên kết với nhau vì ít nhất một lợi ích chung và theo đuổi mục tiêu cải thiện điều kiện kinh tế- xã hội của mình. Xã viên có cùng mục đích của HTX là sử dụng có hiệu quả vốn quỹ, phục vụ hoạt động kinh tế của xã viên. Lợi nhuận không phải là mục tiêu duy nhất của HTX. HTXNN còn có những đặc điểm: Là một tổ chức kinh tế tập hợp đông đảo nông dân, những người thường thiếu vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ dân trí thấp. Mặt khác, đối tượng sản xuất của nông nghiệp là cây trồng, vật nuôi cho nên quá trình hoạt động của HTXNN không những bị chi phối bởi các quy luật kinh tế mà còn bị ảnh hưởng bởi điều kiện tự nhiên. Đây là những đặc điểm có ảnh hưởng nhất định đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của HTXNN mà cán bộ lãnh đạo, quản lý phải quan tâm để có biện pháp giúp đỡ, hỗ trợ HTX nông nghiệp phát triển. * Các loại hình HTXNN: Theo cách phân loại đã nêu trên, có thể chia HTXNN thành 3 loại hình: - Hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. - Hợp tác xã nông nghiệp dịch vụ đơn khâu hoặc đa khâu. - Hợp tác xã nông nghiệp dịch vụ và kinh doanh tổng hợp. 1.1.3 Đặc trƣng của HTXNN HTXNN là một loại hình tổ chức kinh tế HTX nên nó cũng có đặc trưng của kinh tế HTX, ngoài ra, do đặc thù hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp nên HTXNN còn có những đặc trưng riêng. Vậy HTXNN có những đặc trưng chủ yếu sau: - Về tính chất: HTXNN là tổ chức kinh tế tự chủ của nông dân và những người lao động khác ở nông thôn nhằm trước hết thực hiện các hoạt động dịch vụ hỗ trợ cho kinh tế hộ gia đình xã viên, ngoài ra HTX có thể tổ chức dịch vụ cho các đối tượng khác. HTX là một tổ chức kinh tế độc lập, tự chủ có đầy đủ tư cách pháp nhân trong cơ chế thị trường, bình đẳng trước pháp luật với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, tự quyết định, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, liên doanh, liên kết với các tổ chức kinh tế thuộc 11 mọi thành phần kinh tế khác, cũng như phân chia lỗ lãi, bảo đảm hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước và trách nhiệm đối với thành viên. Nhà nước tôn trọng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ của HTX, không can thiệp trực tiếp vào các hoạt động của HTX. Vai trò của Nhà nước trong việc quản lý đối với HTX được thực hiện qua việc ban hành các chính sách hỗ trợ và khuyến khích phát triển HTX. - Về quan hệ sở hữu:. Trong HTXNN, sở hữu tập thể và sở hữu cá nhân của các thành viên được phân định rõ. Sở hữu tập thể (sở hữu của HTX) bao gồm các nguồn vốn tích luỹ tái đầu tư, các tài sản do tập thể mua sắm để dùng cho hoạt động của HTX, tài sản trước đây được giao lại cho tập thể sử dụng và tài sản do Nhà nước hoặc các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tài trợ làm tài sản không chia và các quỹ không chia. Sở hữu cá nhân trong HTXNN chính là phần vốn góp của mỗi xã viên. Các thành viên khi tham gia HTX không phải góp tư liệu sản xuất mà điều kiện tiên quyết là góp vốn theo quy định của Điều lệ HTX (gọi là vốn điều lệ). Vốn góp của xã viên được chia lãi hằng năm và được rút khi thành viên ra khỏi HTX. Thành viên có thể góp vốn bằng ngoại tệ, tài sản, quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ và các loại giấy tờ có giá khác. Những xã viên của HTXNN vẫn là những chủ thể độc lập, có kinh tế riêng. Vị trí, vai trò cũng như quyền tự chủ của kinh tế xã viên không bị mất đi mà ngược lại được hỗ trợ thêm từ phía HTXNN để phát triển. - Về quan hệ quản lý: Trong HTXNN, quan hệ giữa HTX và các xã viên là quan hệ bình đẳng, thoả thuận, tự nguyện, cùng có lợi và cùng chịu rủi ro trong sản xuất kinh doanh. HTXNN tôn trọng quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh của hộ xã viên, chỉ quản lý hoạt động dịch vụ và sản xuất, kinh doanh do HTX tổ chức. Đặc trưng chung của HTXNN là hoạt động sản xuất kinh doanh của HTX không bao trùm toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của các xã viên mà chỉ diễn ra ở từng khâu công việc, công đoạn, nhằm hỗ trợ, phát huy thế mạnh của từng hộ xã viên và do đó cũng tạo điều kiện phát huy quyền làm chủ của các hộ xã viên. Các xã viên tham gia quyết định những công việc quan trọng của HTX như sửa đổi Điều lệ HTX, tổ chức lại HTX, quyết định cơ cấu tổ chức quản lý HTX, xác định phương án sản xuất kinh doanh, phương án phân phối thu nhập trong HTX… Nguyên tắc bầu cử và biểu quyết được thực hiện bình đẳng, mỗi thành viên một phiếu bầu, 12 không phân biệt vốn góp ít hay nhiều. Bộ máy quản lý HTX tổ chức gọn nhẹ, hiệu quả. Chức năng, nhiệm vụ của Ban quản trị, Ban kiểm soát, Trưởng Ban quản trị, Chủ nhiệm HTX được xác định rõ ràng, cụ thể. Chủ nhiệm HTX được giao quyền chủ động điều hành công việc và tự chịu trách nhiệm về những quyết định của mình. - Về quan hệ phân phối: HTXNN phân phối lãi và thu nhập cho xã viên trên nguyên tắc công bằng, cùng có lợi, vừa theo lao động, vừa theo vốn góp và mức độ tham gia dịch vụ. Đa dạng các loại hình phân phối thu nhập là động lực khuyến khích xã viên HTX hăng say làm việc, gắn bó với HTX. Trong quá trình phân phối, các HTX còn tạo ra các quỹ không chia từ phần lợi nhuận được để lại nhằm một mặt để mở rộng sản xuất kinh doanh, mặt khác tạo nên phúc lợi công cộng cho mọi thành viên trong HTX được hưởng chung; kết hợp chặt chẽ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. - Về nội dung hoạt động: HTXNN có hoạt động chính là một hoặc nhiều dịch vụ cho kinh tế hộ và sản xuất nông nghiệp, cụ thể: + Làm đất; + Tưới, tiêu nước; + Cung ứng vật tư, kỹ thuật (phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, vật nuôi, thú y, máy móc thiết bị…); + + Phòng trừ sâu bệnh đối với cây trồng và dịch bệnh đối với gia súc; Cung cấp dịch vụ khuyến nông, khuyến lâm và một số dịch vụ khác phục vụ trực tiếp cho sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và đời sống của xã viên; + + Sản xuất và chế biến nông, lâm sản; + Tiêu thụ nông, lâm sản do xã viên làm ra; Hoạt động vận tải, xây dựng, thương mại theo các quy định của pháp luật về kinh doanh trong các lĩnh vực này. + Các hoạt động khác mà pháp luật không cấm. 1.1.4 Những nguyên tắc cơ bản trong xây dựng HTXNN HTXNN tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc sau: 13 - Tự nguyện gia nhập và ra HTX; tất cả nông dân và người lao động có điều kiện theo quy định của Luật HTX, tán thành Điều lệ HTXNN đều có thể trở thành xã viên HTXNN; xã viên có quyền ra HTX theo quy định của Điều lệ từng HTXNN. - Quản lý dân chủ, bình đẳng và công khai: Xã viên HTXNN có quyền tham gia quản lý, kiểm tra, giám sát mọi hoạt động của HTX và có quyền ngang nhau trong biểu quyết; thực hiện công khai phương hướng sản xuất, kinh doanh, tài chính, phân phối và những vấn đề khác quy định trong Điều lệ HTXNN. - Tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi: HTX tự chủ và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh; tự quyết định về phân phối thu nhập, bảo đảm HTX và xã viên cùng có lợi. Sau khi thực hiện xong nghĩa vụ nộp thuế và trang trải các khoản lỗ của HTX; lãi được trích một phần vào các quỹ của HTX, một phần chia theo vốn góp và công sức đóng góp của xã viên, phần còn lại chia cho xã viên theo mức độ sử dụng dịch vụ của HTX. - Hợp tác và phát triển cộng đồng: Xã viên phải có ý thức phát huy tinh thần xây dựng tập thể và hợp tác với nhau trong HTX, trong cộng đồng xã hội; HTX giữa các HTX trong nước và ngoài nước theo quy định của pháp luật. 1.1.5 Vai trò của HTXNN Kinh tế hợp tác trong lịch sử được phát triển nhiều hình thức từ thấp đến cao: từ tổ vần công, đổi công đến tổ đoàn kết sản xuất, chuyển sang các hình thức HTX dịch vụ, các HTX sản xuất hoặc các HTX vừa sản xuất vừa làm dịch vụ. Kinh tế hợp tác, HTX nói chung và HTXNN nói riêng có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế- xã hội. HTXNN thúc đẩy phát triển kinh tế nông nghiệp. HTXNN làm được những việc mà từng người, từng hộ không làm được hoặc làm không có hiệu quả. HTXNN thúc đẩy kinh tế hộ phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ trang trại liên kết, hợp tác, thành lập HTX. HTXNN góp phần nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm được nhiều khoản chi phí trong đầu tư cho sản xuất, kinh doanh; huy động được nhiều vốn, nhiều nhân lực, chế ngự được thiên tai, địch hoạ, đáp ứng kịp thời yêu cầu sản xuất, kinh doanh; cung cấp sản phẩm cho xã hội, góp phần tăng trưởng kinh 14 tế, góp phần vào tăng thu ngân sách nhà nước. HTXNN khai thác được tiềm năng trong dân cư để mở mang ngành nghề, phát triển sản xuất, tăng nguồn hàng xuất khẩu, đóng góp vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế -xã hội. HTXNN hỗ trợ người nghèo, giúp đỡ họ cùng phát triển. Bởi lẽ HTXNN không chỉ gắn bó các thành viên về kinh tế mà còn được hình thành và phát triển trên cơ sở tình làng nghĩa xóm, góp phần thực hiện các chính sách xã hội trên địa bàn như cung ứng các mặt hàng chính sách cho vùng miền núi, dân tộc, vùng thiên tai bão lụt, tham gia xoá đói, giảm nghèo, khắc phục bần cùng hoá; phòng chống các tệ nạn xã hội. Kinh tế hợp tác và HTXNN còn tạo điều kiện cho những người lao động, những người sản xuất nhỏ phát triển hoạt động marketing sản phẩm, nhờ đó mở rộng được thị trường tiêu thụ nông sản trong và ngoài nước, giúp kinh tế hộ phát triển. HTXNN là mô hình tổ chức kinh tế có tính chất xã hội. Trước hết, đó là các đơn vị sản xuất kinh doanh, dịch vụ, vệ tinh của các doanh nghiệp nhà nước; là đơn vị liên doanh, liên kết với các thành phần kinh tế khác và có thể là đơn vị xuất nhập khẩu. Tính xã hội của HTXNN được thể hiện rõ nhất ở đặc điểm HTXNN là một tổ chức kinh tế của những người lao động nghèo ở nông thôn, tập hợp được đông đảo mọi người tham gia nhằm giúp đỡ lẫn nhau, tăng thêm sức mạnh trong sản xuất kinh doanh, góp phần tạo công ăn việc làm và thu nhập chính đáng cho người dân nghèo nông thôn. Trong mọi hoạt động của mình, HTX còn có nghĩa vụ giáo dục tinh thần hợp tác cho xã viên, khuyến khích sự hợp tác không chỉ trong nội bộ xã viên của HTX mà còn giữa các HTX. Ngoài chăm lo về mặt kinh tế, HTX còn chăm lo cả về mặt tinh thần cho xã viên thông qua các hoạt động chung của HTX. Tuy nhiên tất cả những hoạt động xã hội phải được tiến hành trên cơ sở hoạt động kinh tế có hiệu quả. Những hoạt động này sẽ góp phần nâng cao trình độ dân trí của cộng đồng, góp phần dân chủ hoá đời sống xã hội, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc phòng. Ngoài ra, HTXNN còn có vai trò tạo điều kiện thuận lợi đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật, quản lý, công nghệ mới vào sản xuất. Tiến hành chuyên môn hoá, tập trung hoá, phát triển hợp lý các vùng sản xuất nông nghiệp, đồng thời thực hiện thâm canh trong sản xuất nông nghiệp một cách khoa học, hiệu quả. Khai thác tiềm năng về vốn, lao động và công nghệ, đảm bảo môi trường sinh thái, có khả năng đào 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan