Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hợp tác kinh tế việt nam asean và tác động của nó tới quá trình hội nhập kinh ...

Tài liệu Hợp tác kinh tế việt nam asean và tác động của nó tới quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của việt nam

.DOCX
166
3
69

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA KINH TẾ ----------------------- Đặng Thị Lan Anh HỢP TÁC KINH TẾ VIỆT NAM – ASEAN VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ TỚI QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM Chuyên ngành : Kinh tế thế giới và Quan hệ kinh tế quốc tế Mã số : 5.02.12 LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Trọng Xuân Viện Kinh tế Việt Nam Hà Nội – 2005 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1 Tính cấp thiết của đề tài. 2 Tình hình nghiên cứu. 3 Mục đích nghiên cứu. 4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 5 Phương pháp nghiên cứu. 6 Đóng góp của luận văn. 7 Nội dung và kết cấu của luận văn. PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG 1 CƠ SỞ KHÁCH QUAN CỦA HỢP TÁC KINH TẾ VIỆT NAM – ASEAN 1.1 Lý luận cơ bản về hợp tác kinh tế quốc tế. 1.1.1 Những vấn đề chung về hợp tác kinh tế quốc tế. 1.1.2 Xu hướng vận động hiện nay của nền kinh tế thế giới 1.1.3 Những nhân tố thúc đẩy hợp tác kinh tế quốc tế. 1.1.4 Một số cản trở trong hợp tác kinh tế quốc tế đối với c đang phát triển. 1.2 Sự cần thiết của hợp tác kinh tế Việt Nam - ASEA 1.2.1 Nhu cầu phát triển của ASEAN. 1.2.2 Nhu cầu phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế của Vi CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG HỢP TÁC KINH TẾ VIỆT NAM 2.1 Tổng quan về ASEAN và hợp tác Vi ệt Nam - ASE 2.1.1 Tổng quan về ASEAN. 2.1.2 Tổng quan về hợp tác Việt Nam – ASEAN 2.2 2.2.1 2.2.2 2.3 Một số lĩnh vực hợp tác kinh tế Việt Nam – ASEAN. Hợp tác thương mại Việt Nam - ASEAN. Hợp tác kinh tế của Việt Nam với các nước thành viên AS Một số nhận xét, đánh giá về hợp tác kinh tế Việt Nam – A 2.3.1 Vai trò của Việt Nam trong các hoạt động của ASEAN. 2.3.2 Một số nhận định về hợp tác kinh tế Việt Nam – ASEAN. CHƢƠNG 3 TÁC ĐỘNG CỦA HỢP TÁC KINH TẾ VIỆT NAM TỚI QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA 3.1 Một số tác động tới quá trình hội nhập kinh tế quốc tế 3.1.1 Một số tác động tích cực của hợp tác kinh tế Việt Nam – A 3.1.2 Những khó khăn, thách thức trong hợp tác Việt Nam – AS ảnh hưởng đến hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. 3.1.3 Hợp tác kinh tế Việt Nam – ASEAN góp phần thúc đẩy hợ các quốc gia, các tổ chức quốc tế và khu vực khác . 3.2 Giải pháp thúc đẩy quá trình hợp tác kinh tế quốc tế c 3.2.1 Giải pháp về môi trường thể chế. 3.2.2 Những giải pháp về chính sách công cụ. 3.2.3 Những giải pháp về đối tác. 3.2.3 Những giải pháp về doanh nghiệp. 3.2.4 Tăng cường công tác tổ chức và quản lý kinh tế đối ngoại. PHẦN KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ADB Ngân hàng phát triển Châu Á AFTA Khu vực mậu dịch tự do ASEAN AIA Khu vực đầu t tự do AICO Hợp tác công nghiệp ASEAN APEC Tổ chức hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dơng ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEM Tổ chức hợp tác Á - Âu CAFTA Khu vực thơng mại tự do Trung Quốc - ASEAN CEPT Chơng trình u đãi thuế quan có hiệu lực chung EU Liên minh Châu Âu GDP Tổng sản phẩm quốc nội IMF Quỹ tiền tệ quốc tế TNC Các công ty xuyên quốc gia USD Đồng Đôla Mỹ WB Ngân hàng thế giới WTO Tổ chức thơng mại thế giới XHCN Xã hội chủ nghĩa 1 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những thập kỷ gần đây, hợp tác kinh tế quốc tế theo hướng khu vực hóa – toàn cầu hóa đang cuốn hút tất cả các quốc gia trên toàn thế giới tham gia và đã trở thành xu thế chủ đạo của kinh tế thế giới. Các khu vực, tổ chức liên kết kinh tế trên thế giới được hình thành như WTO, EU, NAFTA, AFTA… là kết quả tất yếu của xu thế đó. Từ những năm 90 trở lại đây, với tác động to lớn của toàn cầu hóa và nhu cầu phát triển nội tại của khu vực, hợp tác kinh tế quốc tế đã trở thành yếu tố và động lực chính chi phối sự liên kết của các nước thành viên ASEAN. Sự gia tăng nhanh chóng của quá trình toàn cầu hóa về nguồn vốn đầu tư và thương mại đã mang lại cho các nước ASEAN cơ hội phát triển mới. Mức tăng trưởng kinh tế cao liên tục trong nhiều năm cùng với sự lớn mạnh trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và sự bùng nổ về ngoại thương đã thúc đẩy hầu hết các nước ASEAN tham gia nhanh hơn vào tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Sự lớn mạnh, tính hiệu quả và tốc độ mở rộng hợp tác kinh tế giữa các thành viên là cơ sở, là tiền đề quan trọng cho việc nâng cao vị thế của ASEAN trên trường quốc tế. Việt Nam tham gia và ngày càng khẳng định vai trò của mình trong hợp tác kinh tế của khối ASEAN không những tạo điều kiện cho phát triển kinh tế mà qua ASEAN, Việt Nam đã và sẽ có được những cơ hội quan trọng để tiến mạnh vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Mặt khác, nhờ những bước tiến đáng kể trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mà vị thế của Việt Nam trong ASEAN cũng như trên trường quốc tế ngày càng được khẳng định. 2. Tình hình nghiên cứu. Hợp tác kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế nổi bật trong bối cảnh toàn cầu hóa-khu vực hóa hiện nay. Quá trình hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới trong thời kỳ đổi mới của Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể và luôn thu hút được sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều người. Do điều kiện còn hạn chế, tác giả không thể tiếp cận được với toàn bộ những công trình nghiên cứu trong lĩnh vực 2 này. Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu đề tài với khả năng của mình tác giả đã có cơ hội tiếp cận, tham khảo một số công trình nghiên cứu như: - Tiến tới một ASEAN hòa bình, ổn định và phát triển bền vững. Tác giả: GS. TS. Nguyễn Duy Quý – NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội. 35 năm ASEAN hợp tác và phát triển. Tác giả: TS. Nguyễn Trần Quế (Chủ biên) – NXB Khoa học xã hội. - Sự điều chỉnh chiến lược hợp tác khu vực châu Á – Thái Bình Dương trong bối cảnh quốc tế mới. Tác giả: Nguyễn Xuân Thắng – NXB Khoa học xã hội. - Việt Nam – ASEAN quan hệ đa phương và song phương. Tác giả: Vũ Dương Ninh – NXB Chính trị Quốc gia. - Kinh tế các nước Đông Nam Á: thực trạng và triển vọng. Tác giả: Phạm Đức Thành và Trương Duy Hòa – NXB Chính trị Quốc gia. Ngoài ra, còn nhiều những bài báo, tạp chí, đề tài nghiên cứu khoa học khác. Mỗi công trình đều có đặc thù riêng, có công trình phân tích một cách tổ ng quát các mối quan hệ trong hợp tác quốc tế của khu vực. Có công trình tập trung vào những đặc trưng về kinh tế, chính trị, xã hội của các quốc gia ASEAN. Có công trình lại đi sâu phân tích việc thực hiện các chính sách thương mại trong quá trình hội nhập của khu vực. Có công trình chủ yếu nghiên cứu về tiến trình tham gia vào AFTA của Việt Nam… 3. Mục đích nghiên cứu. Kỳ vọng của tác giả là thông qua thực hiện luận văn để cố gắng trả lời câu hỏi: Hợp tác kinh tế Việt Nam –ASEAN đã tạo điều kiện gì và có tác động như thế nào đối với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam? Luận văn nêu ra bản chất của hợp tác kinh tế quốc tế để qua đó thấy được hợp tác kinh tế Việt Nam – ASEAN là cần thiết. Qua phân tích tình hình thực tiễn trong lĩnh vực ngoại thương và đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam với ASEAN, luận văn mong muốn làm sáng tỏ quan hệ hợp tác kinh tế với ASEAN như là một trong những nhân tố cơ bản thúc đẩy hội nhập kinh tế của Việt Nam. Trên cơ 3 sở phân tích những tác động của hợp tác kinh tế giữa Việt Nam – ASEAN luận văn đưa ra một số kiến nghị mang tính giải pháp thúc đẩy quá trình hội nhập của Việt Nam. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu. Từ khi thực hiện chính sách đổi mới, Việt Nam đã mở rộng quan hệ kinh tế song phương và đa phương với các quốc gia, tổ chức, khu vực trên nhiều lĩnh vực với nhiều hình thức hợp tác phong phú, linh hoạt, đa dạng. Trong số đó, luận văn chỉ chủ yếu phân tích đến hai lĩnh vực mà tác giả quan niệm là có vị trí quan trọng hơn cả đối với việc thúc đẩy quá trình hợp tác kinh tế quốc tế của Việt Nam, đó là lĩnh vực thương mại và đầu tư mà cụ thể là ngoại thương và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Những lĩnh vực khác được đề cập đến trong luận văn chỉ nhằm hỗ trợ, bổ sung cho việc phân tích, làm rõ bản chất hợp tác kinh tế quốc tế. Theo một khía cạnh nào đó, có thể nói quá trình hợp tác kinh tế quốc tế của Việt Nam chỉ thực sự bắt đầu “mở cửa” kể từ sau Đại hội Đảng VI (1986) và đến năm 1995 có những bước phát triển mạnh, đây là thời gian Việt Nam trở thàn h thành viên chính thức của ASEAN. Do vậy, sự khảo cứu của luận văn chủ yếu tập trung vào khoảng thời gian từ giữa thập kỷ 90 trở lại đây, những số liệu được đưa ra ngoài khoảng thời gian trên chỉ là những đối chứng cho quá trình phân tích, so sánh của luận văn. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu. Trong quá trình thực hiện đề tài, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp logic. Các kỹ thuật thống kê, tính toán, tổng hợp cũng được sử dụng nhiều để xử lý số liệu. Bên cạnh những phương pháp trên, luận văn dùng các phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu làm phương pháp chủ đạo trong khi tiếp cận và nghiên cứu đề tài dưới góc độ hợp tác kinh tế quốc tế. Từ đó, luận văn sẽ tham khảo và kế thừa một cách có chọn lọc những kết quả nghiên cứu khoa học có liên quan tới đề tài. 6. Đóng góp của luận văn. 4 Phân tích góp phần làm sáng tỏ thêm bản chất của hợp tác kinh tế quốc tế. - Đưa ra cách nhìn khái quát về hợp tác kinh tế khu vực ASEAN. Thông qua việc phân tích quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam với các nước thành viên ASEAN trên hai lĩnh vực ngoại thương và đầu tư trực tiếp (FDI) trong những năm qua tác giả mong muốn làm rõ thực chất và cập nhật những thông tin mới về quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với ASEAN. Từ đó, luận văn đưa ra một số nhận định về quan hệ hợp tác kinh tế Việt Nam – ASEAN phát triển theo hướng ngày càng thiết thực và hiệu quả hơn. - Qua phân tích những tác động tích cực của hợp tác kinh tế Việt Nam – ASEAN và những khó khăn, cản trở tới hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, luận văn đưa ra một số kiến nghị mang tính giải pháp cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. 7. Kết cấu của luận văn. Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục các tài liệu tham khảo, nộ i dung chính của luận văn được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Cơ sở khách quan của hợp tác kinh tế Việt Nam ASEAN. - Chương 2: Thực trạng hợp tác kinh tế Việt Nam – ASEAN. quá Chương 3: Tác động của hợp tác kinh tế Việt Nam – ASEAN tới trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. 5 CHƢƠNG 1 CƠ SỞ KHÁCH QUAN CỦA HỢP TÁC KINH TẾ VIỆT NAM - ASEAN 1.1 Lý luận cơ bản về hợp tác kinh tế quốc tế. 1.1.1 Những vấn đề chung về hợp tác kinh tế quốc tế. Hợp tác kinh tế quốc tế là phương thức chủ yếu để thực hiện các quan hệ kinh tế quốc tế. Hiểu theo nghĩa rộng, đó là những mối quan hệ (phân công, trao đổi, phối hợp, liên kết, bổ sung cho nhau, tác động lẫn nhau) một cách tự nguyện, chủ động, tích cực trong các hoạt động kinh tế giữa hai hay nhiều quốc gia và lãnh thổ mà ở đó các chủ thể tham gia cùng nhau chia sẻ những nguyên tắc, luật lệ và giá trị chung nhưng lại không mất đi bản sắc đặc trưng sẵn có của mình. Hợp tác kinh tế quốc tế được thực hiện dưới hình thức hợp tác song phương và hợp tác đa phương với nhiều nội dung như hợp tác sản xuất, hợp tác khoa học công nghệ, hợp tác thương mại, dịch vụ quốc tế. Xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế hiện nay đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của các quan hệ kinh tế quốc tế với những nội dung và hình thức hợp t ác phong phú, linh hoạt, mềm dẻo, năng động hơn. Hợp tác kinh tế quốc tế có vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế quốc gia, là điều kiện để thúc đẩy nền kinh tế thế giới phát triển. Hợp tác kinh tế quốc tế chỉ có thể tồn tại và phát triển khi nó tuân thủ các nguyên tắc cơ bản như: tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng độc lập chủ quyền. Trong những thập niên gần đây, xu hướng hợp tác theo hướng khu vực hóa đang là xu hướng phổ biến đem lại hiệu quả đáng kể cho sự phát triển của các quốc gia. Sự hợp tác này trước hết bắt nguồn từ nhu cầu nội tại, từ sự đòi hỏi bên trong của mỗi nước, nhằm tạo ra một thực thể mới, một bản sắc riêng của khu vực, mà mỗi quốc gia thành viên cùng góp sức xây dựng và chia sẻ. Thông thường, khi tham gia vào các liên kết kinh tế khu vực vị thế của các quốc gia thành viên trong cạnh tranh kinh tế được nâng lên rõ rệt. Mức độ tham gia vào quá trình hợp tác kinh tế khu vực nói riêng và hội nhập kinh tế quốc tế nói chung tùy thuộc vào trình độ phát triển và chính sách của từng quốc gia. Mục đích chung nhất của hợp tác kinh tế khu vực là các quốc gia hợp tác hỗ trợ nhau, từng bước xóa bỏ những cản trở thương mại tiến tới tự do hóa. 6 Những nỗ lực của họ biểu hiện sự di chuyển từng phần đến tự do hóa các nguồn lực (như vốn, lao động, hàng hóa, dịch vụ) giữa các nước thành viên. Và, mỗi quốc gia cố gắng đạt được những lợi ích nhất định từ một khối kinh tế mà ở đó những cản trở về biên giới quốc gia đã được giảm đi đáng kể. Xu thế chung hiện nay, không chỉ đối với khu vực mà ngay trên bản đồ kinh tế thế giới thì các đường biên giới quốc gia cũng đang bị mờ dần. Sự vận động của hợp tác kinh tế quốc tế đang có sự thay đổi đáng kể cả về nội dung và hình thức. Hình thức hợp tác đa phương đang tăng lên cả về tuyệt đối lẫn tương đối so với hợp tác song phương. Nếu như trước đây nhiều liên kết, hợp tác kinh tế được xuất phát từ những quan hệ chính trị thì hiện nay các quan hệ hợp tác kinh tế đang giảm dần sự can thiệp của chính trị là tương đối phổ biến. Tất nhiên, trong hợp tác đa phương với số lượng thành viên đông, tính mục tiêu, lợi ích… tương đối đa dạng nên nó thường mang tính phức tạp và có sự ràng buộc cao. Tùy vào mục tiêu phát triển mà mỗi quốc gia lựa chọn, đẩy mạnh hình thức hợp tác song phương hay đa phương. Đối với một số lĩnh vực cụ thể, khi mà hợp tác kinh tế đa phương bị ràng buộc phức tạp, ít hiệu quả thì người ta chọn hình thức hợp tác song phương như: các Hiệp định tự do thương mại xuyên châu lục được ký kết như giữa Singapo - Australia, Hàn Quốc - Chilê, Thái Lan - Ấn Độ, Thái Lan Australia, Australia - Mỹ. Các Hiệp định tự do thương mại này diễn ra cùng thời gian với hai lần thất bại mới nhất của WTO. Mặc dù phải nhượng bộ không ít trong các Hiệp định tự do mậu dịch song phương nhưng dường như các nền kin h tế châu Á đang coi đó là giải pháp để đảm bảo ổn định phát triển. Những cuộc đàm phán tay đôi về những lĩnh vực nhạy cảm này sẽ mở đường cho các vòng đàm phán đa phương và khu vực rộng mở hơn. Hợp tác kinh tế song phương vừa mang tính bổ sung cho hợp tác kinh tế đa phương nhưng đồng thời nó cũng chứa đựng những yếu tố mang tính nghịch gây ra cản trở nhất định cho tiến trình hợp tác đa phương. Các nước nhỏ thường có khuynh hướng xuất phát từ các hợp tác song phương và lấy đó làm cơ sở phát triển, mở rộng và dựa vào các quan hệ hợp tác kinh tế đa phương (như AFTA, WTO) để nâng cao vị thế và gia tăng thế thương lượng của mình trong cạnh tranh quốc tế. Tuy nhiên, khi mà nguồn lực dành cho phát triển đất nước còn hạn chế thì việc tạo điều 7 kiện cho những quan hệ hợp tác kinh tế song phương phát triển dù muốn hay không sẽ làm giảm nỗ lực cho việc thúc đẩy hợp tác kinh tế đa phương. Nhưng một quốc gia không thể chỉ dành ưu tiên tập trung cho một khuôn khổ hợp tác nào, trái lại phải đồng thời thực hiện sự hội nhập quốc tế trên nhiều cấp độ: song phương, khu vực và toàn cầu. Đây là sự kết hợp giữa lợi ích trước mắt và lâu dài, giữa lợi ích cục bộ và lợi tích toàn thể, và điều quan trọng hơn là tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia, các nước cần có những bước đi phù hợp. Hợp tác kinh tế song phương tuy có những lúc làm ảnh hưởng đến lộ trình chung, nhưng do hợp tác kinh tế song phương không đi ngược với tự do hóa và vẫn dựa trên các nguyên tắc hợp tác kinh tế đa phương, nên việc khắc phục khó khăn của vòng đàm phán đa phương bằng các hợp tác song phương trước mắt cũng là sự cần thiết, là giải pháp lách giữa dòng thương mại chật cứng để các nước thích ứng tốt nhất với các thay đổi của bối cảnh khu vực và quốc tế. 1.1.2 Xu hướng vận động hiện nay của nền kinh tế thế giới. 1.1.2.1 Toàn cầu hóa – khu vực hóa các hoạt động kinh tế thế giới đang là xu hướng phát triển phổ biến hiện nay. Thứ nhất, toàn cầu hóa - khu vực hóa kinh tế được biểu hiện nổi bật ở sự phát triển nhanh chóng của các quan hệ thương mại trên phạm vi thế giới. Việc gia tăng tốc độ buôn bán của thế giới là kết quả của tiến trình tự do hóa các chính sách thương mại được thực hiện ở hầu hết khắp các khu vực, các nước và được bổ sung mạnh mẽ bởi xu hướng tăng cường sự chu chuyển thương mại nội bộ tro ng các TNC. Thứ hai, trong nền kinh tế toàn cầu, quản lý vĩ mô dưới sự hỗ trợ của công nghệ thông tin trở thành yếu tố có tính chất quyết định tương lai phát triển của nó, đánh dấu sự phát triển toàn diện theo xu hướng mở và tự do hóa của nền kinh tế thế giới. Thứ ba, tính tương thuộc chặt chẽ giữa các nền kinh tế quốc gia, các hoạt động thương mại, đầu tư, tài chính đều được gia tăng mạnh mẽ và bắt buộc mọi nền kinh tế đều tham gia vào một kiểu thị trường thế giới thống nhất – một “sân chơi chung” bình đẳng cho mọi nền kinh tế. 8 Thứ tư, trong nền kinh tế toàn cầu, quốc gia dân tộc có chủ quyền không còn là chủ thể duy nhất có vai trò chế định chính sách kinh tế mà là sự tồn tại đồng thời của bốn chủ thể có thể đảm nhận vai trò này một cách hiệu quả. Đó l à: quốc gia dân tộc có chủ quyền, các khối kinh tế khu vực, các thể chế kinh tế quốc tế và các công ty xuyên quốc gia. Thứ năm, xu hướng khu vực hóa và hợp tác kinh tế quốc tế được đẩy mạnh hơn bao giờ hết. Về bản chất, xu hướng khu vực hóa và hợp tác kin h tế quốc tế là hiện thân của xu hướng tự do hóa về thương mại và đầu tư quốc tế và là những “vòng tròn đồng tâm” của tiến trình nhất thể hóa nền kinh tế thế giới. Với những đặc trưng trên, rõ ràng, toàn cầu hóa - khu vực hóa đang mở ra nhiều cơ hội cho mọi quốc gia dân tộc. Và đang trở thành tiền đề mang tính động lực cho sự phát triển của mỗi quốc gia. 1.1.2.2 Xu hướng thị trường hóa nền kinh tế thế giới thúc đẩy kinh tế thị trường mở cửa ở tất các các nền kinh tế quốc gia. Các thị trường quốc gia và khu vực có xu hướng gắn liền vào quỹ đạo của thị trường thế giới và theo đó phạm vi, dung lượng, hiệu quả của thị trường thế giới không ngừng mở rộng với một kết cấu nhiều tầng. Một số vấn đề nổi bật dưới đây cho thấy sự tác động mạnh mẽ của xu hướng này: + Tăng trưởng kinh tế của các quốc gia ngày càng gắn liền với thương mại quốc tế: Thương mại quốc tế vừa là đòn bẩy của tăng trưởng kinh tế, vừa là phương tiện để cung cấp các yếu tố đầu vào cho nền sản xuất. Tốc độ tăng trưởng của thương mại thế giới hiện đã cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng của kinh tế thế giới. Sự gia tăng này khẳng định vai trò của thương mại ngày càng lớn trong việc gắn kết mức tăng trưởng kinh tế giữa các nền kinh tế trên thế giới. + Sự gia tăng mạnh mẽ các luồng vốn đầu tư quốc tế và sự gắn kết chặt chẽ giữa thương mại và đầu tư quốc tế: Sự phát triển của giao lưu thương mại từ lâu đã đòi hỏi phải có sự phát triển của đầu tư quốc tế và phải dựa trên đầu tư quốc tế mới có hiệu quả. Các quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển muốn tăng trưởng nhanh và hiệu quả đều phải dựa vào đầu tư quốc tế, thực hiện theo hướng gắn kết chặt chẽ giữa các hoạt động thương mại – đầu tư quốc tế. 9 + Sự chiếm ưu thế của các chương trình tự do hóa thương mại khu vực: Xu hướng gia tăng mạnh mẽ của các quan hệ mậu dịch trong nội bộ khu vực cùng với sự hình thành các khối mậu dịch khu vực (như EU, OECD, NAFTA, AFTA.) cũng là một đặc điểm mới khác của nền thương mại thế giới ngày nay. Theo thống kê của Liên Hợp quốc, trong những năm 60 thế giới có khoảng 19 khối thị trường khu vực, cho đến tháng 6-2002 có khoảng 250 Hiệp định thương mại khu vực đã đăng ký, trong đó có 129 Hiệp định đăng ký sau ngày 1-1-1995. Hầu như mỗi nước đều tham gia tối thiểu vào một Hiệp định kiểu như vậy. Sự gia tăng của Hiệp định thương mại khu vực và sự hình thành các khối thị trường khu vực cho thấy, cùng với sự phát triển của quá trình toàn cầu hóa kinh tế và của hệ thống thương mại toàn cầu là sự gia tăng những mối quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế. Sự hình thành các khối mậu dịch khu vực trở thành một phương cách, một nấc thang cần thiết trên con đường đi đến một thế giới thống nhất. 1.1.2.3 Xu hướng hòa bình, ổn định, đối thoại và hợp tác vì sự tiến bộ và phát triển. Chiến tranh lạnh kết thúc đã mở ra một giai đoạn phát triển mới của nền kinh tế thế giới, giai đoạn mà mọi nền kinh tế đều thống nhất với nhau ở cơ chế vận hành – cơ chế thị trường. Trong khi quan hệ quốc tế lấy đối đầu chính trị - quân sự gặp nhiều tổn thất nặng nề thì phương thức lấy hợp tác và cạnh tranh kinh tế là chính lại gặt hái được nhiều thành quả tích cực. Bên cạnh đó, các nước lớn với tiềm lực sức mạnh kinh tế và quân sự hùng hậu, với tiếng nói có trọng lượng trên các diễn đàn quốc tế đang có những điều chỉnh chiến lược của mình theo chiều hướng xây dựng quan hệ chiến lược, ổn định và cân bằng. Ngày nay, phương thức đối thoại để giải quyết các vấn đề chung ngày càng phổ biến và mang lại hiệu quả cao hơn. Trước xu thế toàn cầu hóa kinh tế và sự hình thành thị trường thế giới thống nhất, các nước bị đặt trong sự tương thuộc lẫn nhau, quy định và chi phối nhau cho nên sự phát triển của nền kinh tế nước này là điều kiện cho sự phát triển của nền kinh tế các nước khác, bất kể đó là nền kinh tế lớn hay nhỏ. Theo đó, sự bất ổn ở một nước về chính trị, kinh tế, an ninh, môi trường sẽ hiển nhiên là mối lo chung của toàn nhân loại và các nước khác tất yếu sẽ tự nguyện tham gia vào các cuộc chia sẻ trách nhiệm trong khi xử lý các vấn đề quốc tế. 10 Vì vậy, tất cả các quốc gia đều tập trung điều chỉnh chiến lược phát triển, trong đó ưu tiên mọi sức lực cho công cuộc hợp tác và phát triển kinh tế. Đây chính là lý do khiến các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực không ngừng được mở rộng (EU, ASEAN/AFTA, APEC, NAFTA.), xu thế hợp tác giữa các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực ngày càng được tăng cường. 1.1.3 Những nhân tố thúc đẩy hợp tác kinh tế quốc tế. 1.1.3.1 Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ nhất đã diễn ra vào thế kỷ 18 với sự phát minh và ứng dụng rộng rãi máy hơi nước chính là bước đột phá quan trọng đầu tiên của nền đại công nghiệp máy móc đã dẫn đến sự biến đổi to lớn trong cơ cấu ngành nghề sản xuất. Vào giữa thế kỷ19, cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ hai bùng nổ đã tạo tiền đề mới cho sự phát triển của lực lượng sản xuất và hợp tác quốc tế. Nền sản xuất đã chuyển từ công nghiệp nhẹ sang nền công nghiệp nặng. Sự ứng dụng rộng rãi điện lực và sự phát minh ra động cơ đốt trong giúp cho loài người bước vào thời đại điện khí hóa. Cuộc cách mạng khoa học lần này đã làm cho quan hệ kinh tế quốc tế được mở rộng nhanh chóng, từ đó chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn tự do cạnh tranh phát triển lên một giai đoạn mới - giai đoạn độc quyền. Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, với sự phát triển như vũ bão của khoa học, kỹ thuật và công nghệ, thế giới bước vào hệ thống công nghệ thứ tư với nền cơ khí điện tử. So với hệ thống công nghệ trước đó, hệ thống công nghệ thứ tư có sự thay đổi về chất với việc thêm bộ phận điều khiển trong trong hệ thống công nghệ. Do tác động của các thành tựu khoa học, công nghệ, sự xóa bỏ của hệ thống thuộc địa và phụ thuộc, sản xuất đã có sự phát triển mạnh mẽ dựa trên sự phân công lao động quốc tế mới. Cùng với đó, các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa và tư bản phát triển mạnh, các hoạt động chuyển giao công nghệ, đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng được thực hiện góp phần thúc đẩy gia tăng xu hướng hợp tác các hoạt động kinh tế. 11 Bước sang thế kỷ 20, hàng loạt những khám phá mới trong thế giới vi mô và vĩ mô được thực hiện với những thiết bị nghiên cứu và thực nghiệm khoa học tinh vi hiện đại tạo nên cuộc cách mạng khoa học, công nghệ mới với nội dung chính là vai trò chi phối của công nghệ thông tin. Cơ sở vật chất của nền kinh tế thế giới chuyển sang một giai đoạn mới với bốn trụ cột chính là: công nghệ thông tin; công nghệ vật liệu mới; công nghệ sinh học; công nghệ về phát triển năng lượng nguyên tử an toàn và sạch đang trở thành những ngành sản xuất tiên phong chủ đạo của sự phát triển kinh tế, xã hội. Có thể nói, khoa học và công nghệ đã tác động đến mọi lĩnh vực của nền kinh tế, xã hội của thế giới, nó là cơ sở tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế – một trong những đặc trưng cơ bản của công nghệ hiện đại. Đây chính là một trong số các tiền đề thúc đẩy hoạt động giao lưu, hợp tác kinh tế giữa các quốc gia ngày càng phát triển. 1.1.3.2Tính không đồng đều về trình độ phát triển giữa các quốc gia. Đa số các nước đang phát triển đều đi lên từ các nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu. Quá trình tiến hành công nghiệp hóa ở những nước này đều ch ậm hơn rất nhiều so với các nước công nghiệp phát triển. Thêm nữa, các nước đang phát triển còn phải vật lộn với những gánh nặng nợ nước ngoài. Khan hiếm các điều kiện cho phát triển chính là thách thức lớn nhất mà các nước nghèo phải đối mặt trong quá trì nh hội nhập với nền kinh tế thế giới. Việc Mỹ và Liên minh châu Âu thực thi những chính sách bảo hộ ngành nông nghiệp, đưa ra những khoản trợ giá khổng lồ cho nông nghiệp của nước mình, đã gây bất bình đẳng và thiệt hại cho các nước đang phát triển. Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), hiện nay, một nửa số dân nghèo của thế giới sống nhờ vào nông nghiệp. Các nước giàu đã chi 56 tỷ USD/năm các khoản viện trợ cho các nước nghèo, nhưng lại chi 300 tỷ USD/năm để làm giảm thu nhập từ nông nghiệp của các nước nghèo đó. Gần đây, nhóm G90 (nhóm nước nghèo và đang phát triển ở châu Phi, khối Caribê và Thái Bình Dương) đã có sự hợp tác với nhau để đi đến cam kết hình thành mặt trận thống nhất để đấu tranh đòi các nước phát triển xóa bỏ những khoản 12 trợ cấp trị giá hàng tỷ đô la nội địa. Và ngày 1-8-2004, các thành viên của WTO đã thông qua một kế hoạch chấm dứt chế độ trợ cấp nông sản và cắt giảm thuế quan trên phạm vi toàn thế giới. Đây thực sự là cánh cửa mở ra thế giới bên ngoài, là cơ hội tạo ra thị trường tốt hơn đối với các nước nghèo và đang phát triển trong việc bán các sản phẩm nông nghiệp của mình tới các nước giàu. Ngày nay, các nước nghèo đang đứng trước những thách thức gay gắt chưa từng thấy về phát triển, đặc biệt với sự phát triển nhanh chóng và những hệ quả khó hình dung hết của cuộc cách mạng khoa học công nghệ thông tin, ưu thế của các nước phát triển ngày càng tăng về mọi mặt, khoảng cách giữa các nước giàu và các nước nghèo, các nước đang phát triển ngày càng mở rộng. Tham gia hợp tác kinh tế quốc tế sẽ mang lại nhiều vận may và cơ hội lớn cho các nước nghèo và đang phát triển, các nước này có thể hưởng những ưu đãi về mậu dịch, tận dụng thời cơ để thúc đẩy việc mở rộng và phát triển sản xuất, khai thông và mở rộng thị trường, đồng thời tiếp nhận những dòng vốn, kỹ thuật, công nghệ, kỹ năng và kinh nghiệm quản lý tiên tiến, hiện đại để phát triển. Trên cơ sở đó, các nền kinh tế đang phát triển sẽ có cơ hội phát huy nội lực, tạo khả năng phát triển rút ngắn, bắt kịp các nền kinh tế phát triển trên thế giới. 1.1.3.3Vai trò của các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế. Với các mục tiêu, chức năng của mình các tổ chức kinh tế tài chính quốc tế đã tham gia vào việc thúc đẩy các hoạt động hợp tác kinh tế quốc tế, điều phối và quản lý các hoạt động này. Cho dù tính hiệu quả của các tổ chức còn được đánh giá khác nhau xuất phát từ quan điểm lợi ích quốc gia, song không ai không thừa nhận sự cần thiết và vai trò của các tổ chức này. Trong số các tổ chức kinh tế tài chính quốc tế phải kể đến Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB). Tác động tích cực của các dòng vốn từ phía các tổ chức này đối với sự phát triển của các quốc gia là không thể phủ nhận. Các tổ chức này tham gia tích cực vào việc điều chỉnh quan hệ tài chính - tiền tệ giữa các quốc gia thành viên và thực hiện cho vay để hỗ trợ quá trình phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển. Nếu như WB cho vay theo các dự án và chương trình phát triển dài 13 hạn, thì IMF lại chủ yếu cho các nước bị thâm hụt cán cân thanh toán vay ngắn hạn và trung hạn, còn ADB hướng các hoạt động của mình vào việc hỗ trợ cho các dự án phát triển kinh tế ở khu vực Châu Á và Viễn Đông. Bên cạnh các tổ chức tài chính - tiền tệ, các tổ chức kinh tế khu vực như Liên minh Châu Âu (EU), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Tổ chức hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hợp tác kinh tế quốc tế. Tham gia hợp tác kinh tế với các tổ chức này cho phép các quốc gia được hưởng những ưu đãi của hoạt động kinh doanh khu vực, thúc đẩy các quốc gia trong khu vực tiến đến những chuẩn mực chung. Đồng thời, các mối quan hệ hợp tác song phương và đa phương sẽ làm tăng thêm sự gắn bó phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Như vậy, các tổ chức kinh tế vừa là động lực vừa là kết quả của quá trình hợp tác kinh tế quốc tế, nếu thiếu các tổ chức này thì các mối quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế sẽ diễn ra một cách tự phát, chồng chéo và chậm chạp. 1.1.3.4 Sự hình thành mạng lưới sản xuất quốc tế và vai trò ngày càng tăng của những công ty xuyên quốc gia. Cách mạng khoa học và công nghệ đã đẩy quá trình xã hội hóa sản xuất lên một trình độ mới với những bước phát triển vượt bậc. Nó đang trực tiếp tác động tới mọi lĩnh vực và hiện vẫn đang tiếp tục phát triển không ngừng, có ảnh hưởng ngày càng lớn đối với các nền kinh tế xã hội của thế giới dẫn đến sự hình thành và phát triển mạnh mẽ của mạng lưới sản xuất quốc tế. Mạng lưới sản xuất quốc tế ngày càng được phát triển và mở rộng mạnh mẽ nhờ những hoạt động của các công ty xuyên quốc gia (TNC). Các TNC có tiềm lực kinh tế khổng lồ với mức doanh số nhiều khi còn lớn hơn cả tổng GDP của một quốc gia nhỏ hoặc trung bình. Các TNC nắm bắt và ứng dụng được các công n ghệ mới, đang ngày càng quốc tế hóa các hoạt động của mình, sát nhập lẫn nhau để trở thành những tập đoàn lớn có sức mạnh chi phối một ngành hoặc lĩnh vực chủ yếu nào đó. Bảng 1.1: 10 TNCs có tổng tài sản lớn nhất thế giới trong năm 2002. Đơn vị tính: Triệu USD 14 Tên công ty General Electric (Mỹ) General Motors (Mỹ) Ford Motor (Mỹ) Vodafone (Anh) Daimler Chrysler Agreement (Đức) Deutsche Post World Net (Đức) Verizon Communications (Mỹ) British Petroleum (Anh) Electricite de France (Pháp) Royal Dutch (Anh) Deutsche Telekom AG (Đức) Nguồn: [15]. Từ chỗ, trên thế giới chỉ có khoảng 7.000 TNC với 27.000 chi nhánh ở những năm 70, dến nay, theo số liệu của Liên Hợp quốc, trên thế giới có kho ảng 84.000 TNC với khoảng 850.000 công ty con chiếm khoảng 40% tổng sản phẩm của thế giới, kiểm soát 60% tổng thương mại của thế giới, 80%-85% FDI, 90% thành quả nghiên cứu triển khai kỹ thuật và chuyển giao công nghệ trên thế giới. Luân chuyển giữa các TNC và trong nội bộ các TNC chiếm gần 2/3 tổng luân chuyển hàng hóa, dịch vụ, tài chính quốc tế. Các TNC đang trở thành lực lượng có sức mạnh kiến tạo lớn nhất trong nền kinh tế thế giới hiện nay. Các quốc gia có thể tham gia vào dây chuyền sản xuất quốc tế và cũng vì vậy mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước công nghiệp phát triển và các nước đang phát triển đang ngày càng gia tăng. Ví dụ, công ty General Electric nổi tiếng của Mỹ, là một trong những công ty hàng đầu thế giới về ngành điện đã tập hợp được hơn 3.200 xí nghiệp thành viên liên kết mọi khâu từ nghiên cứu, sản xuất từng bộ phận chi tiết, lắp ráp, lưu thông, phân phối và tiêu thụ thông qua cơ chế nhận thầu và thầu lại theo các hợp đồng từ công ty mẹ. Một điều cần thấy là các TNC đã và đang đóng vai trò rất lớn trong việc tăng mức xuất khẩu của các nước đang phát triển, thực chất là đang đẩy mạnh quan hệ hợp tác của nền kinh tế các nước này với các nền kinh tế trên thế giới. Trong những năm gần đây, xuất khẩu của các chi nhánh TNC ở các nước đ ang phát triển 15 gia tăng mạnh, chẳng hạn, ở Singapo xuất khẩu của các chi nhánh TNC chiếm tới 90% tổng giá trị xuất khẩu hàng chế tạo. Ngay ở Việt Nam, mức đóng góp vào xuất khẩu của các công ty có vốn đầu tư nước ngoài trong những năm qua cũng tăng đáng kể. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, xuất khẩu của khu vực có vốn FDI năm 1998 mới đạt 1,98 tỷ thì năm 2003 tăng lên 5,2 tỷ USD, năm 2004 đạt 8,6 tỷ USD. 1.1.4 Một số cản trở trong hợp tác kinh tế quốc tế đối với các quốc gia đang phát triển. Ngày nay, khi tính tương thuộc, ràng buộc lẫn nhau giữa các quốc gia về mọi mặt càng gia tăng thì hợp tác kinh tế trong xu thế toàn cầu hóa đem lại nhiều cơ hội để các nền kinh tế đang phát triển có thể “cất cánh”. Tuy nhiên xu thế này, các nước đang phát triển phải đối mặt với những bất cập có tính khái quát không thể không vượt qua để có thể được nhiều hơn mất và khẳng định được vị thế của mình trong các quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế. Một là, sự yếu kém của chính bản thân các nền kinh tế đang phát triển: Về mặt lý thuyết, càng mở cửa, hợp tác với nền kinh tế quốc tế thì càng có cơ hội phát triển. Nhưng đa số các nước đang phát triển đều có xuất phát điểm thấp, những tiền đề trong nước chưa đạt đến trình độ phát triển để có thể tiếp nhận cơ chế thị trường trong môi trường kinh tế hiện đại. Do vậy, khi mở cửa để tham gia vào thị trường thế giới rộng lớn thì các nền kinh tế này sẽ bị phụ thuộc nhiều vào các nước phát triển và rất có thể sẽ phải trả giá đắt. Chẳng hạn, sau hai thập kỷ thực hiện chính sách mở cửa với đa số tiền vốn do các nước tư bản phương Tây rót vào, bị dồn nén trong áp lực của các chương trình điều chỉnh kinh tế “mang bản sắc Washinton”, giấc mơ về mô hình tự do mới đã bị tiêu tan một cách cay đắng, nền kinh tế các nước khu vực Mỹ La tinh và Châu Phi vẫn nằm trong vòng kiểm soát của các nước phương Tây, không thu hút được đầu tư, tỷ lệ tăng trưởng thấp, không thoát khỏi vòng vây của sự nghèo đói, dịch bệnh, sự yếu kém, tham nhũng của chính phủ. Trong tình hình như vậy, đối với các nước này càng mở cửa thì càng phụ thuộc vào bên ngoài, càng mất khả năng tự bảo vệ, dẫn tới mất ổn định kinh tế, xã hội. 16 Hai là, nền kinh tế thị trường toàn cầu có tính chất thiếu vững chắc với những biến động khó lường. Tính chất không ổn định này có thể xét trên hai khía cạnh: Thứ nhất, không ổn định là đặc tính vốn có của cơ chế thị trường tự do cạnh tranh, trong khi đó tự do hóa tài chính đang là mũi nhọn của cơ chế này. Bên cạnh sự phụ thuộc về phương diện tài chính của các nước nghèo vào các nước giàu thì hiện nay nước giàu cũng phụ thuộc vào nước nghèo do nhu cầu về địa chỉ đầu tư, nhu cầu cho vay vốn sinh lời. Sự phụ thuộc lẫn nhau còn được thể hiện ở chỗ một khi có sự cố tài chính, dù xảy ra ở bất kỳ nơi nào đều gây ra những hậu quả nghiêm trọng, thậm chí trên quy mô toàn cầu. Do dòng tài chính quốc tế có đặc điểm là di chuyển rất nhanh, dễ biến động nên độ rủi ro tăng (tăng giảm đột ngột về khối lượng, nhanh chóng đảo ngược xu hướng vận động) làm cho nền kinh tế thế giới trở nên bất ổn. Thứ hai, tính không ổn định nhiều khi do các lực lượng đầu cơ quốc tế cố tình tạo ra để trục lợi. Có thể minh họa nhận định này qua mấy vấn đề cụ thể: công nghệ thông tin hiện đại và những công cụ tín dụng tinh vi giúp cho các thị trường liên tục tương tác với nhau, phản ứng tức thì với các tín hiệu diễn ra trong đời sống kinh tế, tạo nên khối lượng chu chuyển vốn lớn và nhanh chưa từng có. Các quỹ bảo hiểm, các phòng kinh doanh của các tổ chức đầu tư, các ngân hàng quốc tế do làm chủ được khả năng tiếp cận thị trường, sức mạnh kinh tế, tài chính và thu được những món lợi rất lớn từ những dao động lên xuống của thị trường, nên nhiều khi họ chủ động tạo ra sự biến động để thu lợi nhuận tối đa. Có thể lấy một ví dụ trường hợp của Thái Lan, một nước được xem như hiện tượng ”thần kỳ kinh tế” thuộc làn sóng công nghiệp hóa thứ 3. Sau thời kỳ 1975-1995 phát triển đầy ấn tượng với tốc độ tăng trưởng cao và bền vững đạt mức trung bình 7%/năm. Thái Lan đã phải chịu các sức ép của nền kinh tế phát triển nóng, biểu hiện ở mức thâm hụt tài khoản vãng lai và lạm phát cao. Bất chấp xu hướng giảm lãi suất trên thế giới từ giữa năm 1995, lãi suất trong nước vẫn tiếp tục được giữ ở mức tương đối cao. Chênh lệch lãi suất đã làm tăng mạnh các nguồn vốn nước ngoài đổ vào, mà chủ yếu là thông qua c ác thể thức ngân hàng quốc tế
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan