Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hoạt động chuyển giá của các doanh nghiệp fdi tại tphcm từ góc độ nhà quản lý...

Tài liệu Hoạt động chuyển giá của các doanh nghiệp fdi tại tphcm từ góc độ nhà quản lý

.DOCX
45
2
134

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM ---------------------------- NGUYỄN DUY HIẾU HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIÁ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP FDI TẠI TPHCM TỪ GÓC ĐỘ NHÀ QUẢN LÝ Chuyên ngành : Kinh tế tài chính - Ngân hàng Mã số LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. SỬ ĐÌNH THÀNH TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013 1 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 1.1. Sự cần thiết của đề tài Sự xuất hiện của các công ty đa quốc gia (MNCs) là một trong những hiện tượng có ý nghĩa nhất của nền kinh tế toàn cầu trong những thập kỷ gần đây. Các công ty đa quốc gia có xu hướng liên kết các hoạt động của mình trên toàn cầu, hơn là trong ranh giới của một quốc gia. Kết quả là, các công ty đã thực hiện chuyển dịch số lượng lớn hàng hóa và dịch vụ giữa các công ty con hoạt động ở các nước khác nhau. Chuyển giá là quá trình định giá mà các công ty đa quốc gia sử dụng để dịch chuyển hàng hoá và dịch vụ giữa các công ty có liên quan nằm ở các quốc gia khác nhau. Tuy chuyển giá là một trong những vấn đề còn khá mới mẻ trong hoạt động thương mại Việt Nam, nhưng gần đây các giao dịch có yếu tố nước ngoài ngày càng xuất hiện nhiều dấu hiệu của hiện tượng chuyển giá. Hiện tượng chuyển giá không chỉ gây thiệt hại cho chính phủ nước chủ nhà do bị thất thu thuế, giảm phần lợi nhuận bên góp vốn của nước chủ nhà do giá trị góp vốn của họ thấp mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến thương mại quốc tế. Do các quy luật của thị trường tự do, đặc biệt là quy luật cung cầu không hoạt động trong các tập đoàn đa quốc gia, nên gây ra nhiễu loạn quá trình lưu thông quốc tế. Điều này dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh. Đề tài nghiên cứu tập trung tìm hiểu vấn đề “Hoạt động chuyển giá của các doanh nghiệp FDI tại TP.Hồ Chí Minh từ góc độ nhà quản lý”. 2 1.2. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu của bài nghiên cứu là tìm hiểu, nghiên cứu và phân tích hiện tượng chuyển giá ngày càng phổ biến trong các doanh nghiệp FDI hoạt động tại TP.Hồ Chí Minh. Thông qua việc tìm hiểu và nghiên cứu này sẽ đề ra một số hàm ý chính sách để nâng cao hiệu quả công tác quản lý hoạt động chuyển giá nhằm quản lý tốt hơn hoạt động kinh doanh của các chi nhánh, công ty nước ngoài. 1.3. Phương pháp nghiên cứu Bài nghiên cứu sử dụng các phương pháp lý thuyết suy luận logic, phân tích-tổng hợp, so sánh-đối chiếu. Để có thể nhìn nhận tương đối chính xác về các vấn đề liên quan đến hoạt động chuyển giá, ngoài một số thông tư, văn bản quy định của Nhà nước, người viết nghiên cứu, tìm hiểu thêm sách báo, tạp chí, internet…Phương pháp nghiên cứu của đề tài là đi từ thực tiễn tình hình, thực trạng hoạt động chuyển giá tại TP.Hồ Chí Minh từ đó đề ra một số giải pháp cho vấn đề hoạt động chuyển giá của các doanh nghiệp FFDI tại TP.Hồ Chí Minh. 1.4. Đánh giá tương quan các nghiên cứu Có nhiều nghiên cứu khám phá các yếu tố môi trường tác động đến sự chuyển giá: Shulman (1966) nghiên cứu các công ty sản xuất lớn của Mỹ. Những công ty này có mức độ đầu tư lớn và được hưởng thu nhập đáng kể từ nước ngoài, chiếm 8% tổng doanh số của toàn bộ ngành công nghiệp sản xuất của Mỹ ở nước ngoài vào năm 1964. Shulman xác định các yếu tố môi trường chính như: “thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhập khẩu và thuế hải quan, biến động tiền tệ, giới hạn kinh tế của chính phủ nước sở tại ( ví dụ : tiền tệ / chuyển lợi nhuận về nước…), tình trạng tài chính nước ngoài, lợi thế cạnh 3 tranh của công ty con, quan hệ đối tác nước ngoài, chính sách giá thế giới, quan hệ công chúng”, vv... Nghiên cứu của Shulman rất hữu ích trong phân tích, lý thuyết hoá các yếu tố liên quan đến chuyển giá. Green and Duerr (1970) tiến hành khảo sát của 130 công ty đa quốc gia với các câu hỏi về việc thực hiện chuyển giá quốc tế (ITP) của họ. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng chính sách ITP thực hiện dưới áp lực từ các yếu tố tổ chức và yếu tố môi trường như : “mong muốn của các nhà quản trị và giám đốc điều hành công ty con ở nước ngoài, cân nhắc về thuế và hải quan, thái độ chính phủ của nước đi đầu tư và nước nhận đầu tư, mức độ cạnh tranh của doanh nghiệp địa phương, và mức độ đáp ứng ngoại tệ”. Đặc biệt, Green and Duerr cho rằng “thuế và thuế hải quan” có tác động đáng kể về quyết định ITP của các công ty đa quốc gia. Burns (1980) khảo sát tác động của các yếu tố đến sự chuyển giá của 210 công ty đa quốc gia ở Mỹ. Dùng phương pháp phân tích nhân tố, Burns xác định 10 biến có tác động lớn nhất đến sự chuyển giá trong nội bộ công ty của người trả lời. Trong đó, “điều kiện thị trường ở nước ngoài, cạnh tranh ở nước ngoài, và lợi nhuận hợp lý cho các chi nhánh nước ngoài” là ba yếu tố có ảnh hưởng nhất đến sự chuyển giá của các công ty. Các yếu tố “thuế liên bang Mỹ khác, quản lý dòng tiền và tỷ giá thả nổi” rất ít hoặc không có ảnh hưởng. Burns cũng nhận thấy rằng “cân nhắc thuế thu nhập” không ảnh hưởng đáng kể đến sự chuyển giá của người trả lời. Tang (1982) trình bày những phát hiện của nghiên cứu dựa trên câu hỏi của các yếu tố môi trường tác động đến các quyết định ITP của các công ty đa quốc gia Vương quốc Anh. Trong 20 yếu tố điều tra thì “tổng lợi nhuận, vị thế cạnh tranh của các công ty con, và đánh giá lợi nhuận của các công ty con” là ba xếp hạng cao nhất tương ứng, trong khi đó “khối lượng giao dịch, nguy 4 cơ bị tước quyền sở hữu, và lượng vốn FDI chính phủ nước sở tại đòi hỏi” là ba yếu tố xếp hạng nhất. Bằng cách sử dụng phân tích nhân tố, Tang tóm tắt 20 yếu tố thành 6 yếu tố quan trọng bao gồm: (1) hạn chế của chính phủ và nhu cầu đối với dòng tiền và quỹ cho công ty con nước ngoài; (2) thuế hải quan, pháp luật về chống bán phá giá và chống độc quyền; (3) lạm phát và biến động tiền tệ; (4) hạn chế về tiền bản quyền, phí quản lý và sự quan tâm của các doanh nghiệp địa phương; (5) mối quan hệ với nước nhận đầu tư và vị thế cạnh tranh của các công ty con nước ngoài, và (6) đánh giá hiệu quả của công ty con. Yunker (1983) điều tra các mối quan hệ giữa đánh giá hiệu quả, tính tự chủ của công ty con, các yếu tố môi trường và các chính sách chuyển giá của các công ty đa quốc gia ở Mỹ. Kết quả của Yunker cho rằng, “tổng thể nhu cầu về sản phẩm của công ty, quy định của chính phủ, chi phí nguyên vật liệu và lao động, và mức độ cạnh tranh” là các yếu tố môi trường quan trọng nhất tác động đến các chính sách chuyển giá của các công ty Mỹ. Kim và Miller (1979) nghiên cứu các yếu tố tác động đến chính sách ITP của các công ty đa quốc gia Mỹ hoạt động ở 8 nước đang phát triển bằng cách xếp hạng 8 yếu tố theo thứ tự tầm quan trọng đặt ra cho người trả lời. Họ nhận thấy : “hạn chế chuyển lợi nhuận về nước, và kiểm soát ngoại hối của nước sở tại” là hai yếu tố quan trọng nhất tác động đến quyết định ITP. Các yếu tố quan trọng khác bao gồm : “hạn chế liên doanh, nghĩa vụ thực hiện thuế / thuế hải quan, và thuế thu nhập ở nước nhận đầu tư”. Tang và Chan (1979) nghiên cứu về chủ đề này bằng cách điều tra các yếu tố môi trường của các chính sách ITP các công ty đa quốc gia của Hoa Kỳ và Nhật Bản. Tang và Chan cho thấy : “lợi nhuận tổng thể” là quan trọng nhất trong 20 yếu tố môi trường tác động đến quyết định ITP của cả công ty 5 đa quốc gia của Hoa kỳ lẫn Nhật Bản. Các yếu tố khác có tầm quan trọng chung đối với họ là “hạn chế việc chuyển thu nhập về nước, vị thế cạnh tranh của các công ty con nước ngoài và đánh giá hiệu quả của các công ty con”. Tang (1981) tiếp tục thực hiện so sánh tương tự của các yếu tố môi trường tác động đến chính sách ITP giữa các công ty đa quốc gia của Vương quốc Anh và Canada. Tang phát hiện: “xếp hạng lợi nhuận tổng thể” là yếu tố quan trọng nhất được xem xét trong quá trình ra quyết định ITP của cả công ty đa quốc gia của Vương quốc Anh và Canada. Các yếu tố "lượng vốn FDI chính phủ nước sở tại đòi hỏi, tỷ lệ lạm phát tại nước ngoài và nguy cơ bị tước quyền sở hữu ở nước ngoài” tất cả nhận được đánh giá từ các công ty đa quốc gia của Vương quốc Anh và Canada đều thấp. Johnson và Kirsch (1991) tiến hành kiểm tra những yếu tố quan trọng để đạt được các mục tiêu ITP của các công ty đa quốc gia Mỹ. Họ khảo sát 576 công ty đến từ Business Week Toàn cầu 1000 và Fortune 500. Johnson và Kirsch nhận thấy: “tối thiểu hóa thuế của công ty” là mục tiêu ITP quan trọng nhất. Mục tiêu quan trọng khác là “gia tăng tổng lợi nhuận của công ty”. “Đánh giá hiệu quả của các nhà quản lý các công ty con” là mục tiêu của công ty được xếp hạng nhất. Tang (1993) thực hiện khảo sát tất cả 500 công ty được liệt kê trong ấn bản năm 1990 của thư mục Fortune 500 của những tập đoàn công nghiệp lớn nhất ở Mỹ. Phân tích kết quả trả lời, cho thấy: “lợi nhuận tổng thể, sự khác biệt thuế suất thuế thu nhập, các quy định liên quốc gia, và những hạn chế về việc chuyển lợi nhuận và cổ tức về nước bởi nước ngoài” là 3 biến quan trọng nhất. Mặt khác, “yêu cầu vốn FDI của chính phủ Mỹ, nguy cơ bị quốc hữu hóa bởi chính phủ nước sở tại, và tỷ lệ lạm phát ở nước ngoài” là 3 biến môi trường có tác động ít nhất. 6 1.5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các doanh nghiệp FDI hoạt động tại TP.Hồ Chí Minh và hiện tượng chuyển giá của các doanh nghiệp này. 1.6. Bố cục luận văn Bố cục luận văn gồm 5 chương như sau: Chương 1. Tổng quan nghiên cứu Chương 2. Khuôn khổ lý thuyết Chương 3. Thực trạng chính sách quản lý chuyển giá ở Việt Nam Chương 4. Hoạt động chuyển giá của các doanh nghiệp FDI tại TP.HCM Chương 5. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế đối với hoạt động chuyển giá tại TP.HCM 7 CHƯƠNG 2. KHUÔN KHỔ LÝ THUYẾT 2.1. Lý thuyết về công ty đa quốc gia và chuyển giá 2.1.1. Công ty đa quốc gia Kinh tế thế giới đã được toàn cầu hóa đáng kể từ khi kết thúc Chiến tranh Thế giới II. Kết quả là, một tỷ lệ lớn các sản phẩm kinh tế thế giới được tạo ra bởi hoạt động kinh doanh quốc tế, chủ yếu là thực hiện bởi công ty đa quốc gia (Nobes và Parker, 2000). Một MNC là một tổ chức tham gia vào hoạt động sản xuất, dịch vụ trong hai hoặc nhiều nước (Cunningham, 1978; Leitch và Barrett, 1992). Công ty đa quốc gia tham gia vào các hoạt động quốc tế chủ yếu là thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) (Dunning và Rugman, 1985). Đầu tư trực tiếp nước ngoài đòi hỏi phải thành lập một công ty con hoặc chi nhánh của một công ty từ một nước trong lãnh thổ của một nước khác, lúc này các công ty đầu tư trở thành một công ty mẹ (Easson, 1991). Đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể có một trong ba hình thức: • Thành lập một công ty mới ở một nước khác như : chi nhánh hoặc công ty con; • Mở rộng các chi nhánh hoặc công ty con hiện tại ở nước ngoài; • Mua lại một công ty kinh doanh ở nước ngoài; (Buckley, 1992). Các lý thuyết đầu tư trực tiếp nước ngoài cung cấp một khuôn khổ khái niệm để giải thích lý do tại sao công ty đa quốc gia tồn tại và những gì dẫn đến quyết định đầu tư nước ngoài của họ. Các nhà kinh tế đã phát triển lĩnh vực này xung quanh ba vấn đề chính sau đây: • Tại sao các công ty di chuyển ra nước ngoài như đầu tư trực tiếp? 8 • Làm thế nào có thể trực tiếp đầu tư các công ty nước ngoài cạnh tranh thành công với các công ty địa phương ở nước sở tại, với những bất lợi khi điều hành trong một lãnh thổ nước ngoài không quen thuộc? • Tại sao các công ty lựa chọn để vào một quốc gia nước ngoài thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài? (Hymer, 1976; Root, 1978; Buckley, 1992). Một công ty đa quốc gia có nhiều lựa chọn khác nhau để xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường nước ngoài. Họ có thể tự đầu tư bằng việc trực tiếp chọn địa điểm đầu tư, xây dựng nhà máy và điều hành sản xuất, hoặc liên doanh với doanh nghiệp địa phương thông qua góp vốn, công nghệ, nhân lực hay đơn giản nhất là chuyển giao công nghệ. Việc lựa chọn hình thức đầu tư và kinh doanh của nhà đầu tư phụ thuộc vào thị trường và hệ thống luật pháp của nước sở tại. Nét đặc trưng của các công ty đa quốc gia là chúng thường sở hữu những khoản tài sản vô hình rất lớn, trong đó công nghệ là một trong những loại tài sản vô hình quan trọng nhất. Thường đó là các nhãn hiệu nổi tiếng, các sáng chế đã tạo nên danh tiếng của công ty và là một phần không thể mất đi của công ty. Trong một tập đoàn đa quốc gia có xác lập các mối quan hệ thân thuộc : (1) mối quan hệ chiều dọc giữa công ty mẹ và các công ty con; (2) quan hệ chiều ngang giữa các công ty con với nhau. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, giao dịch giữa các công ty trong mối quan hệ này đều được quyết định hoặc chịu ảnh hưởng từ công ty mẹ. Các giao dịch có tính chất nội bộ này thường là nhập khẩu máy móc thiết bị để hình thành tài sản cố định trong đầu tư xây dựng cơ bản để thành lập công ty con; nhập khẩu nguyên vật liệu dùng cho sản xuất hay công ty con xuất khẩu các sản phẩm đã hoàn thành cho công ty mẹ và cho các công ty con khác trong cùng tập đoàn. 9 2.1.2. Chuyển giá Có nhiều quan điểm cho rằng, chuyển giá chỉ là hành vi liên quan đến các tập đoàn kinh tế đa quốc gia. Theo đó, chuyển giá được hiểu là "việc thực hiện chính sách giá đối với hàng hóa, dịch vụ và tài sản được chuyển dịch giữa các thành viên trong tập đoàn qua biên giới không theo giá thị trường nhằm tối thiểu hóa số thuế của các công ty đa quốc gia trên toàn cầu” (Andrew Lymer & Jonh Hasseldine, 2002). Tuy nhiên, trên thực tế, chuyển giá không chỉ được thực hiện bởi các công ty đa quốc gia, các doanh nghiệp FDI, mà nó còn được thực hiện bởi các công ty có nhiều công ty con chỉ hoạt động kinh doanh trong nước hoặc thậm chí được thực hiện bởi các công ty là các chủ thể kinh tế độc lập song chủ sở hữu của chúng lại có mối quan hệ thân nhân với nhau. Như vậy, chuyển giá là một hành vi do các chủ thể kinh doanh thực hiện bằng cách thay đổi giá trị trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong quan hệ với các bên liên kết nhằm tối thiểu hóa tổng số thuế phải nộp của các đối tác liên kết. Các đối tác liên kết ở đây có thể là: (i) Các công ty thành viên trong một công ty đa quốc gia; (ii) Các công ty hoặc đơn vị thành viên trong một tổng công ty, công ty; (iii) Các công ty độc lập mà chủ sở hữu của chúng có mối quan hệ đặc biệt, thường là mối quan hệ thân nhân (Nguyễn Thị Thành Dương, 2006). 2.1.3. Chuyển giá quốc tế: Theo quan điểm mô hình tổ chức Việc sử dụng giá chuyển nhượng có thể xảy ra cả trong nước cũng như quốc tế. Ở cấp độ trong nước, giá chuyển nhượng được thiết kế để thực hiện các mục tiêu sau: • Cung cấp cho mỗi công ty các thông tin liên quan cần thiết để xác định hiệu quả tối ưu giữa chi phí và doanh thu công ty; 10 • • Để bảo toàn quyền tự chủ của công ty; • Để nâng cao động lực quản lý; Để giúp đánh giá hiệu quả lợi nhuận của các công ty khác nhau (Anthony và Govindarajan, 1998; Garrison và Noreen, 2000). Ở cấp độ quốc tế, các mục tiêu và động lực liên quan đến chuyển giá xoay quanh các vấn đề về thuế và thuế nhập khẩu. Ở nước sở tại, công ty đa quốc gia tập trung vào việc giảm thiểu nghĩa vụ thuế, giảm thuế nhập khẩu và xuất khẩu, tránh hạn chế về việc chuyển lợi nhuận về nước, giảm thiểu rủi ro ngoại hối, nâng cao vị thế cạnh tranh của các công ty con trên thị trường quốc tế và cải thiện mối quan hệ giữa các công ty con và chính phủ nước sở tại (Cunningham, 1978; Garrison và Noreen, 2000). 2.1.3.1. Các công ty tích hợp theo chiều dọc Đây là một cơ cấu phổ biến của các công ty đa quốc gia. Porter (1980, 1985) đưa ra khái niệm quản trị chiến lược hội nhập theo chiều dọc, các công ty tích hợp theo chiều dọc có xu hướng hoạt động với một sản phẩm tương đối không phân biệt. Chiến lược kinh doanh này có thể được sử dụng như một vũ khí cạnh tranh với các công ty không tích hợp. Các hình thức liên kết dọc cho phép một tổ chức tận dụng lợi thế của các nền kinh tế quy mô, và cho phép nó sử dụng một thị trường nội địa để giảm thiểu chi phí giao dịch của nó (Dunning và Rugman, 1985). Vì lý do quy mô, hầu hết các công ty tích hợp theo chiều dọc được chia thành các đơn vị bộ phận chức năng nằm ở các nước khác nhau. Các đơn vị thường xuyên giao dịch với nhau trong nhóm tích hợp, để đo lường hiệu quả tài chính ở cấp độ bộ phận, nhóm phải thiết lập giá chuyển nhượng đối với những hàng hóa và dịch vụ trao đổi giữa bất kỳ hai bộ phận hoặc giữa bộ phận với công ty mẹ (Ward, 1992; Anthony và Govindarajan, 1998). Chế độ 11 này được thành lập trong trường hợp của các ngành công nghiệp dầu, hoạt động như một công ty tích hợp theo chiều dọc. Đối với giao dịch nội bộ giữa các đơn vị, chuyển giá nội bộ được sử dụng khi hàng hóa, dịch vụ của bộ phận ở thượng nguồn được chuyển giao cho bộ phận hạ nguồn nằm ở một quốc gia khác. Như vậy, dầu thô được xử lý bởi các bộ phận trong giai đoạn tinh chế (bộ phận hạ nguồn) được cung cấp bởi các bộ phận vận chuyển (bộ phận thượng nguồn). Bởi vì các nhà quản lý bộ phận được tổ chức chịu trách nhiệm cho cả doanh thu và chi phí trong phần lợi nhuận của họ, và thường được đánh giá và khen thưởng trên cơ sở lợi nhuận của họ, họ dành sự quan tâm đáng kể trong mức giá mà họ nhận được bên trả tiền vì giá nội bộ này đóng một vai trò lớn trong việc thể hiện lợi nhuận hoặc thua lỗ cho các đơn vị của họ (Eccles, 1985; Ward, 1992; Iqbal, Melcher và Elmallab, 1997; Hansen và Mowen, 2000). Ví dụ, trong trường hợp của các công ty dầu, nếu bộ phận ở thượng nguồn bán một sản phẩm cho bộ phận hạ nguồn, nó sẽ cố gắng để nhận được mức giá cao nhất có thể từ bộ phận hạ nguồn để tăng thu nhập hoạt động của nó, và ngược lại. Để đảm bảo tính khách quan, giá thường được thiết lập với giá thị trường giao ngay, hoặc được đàm phán giữa các nhà quản lý của hai đơn vị. Nếu không, tranh chấp, tranh cãi giữa các nhà quản lý bộ phận trên giá chuyển nhượng có thể xảy ra. (Rugman, 1985b; Rugman và Eden, 1985; Ward, 1992). 2.1.3.2. Các công ty tích hợp theo chiều ngang Một cấu trúc thay thế tích hợp theo chiều dọc cho công ty đa quốc gia là tích hợp theo chiều ngang. Tích hợp theo chiều ngang liên quan đến hai hoặc nhiều công ty con nằm trên một quốc gia. Các công ty con hoạt động trong cùng ngành kinh doanh và được kiểm soát bởi công ty mẹ có trụ sở chính tại cùng một quốc gia. Giống như tích hợp 12 theo chiều dọc, một MNC tích hợp theo chiều ngang có lợi thế giao dịch trong việc sử dụng một cấu trúc thứ bậc hành chính để kiểm soát việc phân bổ và phân phối các nguồn lực và hàng hóa trong nhóm MNC (Rugman, 1985b). Tích hợp theo chiều ngang phổ biến trong nhiều ngành công nghiệp. Một ví dụ về hình thức tích hợp theo chiều ngang là các công ty đa quốc gia trong ngành công nghiệp dược phẩm. Các ngành công nghiệp, đặc trưng bởi các ứng dụng công nghệ cao và nghiên cứu tốn kém, tham gia vào tích hợp theo chiều ngang để bảo vệ bí quyết kỹ thuật. Một công ty dược phẩm đa quốc gia khả thi phải tham gia vào nghiên cứu và phát triển để cạnh tranh với các sản phẩm mới. Chi phí nghiên cứu và phát triển cao đóng góp vào chi phí cao của các loại thuốc tiên tiến (Wiindisch, 2003). Một cách khác để thu hồi chi phí là đặt bằng sáng chế trên các sản phẩm. Điều này cho phép các quyền sở hữu độc quyền công ty trong sản xuất và phân phối các sản phẩm trong lĩnh vực bằng sáng chế. Tuy nhiên, ở các nước sở tại, nơi các bằng sáng chế không được công nhận, hoặc khi các công ty lo ngại rằng việc cấp phép hoặc liên doanh có thể dẫn đến mất lợi thế, MNC sẽ không mạo hiểm hợp tác với các công ty trong nước nếu họ không chắc chắn rằng quyền sở hữu trí tuệ được pháp luật nước sở tại bảo đảm an toàn. Thay vào đó, công ty mẹ có động cơ để giữ những bí quyết thuộc quyền sở hữu trong công ty, chứ không phải là bằng sáng chế sản phẩm của mình. Điều này có thể được thực hiện bằng cách tạo ra một thị trường nội địa thông qua việc tổ chức một cấu trúc tích hợp theo chiều ngang. Giá nội bộ được thiết lập cho việc chuyển giao các sản phẩm dược phẩm từ một công ty con này sang một công ty con khác trong kinh doanh tích hợp theo chiều ngang. Một lý do khác để thiết lập một mức giá nội bộ là nó tương đối khó khăn để thiết lập giá thị trường thích hợp cho tài sản vô hình liên quan đến chi phí 13 nghiên cứu và phát triển và sở hữu trí tuệ (Rugman, 1985b; Anthony và Govindarajan, 1998; Horngren, Foster và Datar, 1999). 2.1.3.3. Tập đoàn Khác biệt với cấu trúc tích hợp theo chiều dọc và tích hợp theo chiều ngang là cấu trúc tập đoàn. Cấu trúc này là kết quả từ sự tăng trưởng, trong đó đặc trưng cho nhiều công ty đa quốc gia lớn. Mỗi công ty được kiểm soát từ công ty mẹ nhưng hoạt động như một công ty con tương đối độc lập. Kết nối giữa các công ty con là tài chính. Một công ty tập đoàn có thể hoạt động với các ngành nghề kinh doanh như các công cụ hệ thống dây điện, máy bay trực thăng, cưa xích, các thành phần cơ khí thủ công, xe nâng hàng, máy công cụ, ốc vít đặc biệt, và động cơ tuabin khí (Rugman, 1985a; Ward, 1992; Anthony và Govindarajan, 1998). Các hình thức tổ chức của tập đoàn là hợp lý một phần bởi các thế hệ và sử dụng quy mô kinh tế mà chủ yếu là đạt được thông qua các dịch vụ chia sẻ chung của các công ty con cá nhân. Những dịch vụ này bao gồm các tài sản như công nghệ thông tin, nghiên cứu và phát triển, nghiên cứu thị trường, và các bộ phận tài chính (Ward, 1992; Anthony và Govindarajan, 1998). Hiệu quả của các dịch vụ được kiểm soát tập trung ở cấp độ nhóm. Tuy nhiên, các nhà quản lý công ty con có thể kiểm soát số lượng dịch vụ mà họ nhận được. Khi các công ty con là các công ty độc lập, họ có thể bị cám dỗ để tìm kiếm tối đa hóa lợi ích riêng của họ để gây thiệt hại cho toàn MNC. Ví dụ, nếu một công ty con trả tiền ít hơn số tiền mà đáng lẽ phải trả, nó tạo động lực thúc đẩy để sử dụng nhiều dịch vụ mang tính lợi ích cá nhân hơn. Hành vi này sau đó có thể là bất lợi cho toàn MNC. Trong trường hợp khác, nếu một công ty con được yêu cầu phải trả tiền nhiều hơn số tiền mà đáng lẽ phải trả, nó có thể tránh sử dụng một số dịch vụ. Để đánh giá hiệu quả tài chính, quản lý cấp cao 14 phải đưa ra một phương pháp thích hợp của từng công ty con. Điều này thường được thực hiện bằng cách tạo ra một hệ thống ITP để đảm bảo phân bổ hiệu quả các nguồn lực trong nhóm MNC (Plasschaert, 1979; Ward, 1992; Anthony và Govindarajan, 1998). Đối với giao dịch thương mại hoặc thanh toán phi thương mại giữa các chi nhánh của một nhóm MNC, một chính sách ITP thích hợp có thể được thiết lập để phù hợp với cấu trúc của tổ chức. Từ quan điểm của một tổ chức, mục tiêu của giá chuyển nhượng được thiết kế để đo lường hiệu quả kinh tế công ty con. Những mục tiêu tập trung vào các tác động hành vi của việc định giá chuyển giao nội bộ của một tổ chức như trường hợp giá chuyển nhượng trong nước và quốc tế (Plasschaert, 1979; Ward, 1992). 2.1.4. Chuyển giá quốc tế: Theo quan điểm quản lý thuế Chuyển giá đa quốc gia là một vấn đề quốc tế về thuế gây tranh cãi. Từ quan điểm của thuế, ITP có thể được định nghĩa là quá trình định giá hàng hóa và dịch vụ chuyển giao giữa các công ty liên quan của một hệ thống đa quốc gia trên toàn khu vực pháp lý thuế khác nhau. Số tiền thuế nộp trong thẩm quyền, do đó giá nội bộ được gán cho các hàng hóa trung gian liên quan (Eden, 1985; Gresik, 2001). Kể từ khi thuế suất thuế TNDN khác nhau giữa các quốc gia, và các công ty con nước ngoài về lý thuyết bị kiểm soát bởi công ty mẹ, công ty mẹ có thể có quyết định đáng kể trong việc thiết lập giá chuyển nhượng của mình khi một công ty con – hoặc chính công ty mẹ chuyển giao một tài sản hoặc cung cấp một dịch vụ cho công ty con khác, và ngược lại. Quá trình này được mô hình hóa trong hình 2.1 Trong mô hình ITP đơn giản này, công ty mẹ có hai công ty con A và B, đặt tương ứng ở 2 nước sở tại là α và β. Công ty con A bán sản phẩm của mình cho Công ty con B. Mức thuế suất thuế TNDN ở nước sở tại α là 20%, 15 nhưng 33% ở nước sở tại β. Theo đó, ví dụ, một công ty con A có thể sản xuất một sản phẩm trung gian để bán cho Công ty con B, sau này chế biến các sản phẩm trung gian thành một sản phẩm cuối cùng để bán trong thị trường nội địa của mình. Các sản phẩm chuyển giao có giá thị trường mở. Công ty mẹ đặt ra một chính sách ITP dựa trên một đồng tiền được lựa chọn. Trong trường hợp này, với tất cả các yếu tố khác không đổi, công ty mẹ cho phép công ty con A ở nước α có mức thuế suất thuế TNDN thấp bán sản phẩm của mình cho công ty con B ở nước β có mức thuế suất thuế TNDN cao với mức giá cao - trong đó vượt quá giá bán thị trường - bỏ qua hạn chế áp đặt bởi luật thuế ở nước sở tại. Giá sản phẩm cao hơn sẽ chuyển lợi nhuận từ công ty con B sang công ty con A. Kết quả mất mát do mức thuế suất thuế TNDN cuả công ty B ở nước β cao hơn lợi nhuận của công ty con A ở nước α có mức thuế suất thuế TNDN thấp. Trụ sở chính công ty mẹ ở nước chủ nhà Chính sách ITP Công ty con A ở nước sở tại α ( nước có mức thuế thấp ) Bán hàng Thanh toán Công ty con B ở nước s ở tại β ( nước có mức thuế cao ) Hình 2.1. Mô hình chuyển giá quốc tế đơn giản 16 Ngoài sự khác biệt mức thuế suất giữa các quốc gia, thì hệ thống thuế hệ thống tín dụng - chính phủ nước nhà sử dụng để tránh đánh thuế hai lần cũng ảnh hưởng đến quyết định ITP. Những lợi ích của sự thay đổi lợi nhuận là lớn nhất nếu MNC cư trú ở nước chủ nhà sử dụng hệ thống miễn thuế. Một khi công ty đã được đánh thuế ở nước ngoài, thu nhập nước ngoài được miễn thuế ở nước chủ nhà. Ví dụ về các quốc gia sử dụng hệ thống miễn thuế bao gồm Canada, Pháp và Hà Lan. Nhật Bản, Vương quốc Anh và Hoa Kỳ là một trong những quốc gia sử dụng hệ thống tín dụng, cung cấp một khoản tín dụng thuế đối với thuế công ty đã nộp ở nước ngoài, và trì hoãn thanh toán thuế cho nước chủ nhà cho đến khi thu nhập được chuyển về nước từ nước sở tại. (Bruielsman, 2000). 2.2. Bằng chứng thực nghiệm về động cơ thực hiện chuyển giá quốc tế của các MNC Grubert và Mutti (1991) kiểm tra mối quan hệ giữa lợi nhuận và thuế suất để xem liệu lợi nhuận đã được chuyển từ nước có mức thuế suất cao sang nước có mức thuế suất thấp. Họ xem xét lợi nhuận/vốn chủ sở hữu và lợi nhuận/tỷ lệ bán hàng của các chi nhánh của các công ty Mỹ ở 33 quốc gia nước ngoài. Kết quả cho thấy rằng lợi nhuận trước thuế là tỷ lệ nghịch với mức thuế suất thuế địa phương, và thuế cao sẽ làm giảm các báo cáo lợi nhuận sau thuế của công ty hoạt động ở địa phương. Thực tế là mức thuế suất là một yếu tố quyết định đáng kể đến lợi nhuận báo cáo, là bằng chứng về hoạt động trốn thuế quốc tế của các MNC. Hines và Rice (1994) kiểm tra khả năng của công ty đa quốc gia Mỹ thay đổi báo cáo lợi nhuận của mình và hoạt động kinh doanh thực tế giữa các quốc gia nước ngoài có mức thuế cao và thiên đường thuế nước ngoài. Bằng cách phân tích 1982 lợi nhuận báo cáo tổng hợp của các công ty Mỹ tại các 17 địa điểm thuế khác nhau, họ thấy rằng tỷ lệ lợi nhuận được báo cáo là nhạy cảm với thuế suất thuế địa phương. Một tỷ lệ 1% điểm gia tăng trong mức thuế suất sẽ làm giảm 3% lợi nhuận báo cáo trong dữ liệu của họ. Độ co giãn này có thể là một phần hậu quả của biện pháp khuyến khích chuyển lợi nhuận. Grubert và Slemrod (1998) nghiên cứu tác động của thuế trong bối cảnh công ty Mỹ đầu tư ở Puerto Rico, một thiên đường thuế nước ngoài ưa chuộng bởi nhiều công ty đa quốc gia Mỹ. Kết quả cho thấy lợi thế chuyển thu nhập là lý do chủ yếu cho đầu tư Mỹ tại Puerto Rico. Phát hiện này là một tiếng vang của lời cáo buộc phổ biến mà vai trò quan trọng của nơi ẩn trú thuế là để tạo điều kiện trốn thuế quốc tế. Các nghiên cứu trên tập trung vào các MNC có nguồn gốc từ Mỹ. Họ cung cấp bằng chứng cho thấy các công ty đa quốc gia Mỹ chuyển lợi nhuận ra khỏi nước có mức thuế cao vào Mỹ, và từ Mỹ đến các nước có mức thuế thấp hoặc nơi ẩn trú thuế. Lợi nhuận chuyển dịch có thể xảy ra theo hai cách. Một cách để chuyển lợi nhuận là thông qua cơ cấu vốn của công ty đa quốc gia. Ví dụ, một công ty đa quốc gia có thể sử dụng nợ để tài trợ cho các chi nhánh nước ngoài tại các nước đang có mức thuế cao và sử dụng vốn để tài trợ cho các công ty con trong nước có mức thuế thấp. Một cách khác, là do sự vận động của giá chuyển nhượng nội bộ cho việc giao hàng qua biên giới của hàng hóa và dịch vụ (Bartelsman, 2000). Ngược lại, các nước đang phát triển thường là các nước sở tại. ITP có thể sẽ bất lợi cho các nước đang phát triển so với các nước phát triển. Điều này chỉ đơn giản là bởi vì các nước phát triển thường có, và có thể đủ khả năng, cơ cấu hành chính phức tạp hơn có thể xác định vi phạm ITP, trong khi các nước đang phát triển thiếu cơ cấu thể chế và hành chính để phân tích các tình huống ITP phức tạp. (Easson, 1991; Chan and Chow, 1997a, 1997b). 18 2.3. Tác động của chuyển giá quốc tế đến nền kinh tế nước sở tại Liên quan đến các vấn đề ITP, cả công ty đa quốc gia và nước sở tại thường xuyên có xung đột lợi ích và triết lý riêng của họ. Thông thường, các công ty có thể coi chiến lược tránh thuế của họ như một hành động thông thường được chấp nhận, trong khi nước chủ nhà có thể coi hành động đó như trốn thuế đáng khiển trách. Thực hiện ITP dường như là một vấn đề nghiêm trọng hơn ở các nước đang phát triển (và đặc biệt là các nước kém phát triển nhất), nơi các chính phủ không có khả năng và nguồn lực để xác định những ảnh hưởng của việc chuyển lợi nhuận do tác động của ITP. Gần đây, số lượng các công ty đa quốc gia hoạt động ở các nước đang phát triển đã tăng lên đáng kể. Bằng chứng cho thấy công ty đa quốc gia hoạt động tại các nước đang phát triển có cơ hội chuyển thu nhập đáng kể thông qua ITP. Một cách giải thích cho điều này là do thiếu cơ cấu thể chế và hành chính ở các nước đang phát triển để đối phó với tình hình này. Một giải thích quan trọng khác là một số nước đang phát triển rất mong muốn thu hút FDI nên họ ít quan tâm đến việc kiểm soát ITP (Rahman và Scapens, 1986; Chan và Chow, 1997a, 1997 b, 1998). Một số nghiên cứu cung cấp bằng chứng thực nghiệm về việc chuyển thu nhập ra khỏi nước đang phát triển thông qua thao tác ITP. Những nghiên cứu này cho thấy rằng các MNC định giá cao khi nhập khẩu hoặc định giá thấp khi xuất khẩu trong các ngành công nghiệp nhất định. Lall (1973) nghiên cứu về mức độ lạm dụng ITP ở Colombia. Kết quả cho thấy, so với giá thị trường thế giới, các công ty đa quốc gia ở Colombia định giá nhập khẩu quá cao từ 33% đến hơn 300% trong lĩnh vực dược phẩm, và từ 24% đến 81% trong ngành cao su và ngành công nghiệp điện. Natke (1985) sử dụng dữ liệu nhập khẩu được thu thập từ 141 công ty sản xuất - trong nước và đa quốc gia - 19 điều hành ở Brazil trong những năm 1979. Những dữ liệu này được sử dụng để kiểm tra giả thuyết rằng giá nhập khẩu thanh toán cho công ty đa quốc gia sẽ cao hơn so với các công ty Brazil cho các sản phẩm tương tự vì hành vi ITP. Những phát hiện này cho thấy rằng, tất cả các công ty đa quốc gia trả giá cao hơn so với các công ty của Brazil, với các mức độ khác nhau, từ định giá cao 39% trong toàn bộ mẫu (127 sản phẩm) đến 21% trong các mẫu thu hẹp (26 sản phẩm). Những kết quả này có thể được gây ra bởi hành vi chuyển giá đa quốc gia. Rahman và Scapens (1986) nghiên cứu thực hiện ITP của công ty đa quốc gia ở Bangladesh. Họ so sánh lợi nhuận báo cáo của các công ty đa quốc gia với những công ty địa phương. Kết quả cho thấy công ty đa quốc gia ít lợi nhuận hơn công ty địa phương, một phát hiện không phù hợp với sức mạnh thị trường tương đối của các công ty đa quốc gia ở Bangladesh. Tác giả kết luận rằng thao tác ITP làm thấp lợi nhuận của công ty đa quốc gia. Để có được bằng chứng cụ thể, họ tiếp tục điều tra giá nhập khẩu của 10 mặt hàng dược phẩm. Họ nhận thấy rằng các MNC định giá cao nhập khẩu từ các chi nhánh khác nhau từ 78% đến 600% trong ngành công nghiệp dược phẩm và có thể được trích dẫn là bằng chứng về hoạt động chuyển thu nhập của công ty đa quốc gia trong nước. Chan và Chow (1997a) kiểm tra môi trường kinh doanh ở Trung Quốc và sử dụng dữ liệu nhập khẩu và xuất khẩu để kiểm tra giả thuyết cho rằng công ty đa quốc gia ở Trung Quốc định giá nhập khẩu của họ quá cao và định giá xuất khẩu của họ quá thấp để thay đổi lợi nhuận ra nước ngoài. Lợi nhuận ra nước ngoài thay đổi đã được phát hiện trong các ngành công nghiệp như sản xuất các thiết bị âm thanh/video, hàng may mặc, nguyên liệu và sản phẩm nhựa. Điều này cho thấy công ty đa quốc gia chuyển lợi nhuận ra khỏi các công ty ở Trung Quốc. Trong khi ITP có thể tối đa hóa lợi nhuận hoặc giảm thiểu rủi ro hoạt động cho công ty đa quốc gia, bản chất lạm dụng của nó có ý nghĩa sâu rộng
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan