Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hợp tác quốc tế trong vấn đề biến đổi khí hậu ...

Tài liệu Hợp tác quốc tế trong vấn đề biến đổi khí hậu

.PDF
82
5
52

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Hoàng Thúy Quỳnh HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH QUAN HỆ QUỐC TẾ MÃ SỐ: 60.31.40 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS HOÀNG KHẮC NAM HÀ NỘI-2010 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Biến đổi khí hậu là một trong những vấn đề môi trƣờng nghiêm trọng nhất. Do sự đe dọa của vấn đề biến đổi khí hậu ngày càng cao và ngày càng đe dọa trực tiếp đời sống kinh tế-xã hội của tất cả các quốc gia trên thế giới nên nó đã đƣợc coi là một vấn đề an ninh phi truyền thống. Bởi môi trƣờng là chung nhất nên nhân loại bắt buộc phải hợp tác quốc tế để cùng tìm ra giải pháp chung nhằm đối phó. Bên cạnh đó, sự gia tăng của vấn đề biến đổi khí hậu cũng đang tạo ra những tác động đối với QHQT, dẫn đến sự tƣơng tác qua lại giữa vấn đề này với hợp tác quốc tế. Xuất phát từ tầm ảnh hƣởng ngày càng tăng của vấn đề biến đổi khí hậu đối với hợp tác trong QHQT cũng nhƣ vai trò ngày càng quan trọng của hợp tác quốc tế đối với việc giải quyết vấn đề này, chúng tôi đã chọn đề tài “Hợp tác quốc tế trước vấn đề biến đổi khí hậu” cho luận văn của mình. Mục đích của việc chọn đề tài này là nhằm làm rõ về biến đổi khí hậu, tác động của nó đến quan hệ quốc tế và tình hình hợp tác quốc tế ngăn chặn vấn đề này. Ngoài ra, đề tài còn có ý nghĩa nhƣ một đóng góp về mặt khoa học bằng những kiến thức mà chúng tôi đã tổng hợp đƣợc. Chúng tôi hy vọng đề tài sẽ có những tác động vào đời sống thực tiễn, góp thêm phần cho cuộc chiến chống biến đổi khí hậu toàn cầu hiện nay. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Những năm gần đây, biến đổi khí hậu với tƣ cách là một vấn đề toàn cầu, đƣợc đề cập đến rất nhiều cả ở Việt Nam và trên thế giới. 4 Ở nƣớc ngoài, đã có nhiều nghiên cứu về quan hệ qua lại giữa môi trƣờng với quan hệ quốc tế nhƣng là về vấn đề môi trƣờng nói chung mà trong đó biến đổi khí hậu chỉ là một khía cạnh. Tuy nhiên, khái niệm biến đổi khí hậu thƣờng xuyên đƣợc nhắc tới, nhất là trong các tài liệu nghiên cứu về môi trƣờng và phát triển. Một trong những tài liệu cung cấp rất nhiều thông tin về biến đổi khí hậu toàn cầu có thể kể đến là “Báo cáo Phát triển con người 2007/2008” của Ngân hàng thế giới. Bản báo cáo có ý nghĩa nhƣ một sự cảnh báo về nguy cơ khí hậu toàn cầu và cũng là lời kêu gọi các quốc gia đoàn kết lại cùng chung tay bảo vệ thế giới khỏi những tổn thƣơng do quá trình tăng nhiệt độ của trái đất. Ở trong nƣớc, chƣa có các nghiên cứu về quan hệ giữa môi trƣờng và quan hệ quốc tế. Dù vậy, các đề tài nghiên cứu khoa học, sách tham khảo, báo cáo, giáo trình… cũng đề cập nhiều tới biến đổi khí hậu. Ví dụ nhƣ Báo cáo của Bộ tài nguyên và Môi trƣờng năm 2009 “Kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng cho Việt Nam”. Ngoài ra, các tác giả nhƣ Nguyễn Trần Quế với cuốn sách tham khảo “Những vấn đề toàn cầu ngày nay” và Nguyễn Trọng Chuẩn với “Những vấn đề toàn cầu trong thập niên đầu của thế kỷ XXI” và một vài tác giả khác cũng đã đề cập tới vấn đề biến đổi khí hậu nhƣ một phần của vấn đề môi trƣờng nằm trong các vấn đề toàn cầu của nhân loại. Các cá nhân và tập thể tác giả của các nghiên cứu trên đã cho thấy rõ nguyên nhân, thực trạng của biến đổi khí hậu và đã đề xuất nhiều giải pháp góp phần làm giảm thiểu ảnh hƣởng của biến đổi khí hậu. Ngoài ra, vai trò của hợp tác quốc tế cũng đƣợc đề cập tới trong các nghiên cứu về vấn đề toàn cầu này. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chƣa có công trình nào về “Hợp tác quốc tế trước vấn đề biến đổi khí hậu”. 5 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tƣợng nghiên cứu: Tác động của biến đổi khí hậu đến quan hệ quốc tế và sự hợp tác quốc tế nhằm đối phó với vấn đề biến đổi khí hậu. - Phạm vi nghiên cứu: Chủ yếu đề cập đến tác động của tình trạng vấn đề biến đổi khí hậu đối với quan hệ quốc tế và hợp tác quốc tế trƣớc vấn đề này trong thời hiện đại. 4. Phương pháp nghiên cứu Phƣơng pháp tổng hợp, thống kê, phân tích và phƣơng pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế đƣợc sử dụng xuyên suốt trong quá trình thực hiện đề tài luận văn. Ngoài ra, phƣơng pháp lịch sử và suy luận logic cũng đƣợc áp dụng trong một số trƣờng hợp. Các giả thuyết khoa học cũng đƣợc đƣa ra trong nội dung luận văn, ví dụ nhƣ các giả thuyết về mức tăng nhiệt độ của trái đất hay các giả thuyết về mức độ gây tổn hại bầu khí quyển của con ngƣời. 5. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu gồm 3 chƣơng: Chương 1: Khái quát về biến đổi khí hậu. Nội dung chƣơng này làm rõ khái niệm và nguyên nhân của tình trạng vấn đề biến đổi khí hậu, đồng thời nêu lên thực trạng vấn đề biến đổi khí hậu thế giới. Chương 2: Tác động chủ yếu của vấn đề biến đổi khí hậu đối với Quan hệ quốc tế. Chƣơng 2 phân tích những tác động của vấn đề biến đổi khí hậu đối với xung đột quốc tế cũng nhƣ hợp tác quốc tế. Chương 3: Thuận lợi, khó khăn và triển vọng trong hợp tác quốc tế nhằm giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu. Chƣơng này đề cập tới những thuận lợi, khó khăn trong hợp tác quốc tế giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu. Qua đó chúng tôi cũng đƣa ra nhận định về triển vọng hợp tác trong tƣơng lai. 6 CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU 1.1. Khái niệm và nguyên nhân của tình trạng vấn đề biến đổi khí hậu 1.1.1. Khái niệm Sự xuống cấp của môi trƣờng đã từ lâu trở thành vấn đề toàn cầu gây ra những hậu quả vô cùng nghiêm trọng cho nhân loại. Biến đổi khí hậu đang là hiện tƣợng nguy hiểm nhất nằm trong các vấn đề về môi trƣờng. Chính biến đổi khí hậu tác động lên các vấn đề khác trong môi trƣờng và làm tăng nhiệt độ trái đất, đe dọa an ninh con ngƣời trên toàn thế giới. Gần đây, khái niệm biến đổi khí hậu đƣợc nhắc đến với tần suất lớn trên hầu hết các phƣơng tiện truyền thông đại chúng và đã tác động mạnh mẽ tới nhận thức của con ngƣời khắp nơi trên thế giới. Nói đến biến đổi khí hậu, không thể không nhắc đến sự gia tăng của vấn đề biến đổi khí quyển nói chung. Trong hệ thống khí hậu thì khí quyển đóng vai trò chủ yếu tới việc điều chỉnh khí hậu thời tiết. Khí quyển đƣợc hiểu một cách phổ biến là không khí và đó là một hỗn hợp khí, chủ yếu là oxygen và nitrogen, nằm bao quanh Trái đất. Ngắn gọn hơn, có định nghĩa cho rằng khí quyển là các lớp hay vùng khí nằm trên bề mặt trái đất [18, tr.20]. Khí quyển có vai trò sống còn đối với sự tồn tại của nhân loại. Trƣớc hết, khí quyển có chứa oxygen và là nguồn tạo nƣớc ngọt – những yếu tố không thể thiếu đối với sự sống của muôn loài [18, tr.23]. Khí quyển cũng là yếu tố tác động trực tiếp tới trạng thái của thời tiết. Khí quyển cho phép ánh sáng và nhiệt lƣợng của Mặt Trời tới Trái Đất [18, tr.23]. Nhiệt độ của trái đất ấm lên đƣợc là nhờ khả năng truyền nhiệt và giữ nhiệt của khí quyển. Nhờ đƣợc giữ ấm mà sự sống đƣợc duy trì ở trái đất. Đây chính là khả năng khác biệt của trái đất so với các hành tinh khác trong hệ Mặt Trời. Nếu không có bầu khí quyển, thì nhiệt độ của Trái 7 Đất chỉ còn -73oC và không có sự sống. Tƣơng tự, nhiệt độ của Sao Kim là 500oC vì không có một sự điều chỉnh giống nhƣ bầu khí quyển ở Trái Đất. Nhƣ vậy, bầu khí quyển giữ cho nhiệt độ Trái Đất không quá lạnh và cũng không quá nóng, đảm bảo cho sự sống tồn tại trên Trái Đất. Ngoài ra, khí quyển cũng giúp hạn chế nhiều tác động có hại từ bên ngoài. Là lớp ngăn giữa vũ trụ và Trái Đất, khí quyển che chắn cho Trái Đất khỏi tác hại của tia cực tím phát ra từ Mặt Trời [18, tr.23]. Hiện nay, sự biến đổi của khí quyển đang không ngừng gia tăng. Sự suy giảm tầng ozone chính là một hiện tƣợng liên quan tới biến đổi khí quyển. Sự suy giảm này thể hiện qua quá trình mỏng dần rồi xuất hiện lỗ thủng. Hiện tƣợng lỗ thủng tầng ozone đã gây kinh hoàng cho giới khoa học và là dấu hiệu cảnh báo lớn cho toàn nhân loại về nguy cơ sự sống trên trái đất bị hủy hoại bởi tác động của các tia cực tím có hại. Chính tầng ozone là tấm lá chắn bảo vệ cho mọi sinh vật trên trái đất khỏi bị chết hoặc bị thƣơng bởi các tia độc hại từ bức xạ mặt trời. Nguyên nhân của hiện tƣợng suy giảm tầng ozone là do việc chế tạo và sử dụng chất CFC (clo-florua-cacbon) trong công nghiệp. Trong quá trình sản xuất, CFC đi vào không trung và tạo ra “clo tự do” trực tiếp phá hủy tầng ozone. Sau khi lỗ thủng tầng ozone lần đầu tiên đƣợc phát hiện ở Nam cực, nhân loại đã có những hành động nhằm cứu vãn vấn đề. Cuộc đàm phán quốc tế tại Montréal năm 1987 đã đạt tới hiệp ƣớc quốc tế nhằm giảm bớt sản lƣợng chất CFC; Thỏa thuận London năm 1990 và Copenhagen năm 1992 về việc tiến tới hoàn toàn chấm dứt việc sản xuất chất CFC và các chất hủy hoại tầng ôzôn khác; Từ năm 1995, Liên Hợp Quốc lấy ngày 16-9 hàng năm là ngày quốc tế bảo vệ tầng ôzôn. Tuy nhiên, trên thực tế thì mức “clo tự do” vẫn tiếp tục tăng cao hơn 8 so với dự tính, do đó việc khôi phục tầng ozone bình lƣu vẫn là một tiến trình lâu dài đòi hỏi nhiều nỗ lực của các quốc gia trên thế giới. Sự biến đổi của khí quyển thực sự đã trở thành mối quan tâm hàng đầu khi khí hậu Trái Đất có những diễn biến bất thƣờng. Ngày nay, sự biến đổi của khí quyển gia tăng nhanh chóng, trong đó có biến đổi khí hậu. Vậy biến đổi khí hậu là gì? Có khái niệm cho rằng biến đổi khí hậu là sự biến đổi trạng thái của khí hậu so với trung bình và/hoặc dao động của khí hậu duy trì trong một khoảng thời gian dài, thường là vài thập kỷ hoặc dài hơn. Biến đổi khí hậu có thể là do các quá trình tự nhiên bên trong hoặc các tác động bên ngoài, hoặc do hoạt động của con người làm thay đổi thành phần của khí quyển hay trong khai thác sử dụng đất [30]. Một khái niệm khác cũng đƣợc sử dụng rất phổ biến, cho rằng biến đổi khí hậu là sự thay đổi của hệ thống khí hậu bao gồm cả khí quyển, sinh quyển, địa quyển, thủy quyển bởi các nguyên nhân tự nhiên (động đất, núi lửa, hoạt động của các hành tinh, các tia vũ trụ,… ) và nhân tạo (hoạt động sản xuất và tiêu dùng của con người [15]. Biểu hiện của biến đổi khí hậu chính là sự nóng lên của trái đất hay còn gọi là hiệu ứng nhà kính (Greenhouse effect). Khí quyển vốn đóng vai trò chủ yếu trong việc điều chỉnh nhiệt độ của trái đất. Khả năng truyền nhiệt và giữ nhiệt của bầu khí quyển tƣơng tự nhƣ tấm kính mà ánh sáng xuyên qua nhƣng nhiệt đƣợc giữ lại [18, tr.53]. Khả năng này tồn tại nhờ vào vai trò của CO2 và hơi nƣớc có trong khí quyển. Tuy nhiên, lƣợng khí CO2 và một số khí khác ngày một tăng lên trong khí quyển khiến cho khả năng truyền và giữ nhiệt của khí quyển cũng tăng theo, kết quả là nhiệt độ trái đất bị nóng lên. Đó chính là hiệu ứng nhà kính. Trên thực tế, các nghiên cứu khoa học cho thấy nhiệt độ trung bình của trái 9 đất đang gia tăng không ngừng. Con ngƣời cũng cảm nhận đƣợc hiện tƣợng mùa hè nắng nóng gay gắt hơn so với trƣớc đây. Nhƣ vậy, khí hậu Trái Đất đang và sẽ tiếp tục nóng lên. Vấn đề là con ngƣời phải làm gì để giảm thiểu khả năng này và tìm cách thích ứng với tình hình đang ngày một bi đát. Bên cạnh sự nóng lên của trái đất, biểu hiện khác của biến đổi khí hậu, đó là hiện tượng thiên tai nhƣ bão, lũ lụt, hạn hán,… cũng đang xảy ra trầm trọng ở nhiều nơi trên thế giới. Khi trái đất nóng lên, băng sẽ tan nhanh chóng khiến nƣớc biển dâng và đe dọa cuộc sống của con ngƣời cũng nhƣ sự sống của các sinh vật khác trên thế giới. Đông Nam Á là một trong những khu vực chịu nhiều tác động xấu từ vấn đề biến đổi khí hậu. Philippines là nƣớc điển hình phải hứng chịu nhiều trận bão đổ từ Thái Bình Dƣơng với nhiều hậu quả nghiêm trọng. Indonesia là quốc gia bị tác động nặng nề từ các đợt sóng thần. Việt Nam những năm gần đây cũng phải đối mặt với sự thay đổi theo hƣớng ngày càng xấu đi của khí hậu. Nhiệt độ gia tăng khiến nắng nóng gay gắt kéo dài ở nhiều vùng trong cả nƣớc, gây hạn hán cho một số khu vực trồng trọt và chăn nuôi. Đặc biệt, những năm gần đây bão có cƣờng độ mạnh xuất hiện nhiều hơn ở Việt Nam khiến chính phủ và ngƣời dân gặp nhiều khó khăn trong công tác thích ứng và đối phó. Ở châu Phi và châu Á, nạn hạn hán cũng xảy ra ngày càng phổ biến, điển hình là tại Bangladesh và Ấn Độ. Nhiều ngƣời dân ở hai châu lục này bị thiếu nƣớc trầm trọng để phục vụ cho sinh hoạt cũng nhƣ sản xuất. Ngoài ra, gần đây các nhà khoa học đã tìm hiểu đƣợc bản chất vật lý của hiện tượng El Nino cũng có liên quan tới biến đổi khí hậu. Một trong các biểu hiện chính của El Nino là nhiệt độ mặt nƣớc biển tăng lên vài độ C so với trung bình trên một vùng biển rộng lớn vùng cận xích đạo trung tâm Thái Bình Dƣơng kéo theo các thay đổi trên quy mô toàn cầu, và đó là nguyên nhân của nhiều thiên tai bất thƣờng trên thế giới [2, tr.60]. Từ xa xƣa trong 10 lịch sử, hiện tƣợng El Nino đã xảy ra nhiều lần, nhƣng con ngƣời chƣa nhận biết đƣợc bản chất của nó. Cho đến những năm gần đây, khi nghiên cứu về sự biến đổi của khí hậu, ngƣời ta mới phát hiện ra, một phần tác nhân của El Nino là do sự nóng lên của nhiệt độ trái đất. Nhƣ vậy, khi đề cập tới biến đổi khí hậu, vấn đề đáng lo ngại nhất hiện nay là hiện tƣợng nóng lên của Trái Đất và các tác hại kéo theo sau đó. Nhiệt độ của Trái Đất đang ngày một nóng dần lên có liên quan trực tiếp tới sự biến đổi của bầu khí quyển. Khi bầu khí quyển bị tác động và thay đổi, các hiện tƣợng cực đoan lần lƣợt bộc lộ, nhƣ lỗ thủng tầng ozone hay hiện tƣợng El Nino. Không chỉ vậy, khí hậu thay đổi còn làm xuất hiện hiện tƣợng tan nhanh băng ở Bắc và Nam cực cũng nhƣ các sông băng trên thế giới. Hiện tƣợng này làm cho mực nƣớc biển dâng khiến mƣa, bão lụt, hán hán và hàng loạt các thiên tai với hậu quả vô cùng nghiêm trọng khác liên tiếp xảy ra. Tiếp theo đó, các đảo quốc và các nƣớc có bờ biển thấp nhƣ Tuvalu, Bangladesh sẽ bị nhấn chìm dƣới đáy biển, trong khi một số nơi khác lại chịu cảnh hạn hán. Tình trạng này sẽ gây ra những ảnh hƣởng nghiêm trọng tới an ninh con ngƣời, đặc biệt là an ninh lƣơng thực, do môi trƣờng sinh thái bị đảo lộn, canh tác nông nghiệp bị giảm sút. Biến đổi khí hậu thực sự đã trở thành mối đe dọa lớn đối với nhân loại. Với những biểu hiện và hậu quả của biến đổi khí hậu, loài ngƣời không thể phủ nhận đƣợc thực tế là vấn đề này đang tồn tại nhƣ một vấn đề toàn cầu vô cùng nan giải. Một trong những đặc điểm quan trọng của biến đổi khí hậu chính là quy mô toàn cầu của vấn đề. Bầu khí quyển của trái đất không phân biệt nguồn phát thải khí nhà kính theo quốc gia hay khu vực. Một tấn khí nhà kính đƣợc phát thải ra ở một nƣớc châu Phi hay ở một nƣớc châu Mỹ thì cũng giống nhau về khối lƣợng cũng nhƣ tầm ảnh hƣởng. Việc phát thải ở một nƣớc hoàn toàn có thể gây 11 ảnh hƣởng ở một nƣớc khác. Nếu nƣớc này nỗ lực làm sạch bầu khí quyển nhƣng nƣớc khác lại thải chất độc hại một cách thiếu kiểm soát, thì mọi cố gắng cứu vãn vấn đề cũng trở nên vô ích. Điều đó nói lên rằng không một quốc gia nào có thể đơn phƣơng chiến đấu chống lại biến đổi khí hậu. Việc phối hợp hành động là bắt buộc. Con ngƣời đang phải đối mặt với một thực tế khó khăn: Hoặc là hợp sức lại, hoặc là bị tách rời và tự tiêu diệt. Biến đổi khí hậu diễn ra trên quy mô toàn cầu và đe dọa lợi ích cơ bản của hầu hết các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Nếu không hành động kịp thời, biến đổi khí hậu có thể chặn đứng và đẩy lùi quá trình phát triển của con ngƣời. Lợi ích cơ bản của các quốc gia, dân tộc bị đe dọa thông qua các tác động của biến đổi khí hậu đối với an ninh lƣơng thực, các vấn đề về nƣớc, nguy cơ thiên tai, các vấn đề sức khỏe, …và các hệ lụy gián tiếp khác. Khí hậu biến đổi khiến việc sản xuất nông nghiệp bị tác động tiêu cực và sản lƣợng suy giảm ở nhiều khu vực trên thế giới. Ở các nƣớc nghèo, hạn hán và lụt lội làm tăng tỉ lệ nghèo đói ở các vùng nông thôn. Các nƣớc giàu phải chịu hậu quả gián tiếp khi buộc phải cắt giảm số lƣợng lƣơng thực dự trữ. Tình trạng bất an ninh về nƣớc cũng khiến cho ngƣời dân ở nhiều nơi trên thế giới phải khốn đốn. Nhiều ngƣời dân ở vùng Sừng của châu Phi phải mất hàng tiếng đồng hồ để mang đƣợc nƣớc sinh hoạt về cho gia đình. Vấn đề sức khỏe cũng nghiêm trọng không kém khi các căn bệnh gây tử vong xuất hiện ngày càng nhiều do tác động của biến đổi khí hậu, ví dụ nhƣ bệnh sốt rét, sốt xuất huyết và các loại bệnh mới khác. Chính phủ nhiều nƣớc đang chuẩn bị xây dựng hệ thống y tế công cộng để đối phó với các biến động khí hậu trong tƣơng lai, ví dụ nhƣ đợt nóng ở châu Âu vào năm 2003 và thời tiết cực đoan vào mùa hè và mùa đông [19, tr.10]. Lợi ích cơ bản của các quốc gia vẫn đang tiếp tục bị đe dọa khi biến đổi khí hậu khiến cho cuộc sống của con ngƣời ngày càng trở nên khắc nghiệt và tất 12 yếu dẫn tới những tranh chấp, xung đột. Ngay đất và nƣớc là những nguồn tài nguyên thiên nhiên tƣởng chừng nhƣ vô tận nhƣng nay cũng trở thành khan hiếm. Những quốc đảo vô cùng xinh đẹp đang chìm dần xuống lòng biển sâu. Rồi những ngƣời dân vốn sinh sống ở đó sẽ đi đâu về đâu? Biến đổi khí hậu chắc chắn sẽ làm tăng lƣợng ngƣời di cƣ do suy thoái môi trƣờng và do điều kiện kinh tế. Theo số liệu của Liên hợp quốc năm 1996, sự di cƣ vì sinh thái đã lên tới 26 triệu ngƣời và 173 triệu ngƣời đang bị đe dọa phải rời bỏ nơi “chôn rau cắt rốn”[24, tr.161]. Mà di cƣ đã từ lâu bị coi là một trong những mầm mống của bất ổn xã hội. Đó là vấn đề lớn mà các quốc gia sẽ phải đối mặt. Lợi ích kinh tế không chỉ bị ảnh hƣởng rõ rệt ở các nƣớc nghèo, mà ngay cả các nƣớc giàu cũng phải chi những khoản tiền không nhỏ cho việc đối phó với biến đổi khí hậu. Tổng thống Mỹ Barack Obama đã dự định đầu tƣ 80 tỷ đô la cho các chƣơng trình sản xuất năng lƣợng tái tạo nhằm cứu vãn nền kinh tế vốn phụ thuộc nặng nề vào carbon của Mỹ [4, tr.18]. Ở Trung Quốc, ô nhiễm do đốt than đang ngày càng trầm trọng. Là nƣớc sản xuất và tiêu thụ than đá lớn nhất thế giới, Trung Quốc phải chi khoảng 95 tỷ đô la Mỹ mỗi năm để giải quyết các vấn đề về môi trƣờng [24, tr.152]. Nhiều nƣớc hiện đang đầu tƣ đáng kể vào việc thiết lập cơ sở hạ tầng nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu. Nƣớc Anh đang chi 1,2 tỷ đô la mỗi năm cho công tác phòng chống lũ lụt. Hà Lan đang xây dựng nhà ở có thể nổi trên mặt nƣớc khi lũ lụt kéo đến. Ở Thụy Sĩ, ngƣời ta đang thiết kế và chế tạo máy phun tuyết nhân tạo cho ngành trƣợt tuyết trên núi [19, tr.14]. Trên thực tế, cái giá phải trả cho việc phát triển nền kinh tế toàn cầu là quá đắt khi hiện nay hàng triệu ngƣời nghèo bị cƣớp đi miếng ăn, chỗ ở và thế hệ tƣơng lai thì đang tiến tới một hành tinh suy kiệt vì biến đổi khí hậu. Các vấn đề an ninh con ngƣời luôn có mối quan hệ tƣơng tác chặt chẽ với nhau. Khi một vấn đề nảy sinh và không đƣợc giải quyết thì tất yếu những vấn 13 đề khác sẽ kéo theo hàng loạt. Biến đổi khí hậu làm nảy sinh các vấn đề an ninh khác nhau và ngƣợc lại, các vấn đề toàn cầu khác lại gây khó khăn cho việc khắc phục biến đổi khí hậu. Lợi ích quốc gia và quốc tế vì thế bị chi phối bởi một vòng luẩn quẩn, trong đó biến đổi khí hậu vẫn đang là thách thức an ninh phi truyền thống đáng lƣu tâm bậc nhất hiện nay. Để ổn định khí hậu toàn cầu, không còn cách nào khác ngoài hợp tác quốc tế đối phó với vấn đề. Thực tế cho thấy, những nƣớc chịu ảnh hƣởng nặng nề nhất từ biến đổi khí hậu lại là những nƣớc đóng góp lƣợng phát thải khí độc hại ít hơn so với những nƣớc khác. Nƣớc Mỹ, dù chỉ chiếm khoảng 5% dân số thế giới nhƣng đã đóng góp tới hơn một phần tƣ lƣợng khí hiệu ứng nhà kính toàn cầu. Trong khi đó, 20% số dân từ những nƣớc có lƣợng phát thải thấp nhất chỉ đóng góp 2% lƣợng phát thải toàn cầu. Nhƣ vậy, bầu khí quyển rõ ràng không thể bị giới hạn mức ô nhiễm theo đƣờng biên giới. Tƣơng tự, làm sạch bầu khí quyển cũng không phân biệt quốc gia hay khu vực. Khi một nƣớc góp phần ngăn chặn ô nhiễm khí quyển thì cả thế giới sẽ có bầu khí quyển trong lành hơn. Khi cả hành tinh cùng bắt tay nhau làm việc đó, thì nhiệt độ trái đất chắc chắn sẽ giảm. Ngƣợc lại, chỉ cần một quốc gia không chịu chung tay góp sức, thì nỗ lực của hầu hết toàn nhân loại cũng có thể không đạt mục tiêu. Khả năng ứng phó với biến đổi khí hậu của mỗi quốc gia là khác nhau, nếu không có sự hợp tác, tƣơng trợ lẫn nhau thì các nƣớc nghèo sẽ không đủ tiềm lực để chống chọi lại tác động của biến đổi khí hậu. Trong khi ở các nƣớc phát triển, ngƣời ta chỉ cần bật điều hòa khi trời nóng và xây dựng hệ thống phòng chống lụt công phu khi phải đối mặt với nguy cơ ngập lụt, thì ở các nƣớc nghèo, bão lũ, thiên tai vẫn cƣớp đi hàng nghìn sinh mạng, xóa sạch hàng trăm ngôi nhà và chôn vùi tất cả mùa màng trong biển nƣớc. Các nƣớc giàu đã hỗ trợ 14 hàng tỷ đô la Mỹ để giúp các nƣớc nghèo chống lại tác động của biến đổi khí hậu, nhƣng dƣờng nhƣ mọi sự trợ giúp vẫn chƣa đủ khi ảnh hƣởng của biến đổi khí hậu vẫn đang ngày càng gia tăng. Con ngƣời trên toàn bộ hành tinh này vốn có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau về sinh thái. Cùng chung sống dƣới một bầu khí quyển, loài ngƣời là một cộng đồng không thể tách rời trong cuộc chiến chống lại biến đổi khí hậu. Ngày nay, thế giới bị phân cách thành nhiều thế giới khác nhau, ở đó có thế giới của ngƣời giàu, thế giới của ngƣời nghèo, thế giới của những ngƣời yêu hòa bình và cả thế giới của những kẻ hiếu chiến. Trong những thế giới ấy, hố sâu ngăn cách đã đƣợc tạo ra một cách vô hình nhƣng mãnh liệt, nó làm cho con ngƣời quên mất rằng họ chung sống trên một hành tinh và có mối liên hệ không thể tách rời. Họ quên mất là họ có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau về sinh thái. Khi một ngƣời Mỹ lái ô tô trên đƣờng, họ quên rằng họ đang góp phần khiến cho tình hình thiên tai ở châu Phi hay châu Á thêm trầm trọng. Nếu nhƣ vào đầu những năm 70 của thế kỷ XX, vấn đề vẫn còn bị coi nhẹ trong tƣ duy về sự phát triển, thì ngày nay, nó là vấn đề đƣợc đặt lên hàng đầu trong các chƣơng trình nghị sự. Biến đổi khí hậu thực sự đã trở thành vấn đề toàn cầu cấp bách hơn bao giờ hết. 1.1.2. Nguyên nhân Nguyên nhân của biến đổi khí hậu xuất phát từ một số yếu tố khác nhau, nhƣng yếu tố lớn nhất và chắc chắn nhất chính là con ngƣời, cụ thể là con ngƣời với các hoạt động công nghiệp, giao thông, tiêu dùng,… nằm trong sự phát triển kinh tế xã hội. Bên cạnh sự phát triển kinh tế xã hội, con ngƣời với sự kém nhận thức, quản lý thiếu hiệu quả và tính ích kỷ cũng khiến tình hình càng trở nên trầm trọng. 15 Liên quan đến sự phát triển kinh tế xã hội, công nghiệp là yếu tố mạnh mẽ nhất góp phần làm biến đổi bầu khí quyển. Kể từ cuộc Cách mạng Công nghiệp, lƣợng carbon đƣợc thải vào bầu khí quyển đã tăng gấp đôi so với trƣớc đó. Carbon đƣợc sản sinh ra thông qua quá trình đốt các nhiên liệu nhƣ gỗ, than đá, dầu mỏ và khí tự nhiên. Mà hầu hết các ngành công nghiệp đều sử dụng các loại nhiên liệu này nhƣng chƣa từng có một cơ chế pháp lý nào nào đủ mạnh mẽ để ngăn chặn quá trình gây ô nhiễm do hoạt động công nghiệp gây ra. Theo báo cáo của Ủy ban Liên chính phủ về biến đổi khí hậu toàn cầu IPCC thì kết quả nghiên cứu cho thấy từ năm 1750 trở về trƣớc, tức là thời kỳ tiền công nghiệp, hàm lƣợng CO2 đo đƣợc là 280ppm [25]. Với hàm lƣợng CO2 nhƣ vậy, nhiệt độ trung bình của trái đất đƣợc giữ ở mức ổn định. Hàm lƣợng đó đƣợc coi là hàm lƣợng cân bằng - cứ 1 phân tử CO2 trộn với 1 triệu phân tử khí quyển trong đơn vị hàm lƣợng 1ppm. Đến năm 2005, hàm lƣợng CO2 đo đƣợc là 379 ppm [25]. Theo cách tính toán nhƣ vậy thì lƣợng CO2 trong bầu khí quyển đã tăng rất nhanh và trái đất nóng lên rất nhiều so với thời kỳ tiền công nghiệp. Chỉ tính từ năm 1906 đến năm 2005, nhiệt độ trung bình toàn cầu đã tăng 0,74oC. Một ƣớc tính khác với kết quả gây kinh hoàng cho những ai quan tâm tới vấn đề, cho rằng trong khoảng thời gian từ 1945 đến 1975, các nhà máy năng lƣợng, các công xƣởng và ô tô đã bơm vào không khí khoảng 186 tỉ tấn carbon, nhiều gấp ba lần so với tất cả các thời gian trƣớc đó [18, tr.54]. Cho dù có giả thuyết cho rằng khí carbon đƣợc thải vào bầu khí quyển sẽ quay lại biển và nhập vào các chất hữu cơ có trong lòng đất, thì giả thuyết này cũng không nhiều tính thuyết phục vì nó không phủ nhận đƣợc thực tế là lƣợng carbon trong khí quyển vẫn đang ngày càng gia tăng. Rõ ràng khả năng tự cân bằng của bầu khí quyển không thể vƣợt qua đƣợc sức phá hủy của con ngƣời. 16 Bên cạnh hoạt động công nghiệp, hoạt động giao thông cũng đang là một trong các nguồn gây ô nhiễm không khí nghiêm trọng. Phƣơng tiện giao thông cá nhân là đối tƣợng tiêu thụ dầu lửa lớn nhất thế giới và cũng là nguồn phát thải khí CO2 gia tăng nhanh nhất. Năm 2004, ngành giao thông thải ra 6,3 tỷ tấn CO2 [19, tr.141]. Một tính toán cho thấy ngành ô tô đóng góp khoảng 30% lƣợng khí phát thải ở các nƣớc phát triển – và tỷ lệ này vẫn đang tăng lên [19, tr.12]. Ở Mỹ, một số lƣợng xe ô tô hùng hậu hàng trăm triệu chiếc lƣu thông trên đƣờng suốt ngày đêm đã góp phần làm cho quốc gia này trở thành “cƣờng quốc về khí thải”. Ở châu Âu, riêng Liên minh châu Âu đã giảm đƣợc 1% tổng lƣợng phát thải khí nhà kính, tuy nhiên phát thải từ giao thông đƣờng bộ lại tăng 26% tính từ năm 1996. Còn ở một nƣớc đang phát triển nhƣ Việt Nam, tính đến năm 2010, cả nƣớc có khoảng 24 triệu chiếc xe mô tô và xe gắn máy theo số liệu của Cục Đăng kiểm Việt Nam. Số lƣợng xe ô tô cũng tăng lên nhanh chóng trong những năm gần đây. Tuy nhiên, vì công nghệ còn lạc hậu nên ở Việt Nam hầu hết các phƣơng tiện giao thông chƣa đƣợc cải tiến về động cơ để tiết kiệm nhiên liệu. Hơn nữa, các phƣơng tiện đã cũ với lƣợng phát thải quá khủng khiếp vẫn không ngừng lƣu thông trên đƣờng phố. Nhƣ vậy, giao thông dù ở đâu trên thế giới vẫn luôn là một trong những nguyên nhân chính gây ra ô nhiễm và thải khí CO2 vào bầu khí quyển. Do đó, các chính phủ đang tích cực khuyến khích ngƣời dân sử dụng các phƣơng tiện giao thông ít gây ô nhiễm môi trƣờng. Các hệ thống giao thông công cộng đƣợc mở rộng, các loại xe ô tô đốt nhiều nhiên liệu dần dần bị loại bỏ ở các thành phố lớn trên thế giới. Tuy vậy, các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm giao thông vẫn chƣa đạt kết quả khả quan. Sự phát triển kinh tế xã hội cũng làm tăng nhanh các hoạt động tiêu dùng và gây ô nhiễm bầu khí quyển. Quá trình đô thị hóa gia tăng, lƣợng cƣ dân tập trung đông đúc ở các thành phố đã đóng góp tới 75% lƣợng CO2 toàn cầu 17 [18, tr.54]. Ở các nƣớc thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế OECD, khoảng 1/3 lƣợng điện sản xuất đƣợc là sử dụng vào hệ thống sƣởi ấm và làm mát, tủ lạnh gia đình, lò nƣớng, đèn điện và các thiết bị gia đình khác [19, tr.139]. Nhƣ vậy, nhu cầu tiêu dùng càng lớn thì lƣợng phát thải vào bầu khí quyển càng tăng cao. Ngoài công nghiệp, giao thông, tiêu dùng còn có các hoạt động khác của con ngƣời trong mục tiêu phát triển kinh tế đã làm trầm trọng thêm tình hình vốn bi quan của bầu khí quyển. Tiêu biểu cho các hoạt động đó là việc chuyển đổi sử dụng đất. Trong việc sử dụng đất thì nạn chặt phá rừng là nguồn phát thải carbon lớn nhất. Hiện tƣợng đốt rừng, chặt phá rừng bừa bãi đã làm thoát lƣợng carbon lớn lƣu giữ trong lòng đất vào bầu khí quyển và làm giảm khả năng lƣợng CO2 đƣợc hấp thụ. Theo IPCC, lƣợng CO2 bắt nguồn từ chặt phá rừng chiếm từ 11% đến 28% tổng lƣợng phát thải [19,tr.44]. Rõ ràng cái giá phải trả cho phát triển kinh tế toàn cầu là quá đắt. Con ngƣời đã đặt lợi ích kinh tế lên trên hết, và cái vốn cho nền kinh tế đều đƣợc lấy từ thiên nhiên, thậm chí hành động đó đƣợc gọi là vay mƣợn của thế hệ tƣơng lai. Phải chăng con ngƣời đã tiêu lạm vào vốn quá nhiều để rồi phải trả giá. Nếu cứ tiếp tục theo đuổi mục tiêu kinh tế mà bỏ qua mục tiêu phát triển bền vững, thì chắc chắn những nỗ lực thúc đẩy phát triển kinh tế thế giới sẽ kéo lùi sự phát triển của nhân loại thông qua việc hủy hoại môi trƣờng nói chung và bầu khí quyển nói riêng. Chỉ đổ lỗi cho riêng sự phát triển kinh tế xã hội thôi thì chƣa đủ, mà còn phải kể đến một số nguyên nhân khác nhƣ sự nhận thức, quản lý kém hay tính ích kỷ của con ngƣời. Đầu tiên là sự nhận thức còn chủ quan, chƣa rõ ràng hoặc lệch lạc. Con ngƣời nói chung đã nhận thức sai lầm trong một thời gian dài về thế giới tự nhiên và mối quan hệ giữa con ngƣời và tự nhiên. Họ đã từng hiểu rằng tài nguyên 18 thiên nhiên là vô tận, tài nguyên có khả năng tự phục hồi, hay con ngƣời đủ khả năng chế ngự thiên nhiên bằng khoa học tiên tiến và hiện đại. Nhƣng đến nay, thực tế đã chứng minh điều ngƣợc lại khi tài nguyên cứ cạn kiệt dần, công nghệ xử lý rác không theo kịp tốc độ sản sinh rác và sự tiến bộ của khoa học công nghệ đang bất lực trƣớc sự nóng lên của khí hậu toàn cầu. Theo dự báo của Cơ quan phát triển Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu, Việt Nam sẽ là một trong bốn quốc gia chịu ảnh hƣởng nặng nề nhất từ biến đổi khí hậu. Thế nhƣng hầu hết ngƣời dân Việt Nam ở những vùng chịu ảnh hƣởng nhiều nhất lại không biết gì về biến đổi khí hậu. Ở Đồng bằng sông Cửu Long, ngƣời nông dân không biết hiệu ứng nhà kính hay lỗ thủng tầng ozone là gì, nhƣng nỗi lo đã hằn rõ trên gƣơng mặt họ về những cánh đồng lúa vốn khô nƣớc lại bị ngập mặn. Họ chỉ nhìn thấy một thực tế duy nhất là thiên nhiên đang ngày càng khắc nghiệt hơn. Còn ở một số nơi thuộc châu Phi, ngƣời dân chỉ biết hạn hán là hiện tƣợng do trời đất, không thuộc trách nhiệm của con ngƣời. Họ không hiểu gì về tính hệ thống của tự nhiên. Vấn đề gia tăng dân số cũng thuộc về sự kém nhận thức của con ngƣời. Ngƣời dân ở nhiều nơi trên thế giới không nhận thức đƣợc mối quan hệ giữa gia tăng dân số và mức độ suy giảm của chất lƣợng bầu khí quyển. Dân số tăng gấp bốn lần trong một thế kỷ khiến chính con ngƣời phải giật mình. Một thống kê cho thấy, trƣớc năm 1800, bình quân dân số tăng 0,38 triệu ngƣời/năm thì đến thời hiện đại, tốc độ này là 70-80 triệu ngƣời/năm [18, tr.68]. Tăng dân số là một trong những nguyên nhân chính của mất cân bằng sinh thái do nhu cầu tiêu thụ tăng, rác thải tăng và việc khai thác tài nguyên tăng để phục vụ cho yêu cầu phát triển công nghiệp và dịch vụ. Ngoài ra việc dân số ngày càng đông đảo khiến việc quản lý tốt môi trƣờng cũng khó khăn hơn. 19 Bên cạnh sự mù mờ trong nhận thức thì nhận thức chủ quan của con ngƣời cũng là nguyên nhân tất yếu của biến đổi khí hậu. Điều này xuất phát từ những lý do chủ quan. Vì những lý do này mà mặc dù nhận thấy sự xuống cấp của chất lƣợng bầu khí quyển, nhƣng con ngƣời vẫn mặc nhiên tác động xấu lên nó. Với những mong muốn phát triển thái quá, những tắc trách trong sử dụng công nghệ, con ngƣời đã đƣa vào bầu khí quyển biết bao khí thải độc hại. Hẳn nhiều ngƣời đã biết đến và chƣa quên vụ cháy lò phản ứng ở Chernobyl (Ucraina) năm 1986. Chỉ vì mong muốn đuổi kịp các nƣớc phƣơng Tây của Liên Xô mà nƣớc này cho xây dựng những nhà máy điện nguyên tử giá rẻ nhƣng lại thiếu an toàn, kết quả là vụ cháy nổ vô cùng bi thảm. Hay nhƣ vụ kiện “chất độc màu da cam” mà dƣ luận vẫn đang quan tâm, không chỉ gây công phẫn vì những di chứng đau lòng cho nhiều thế hệ ngƣời Việt Nam, mà còn bởi những hậu quả xấu đối với môi trƣờng nói chung và bầu khí quyển nói riêng. Việc sản xuất và sử dụng chất diệt cỏ trong trƣờng hợp này có thể đƣợc coi là tắc trách trong sử dụng công nghệ. Ngoài ra, những bất cẩn trong hoạt động của con ngƣời và sự coi nhẹ vấn đề biến đổi khí hậu của những ngƣời có trách nhiệm cũng là những nguyên nhân gây phiền toái. Thảm họa Bohpal xảy ra năm 1984 tại Ấn Độ là một ví dụ điển hình cho sự bất cẩn. Nhà máy này đã để rò rỉ khí Methyl Isocyanate (MIC) và các khí độc khác, làm 4.000 ngƣời chết và 600.000 ngƣời phơi nhiễm chỉ trong vài ngày. Các nhà lãnh đạo cũng chỉ hay chú trọng đến các thành tích phát triển kinh tế mà không tính đến những thiệt hại về khí hậu. Các báo cáo kinh tế hay các tiêu chí đánh giá sự phát triển đều không nhắc tới lƣợng khí độc hại mà các thành tích đạt đƣợc đã phải đánh đổi. Nhận thức chủ quan dẫn tới sự thiếu quan tâm tới việc cứu vãn vấn đề. Ở Hoa Kỳ, hiện tƣợng biến đổi khí hậu vẫn đƣợc số đông coi là một nguy cơ không 20 mấy nguy hiểm, còn lâu mới xảy ra, và khi xảy ra thì sẽ ảnh hƣởng trƣớc hết đến những con ngƣời ở những nơi rất xa cả về thời gian lẫn không gian [19, tr.72]. Còn tại Anh, Pháp, Đức, công chúng lại thể hiện thái độ hết sức bi quan khi tỉ lệ ngƣời đồng ý với nhận định rằng con ngƣời sẽ ngăn chặn đƣợc sự biến đổi khí hậu chỉ dao động từ 5% đến 10%. Ở riêng tại Đức, cứ 4 trong số 10 ngƣời đƣợc hỏi cho rằng dù chúng ta có cố gắng cũng vô ích và tình hình là không thể cải thiện đƣợc. Từ năm 1972, con ngƣời đã nhận thức về biến đổi khí hậu toàn cầu, nhƣng phải đến sau khi lần đầu tiên phát hiện lỗ thủng tầng ozone ở phía trên Nam cực và chiến tranh Lạnh chấm dứt thì vấn đề mới thực sự nóng bỏng. Quá trình nhận thức đó cũng không hẳn là quá muộn, nhƣng cho đến nay, việc giải quyết vấn đề dƣờng nhƣ còn chậm chạp. Việc nâng cao nhận thức của cộng đồng còn nhiều bất cập, nhất là ở các nƣớc đang phát triển. Nếu tình trạng kém nhận thức về vấn đề còn kéo dài thì biến đổi khí hậu sẽ khó đƣợc ngăn chặn. Ngoài nguyên nhân về nhận thức thì việc quản lý kém hiệu quả và sự ích kỷ cũng làm cho vấn đề khó giải quyết hơn. Xét trên cấp độ toàn cầu, thế giới vẫn chƣa có cơ chế quản lý chung trong vấn đề biến đổi khí hậu. Các thỏa thuận chƣa mang tính ràng buộc mà chủ yếu dựa vào sự tự nguyện. Xét trên cấp độ quốc gia, hầu hết các quốc gia còn thiếu quy hoạch trong khai thác, ý thức bảo vệ môi trƣờng chƣa phổ biến rộng rãi, luật pháp môi trƣờng chƣa đầy đủ và chƣa đƣợc chấp hành nghiêm,…dẫn tới ảnh hƣởng càng ngày càng trầm trọng bới biến đổi khí hậu. Ví dụ ở Việt Nam, hiện tƣợng chặt phá rừng bừa bãi vẫn còn phổ biến và chƣa có biện pháp kiểm soát đủ chặt chẽ. Nhiều nơi rừng bị phá mà chính quyền không hề biết. Hoạt động buôn lậu gỗ quý hiếm vẫn tồn tại dai dẳng. Nhìn chung, tổ chức cơ quan quản lý nhà nƣớc và địa phƣơng đều chƣa đáp ứng yêu cầu cấp bách của vấn đề. 21 Vấn đề quản lý vốn đầu tƣ vào ứng phó với biến đổi khí hậu vẫn còn bất cập. Hầu hết các quốc gia chịu ảnh hƣởng nặng nề nhất từ biến đổi khí hậu lại là những quốc gia nghèo nhất và cần đến sự trợ giúp quốc tế để ứng phó với vấn đề. Nhiều chuyên gia lo ngại nạn tham nhũng và việc sử dụng vốn thiếu hiệu quả ở các quốc gia này. Vì vậy, việc quản lý vốn chặt chẽ và thông minh hơn sẽ giúp làm giảm nguy cơ bị ảnh hƣởng bởi biến đổi khí hậu. Ngƣợc lại, việc quản lý vốn thiếu hiệu quả càng gây khó khăn cho việc ứng phó và ngăn chặn vấn đề. Những toan tính ích kỷ cá nhân cũng không kém phần nguy hiểm. Ví dụ nhƣ việc chuyển giao công nghệ cũ có hại cho bầu khí quyển từ các nƣớc giàu sang các nƣớc nghèo. Nhằm thu lợi nhuận và trút đƣợc sự độc hại sang các nƣớc khác, nhiều quốc gia giàu có đã lợi dụng luồng đầu tƣ ồ ạt trong thị trƣờng mở cửa để chuyển giao công nghệ lạc hậu. Ngoài ra, việc đe dọa, trả thù nhau giữa các quốc gia cũng góp một lƣợng không nhỏ CO2 vào khí quyển. Ví dụ việc đua nhau phát triển vũ khí hạt nhân và thử tên lửa hạt nhân để thị uy của một số quốc gia hay vụ Iraq đốt hơn 600 giếng dầu của Kuwait để trả thù sau chiến tranh vùng Vịnh là những điển hình cho sự ích kỷ của con ngƣời gây tổn thƣơng cho bầu khí quyển. Tóm lại, sự phát triển kinh tế xã hội bao gồm sự phát triển các ngành công nghiệp, giao thông, tiêu dùng, … và một số yếu tố khác nhƣ sự nhận thức, quản lý kém, tính ích kỷ, … là những nguyên nhân của biến đổi khí hậu. Tất cả những yếu tố đó đều nằm trong các hoạt động của con ngƣời. Ngày nay, khoa học đã chứng minh, biến đổi khí hậu chủ yếu là do con ngƣời gây ra và hậu quả mà chúng ta đang thấy hiện nay chính là những gì mà thiên nhiên đang đáp trả. 22
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất