Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Chuyên ngành kinh tế “hoàn thiện quy trình lập và phát hành báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính ở côn...

Tài liệu “hoàn thiện quy trình lập và phát hành báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính ở công ty tnhh dịch vụ kiểm toán quốc tế và dịch vụ tài chính, thẩm định giá a&cn cpas”

.PDF
121
85
50

Mô tả:

Luận văn tốt nghiệp 1 Học viện Tài chính LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực xuất phát từ tình hình thực tế của đơn vị thực tập. Sinh viên thực tập Đặng Thúy Duyên Sv: Đặng Thúy Duyên CQ50/22.06 Luận văn tốt nghiệp 2 Học viện Tài chính DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Cách viết tắt Cách viết đầy đủ A&VN Công Ty Kiểm Toán Quốc Tế Và Dịch Vụ Tài Chính CPAs Thẩm Định Giá A&VN CPAs BCTC Báo cáo tài chính BCKT Báo cáo kiểm toán BCĐKT Bảng cân đối kế toán BCKQKD Báo cáo kết quả kinh doanh BCLCTT Báo cáo lưu chuyển tiền tệ Đ/c Điều chỉnh GTGT Giá trị gia tăng KTV Kiểm toán viên TNDN Thu nhập doanh nghiệp TSCĐ Tài sản cố đinh VND Việt Nam đồng Sv: Đặng Thúy Duyên CQ50/22.06 Luận văn tốt nghiệp 3 Học viện Tài chính MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta đang bước đầu hội nhập với nền kinh tế thế giới việc các doanh nghiệp phải chuyển mình để hội nhập là điều tất yếu. Để hội nhập các doanh nghiệp phải tăng cường sản xuất kinh doanh, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh cả về chiều sâu lẫn chiều rộng, thu hút được sự đầu tư quan tâm của nhiều đối tác. Điều quan tâm đầu tiên của các đối tác, các nhà đầu tư, các nhà hoạch định chính sách… là những thông tin này có trung thực và hợp lý, khách quan hay không. Tất cả đều được thể hiện trên Báo cáo tài chính doanh nghiệp. Báo cáo tài chính là nguồn cung cấp thông tin quan trọng cho tất cả các đối tượng trong và ngoài doanh nghiệp. Báo cáo tài chính là những báo cáo tổng hợp nhất về tình hình tài sản, công nợ, nguồn vốn chủ sở hữu cũng như tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì vậy thông tin trình bày trên Báo cáo tài chính phải trung thực,hợp lý, khách quan để những người sử dụng thông tin Báo cáo tài chính có thể đánh giá được chính xác tình hình tài chính của đơn vị từ đó sẽ có những quyết định kinh doanh đúng đắn. Do đó cần phải có một bên thứ ba, độc lập, khách quan, có kiến thức nghề nghiệp, uy tín và trách nhiệm pháp lý để kiểm tra, xem xét và đưa ra kết luận là báo cáo tài chính đó có được lập phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực và phương pháp kế toán hay không. Đó chính là công việc của kiểm toán viên độc lập thuộc các công ty kiểm toán chuyên nghiệp. Kiểm toán báo cáo tài chính nhằm xác nhận độ tin cậy của các thông tin trong báo cáo tài chính để thỏa mãn nhu cầu của các đối tượng sử dụng thông tin. Việc đưa ra ý kiến kiểm toán để lập và phát hành báo cáo kiểm toán cho một cuộc kiểm toán là vô cùng quan trọng. Sv: Đặng Thúy Duyên CQ50/22.06 Luận văn tốt nghiệp 4 Học viện Tài chính Báo cáo kiểm toán là sản phẩm cuối cùng của một cuộc kiểm toán độc lập, thể hiện ý kiến nhận xét của kiểm toán viên về các báo cáo tài chính mà họ đã kiểm tra. Báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính là cơ sở tin cậy đối với những đối tượng quan tâm tới những thông tin trên báo cáo tài chính như các nhà đầu tư, người cho vay, và đặc biệt là khi mà thị trường cổ phiếu đang được nhiều người quan tâm như hiện nay thì Báo cáo kiểm toán chính là một trong những thông tin quan trọng, đáng tin cậy cho các nhà đầu tư. Nhận thức được tầm quan trọng của việc lập và phát hành báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính, em chọn đề tài: “Hoàn thiện quy trình lập và phát hành Báo cáo kiểm toán Báo cáo tài chính ở Công ty TNHH Dịch vụ Kiểm toán quốc tế và Dịch vụ Tài chính, Thẩm định giá A&CN CPAs” làm đề tài nghiên cứu cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình với mong muốn đi sâu tìm hiểu thực tế quy trình lập và phát hành Báo cáo kiểm toán về Báo cáo tài chính tại Công ty cũng như nêu ra một số ý kiến đóng góp nhằm hoàn thiện quy trình lập và phát hành Báo cáo kiểm toán. Tuy nhiên do thời gian có hạn nên em chỉ xin trình bày về Bản cân đối kế toán và Báo cáo kết quả kinh doanh trong hệ thống các Báo cáo tài chính. 2. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm hệ thống hóa những lý luận cơ bản về quy trình kiểm toán BCTC nói chung và quy trình lập và phát hành báo cáo kiểm toán về kiểm toán BCTC nói riêng. Đồng thời làm rõ về quy trình lập và phát hành báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính do Công ty TNHH Dịch vụ Kiểm toán quốc tế và Dịch vụ Tài chính, Thẩm định giá A&CN CPAs thực hiện và đề xuất ý kiến nhằm hoàn thiện quy trình lập và phát hành báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính. Sv: Đặng Thúy Duyên CQ50/22.06 Luận văn tốt nghiệp 5 Học viện Tài chính 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Nghiên cứu lý luận và đánh giá thực trạng về quy trình lập và phát hành báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính. Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu và đánh giá thực trạng về quy trình lập và phát hành báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính - là một bước trong cuộc kiểm toán BCTC Công ty TNHH Dịch vụ Kiểm toán quốc tế và Dịch vụ Tài chính, Thẩm định giá A&CN CPAs thực hiện, kết thúc quy trình kiểm toán, lập Báo cáo kiểm toán. 4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận: luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp như: tổng hợp lý thuyết, khảo sát và phân tích thực tế, tham khảo các đề tài liên quan. 5. Nội dung, kết cấu của đề tài Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, nội dung luận văn của em gồm 3 chương: Chương I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUY TRÌNH LẬP VÀ PHÁT HÀNH BÁO CÁO KIỂM TOÁN VỀ BÁO CÁO TÀI CHÍNH. Chương II: THỰC TRẠNG LẬP VÀ PHÁT HÀNH BÁO CÁO KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY KIỂM TOÁN QUỐC TẾ VÀ DỊCH VỤ TÀI CHÍNH THẨM ĐỊNH GIÁ A&VN CPAs. Chương III: HOÀN THIỆN QUÁ TRÌNH LẬP VÀ PHÁT HÀNH BÁO CÁO KIỂM TOÁN VỀ BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY KIỂM TOÁN QUỐC TẾ VÀ DỊCH VỤ TÀI CHÍNH THẨM ĐỊNH GIÁ A&VN CPAs. Sv: Đặng Thúy Duyên CQ50/22.06 Luận văn tốt nghiệp 6 Học viện Tài chính Em xin chân thành cảm ơn PGS-TS.Phạm Tiến Hưng và các anh chị đang công tác tại CÔNG TY KIỂM TOÁN QUỐC TẾ VÀ DỊCH VỤ TÀI CHÍNH THẨM ĐỊNH GIÁ A&VN CPAs đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành bài viết này. Sinh viên thực hiện Đặng Thúy Duyên Sv: Đặng Thúy Duyên CQ50/22.06 Luận văn tốt nghiệp 7 Học viện Tài chính Chương I LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUY TRÌNH LẬP VÀ PHÁT HÀNH BÁO CÁO KIỂM TOÁN VỀ BÁO CÁO TÀI CHÍNH 1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH 1.1.1. Khái niệm kiểm toán Báo cáo tài chính Kiểm toán BCTC là hoạt động của các KTV độc lập và có năng lực tiến hành thu thập và đánh giá các bằng chứng kiểm toán về các BCTC được kiểm toán nhằm kiểm tra và báo cáo về mức độ trung thực hợp lý của BCTC được kiểm toán với các tiêu chuẩn, chuẩn mực đã được thiết lập. Báo cáo tài chính có thể được kiểm toán bởi KTV độc lập, KTV nội bộ, KTV nhà nước. Tuy nhiên, yêu cầu đầu tiên đối với KTV khi kiểm toán báo cáo tài chính là phải độc lập và có năng lực. Độc lập là nguyên tắc cơ bản đối với hoạt động cung cấp dịch vụ kiểm toán báo cáo tài chính, cách đánh giá trong quá trình kiểm toán cũng như khi đưa ra ý kiến cuối cùng đều phải khách quan. Còn năng lực là cơ sở để đảm bảo cho kiểm toán viên có thể tổ chức, triển khai và hoàn thành cuộc kiểm toán có hiệu quả. Kiểm toán viên – với tư cách là chủ thể trực tiếp thực hiện công việc kiểm toán, do vậy, phải có đủ năng lực chuyên môn để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ do công việc kiểm toán đặt ra. Cơ sở của các báo cáo tài chính là các quy định về kế toán, bao gồm các quy định pháp lý về kế toán như Luật kế toán, Chế độ kế toán, Chuẩn mực kế toán, và các quy định khác như hệ thống tài khoản, hình thức sổ và các chứng từ...Các chuẩn mực, chế độ kế toán và các văn bản quy định pháp lý có liên quan chính là tiêu chuẩn để kiểm toán viên đánh giá các thông tin tài chính, đánh giá BCTC đã được kiểm toán. Sv: Đặng Thúy Duyên CQ50/22.06 Luận văn tốt nghiệp 8 Học viện Tài chính Kết quả kiểm toán báo cáo tài chính là các báo cáo kiểm toán, trong đó nêu rõ ý kiến của kiểm toán viên về mức độ trung thực, hợp lý của báo cáo tài chính được kiểm toán. 1.1.2. Đối tượng của kiểm toán Báo cáo tài chính Đối tượng của kiểm toán BCTC là các báo cáo tài chính, hay cụ thể hơn là các thông tin trên báo cáo tài chính được kiểm toán. Kiểm toán viên tiến hành thu thập các bằng chứng kiểm toán và dựa trên bằng chứng kiểm toán thu thập được, đối chiếu các tiêu chuẩn, chuẩn mực, quy định pháp lý có liên quan để đưa ra ý kiến của mình về mức độ trung thực, hợp lý của các báo cáo tài chính đã được kiểm toán. Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 220 - Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán: “BCTC là hệ thống báo cáo được lập theo chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận) phản ánh các thông tin kinh tế, tài chính chủ yếu của đơn vị”. Ngoài ra, Báo cáo tài chính còn bao gồm những bảng kê tài sản đặc biệt (kể cả các bảng kê khai tài sản doanh nghiệp phá sản hoặc bán đấu giá…), các bảng khai theo yêu cầu riêng của chủ đầu tư. Các bảng khai này đều chứa đựng những thông tin lập ra tại một thời điểm cụ thể trên cơ sở những tài liệu kế toán tổng hợp và chi tiết dựa theo những qui tắc cụ thể xác định. Do vậy, một thông tin chứa đựng trong mỗi báo cáo tài chính trên một khoản mục cụ thể đều mang trong mình nó nhiều mối quan hệ theo những hướng khác nhau: giữa khoản mục này với khoản mục có liên quan khác, giữa số tiền ghi trên khoản mục này với số dư hoặc số phát sinh của các tài khoản tương ứng, giữa thông tin trên từng khoản mục với qui tắc xác lập chúng… Như vậy, khi nói đối tượng kiểm toán BCTC là các báo cáo tài chính là nói đến quan hệ trực tiếp. Trên cả lý luận cũng như thực tế, để xác minh và bày tỏ ý kiến về báo cáo tài chính, kiểm toán BCTC không thể tách rời các tài liệu kế toán, các hoạt động kinh doanh và tổ chức quản lý của đơn vị nhằm xác minh cụ thể độ tin cậy của từng khoản mục cũng như mối quan hệ kinh tế chứa Sv: Đặng Thúy Duyên CQ50/22.06 Luận văn tốt nghiệp 9 Học viện Tài chính đựng trong các số dư, trong các chỉ tiêu phản ánh các mối quan hệ bên trong hoạt động tài chính. 1.1.3. Mục tiêu của kiểm toán Báo cáo tài chính Mục đích của kiểm toán BCTC là kiểm tra và xác nhận về mức độ trung thực, hợp lý của các BCTC đã được kiểm toán. Theo chuẩn mực kiểm toán số 200 - Mục tiêu tổng thể của kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán khi thực hiện kiểm toán theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam “Mục đích của kiểm toán báo cáo tài chính là làm tăng độ tin cậy của người sử dụng đối với báo cáo tài chính, thông qua việc kiểm toán viên đưa ra ý kiến về việc liệu báo cáo tài chính có được lập, trên các khía cạnh trọng yếu, phù hợp với khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính được áp dụng hay không”. Nội dung trình bày của BCKT về BCTC có thể khác nhau nhưng phải chuyển đến cho người đọc bản BCKT về BCTC những đánh giá của KTV về sự phù hợp của những thông tin định lượng của BCTC cũng như sự tuân thủ các chuẩn mực; hoặc chế độ kế toán hiện hành khi lập BCTC này. Hình thức trình bày BCKT về BCTC có thể có nhiều hình thức khác nhau có thể bằng văn bản hoặc bằng miệng (trong trường hợp đơn giản, khi kiểm toán BCTC cho một cá nhân nào đó và họ không cần có kết quả kiểm toán trình bày dưới dạng bằng văn bản). Quy trình chung kiểm toán BCTC - Lập kế hoạch kiểm toán: là giai đoạn đầu tiên cần thiết cho một cuộc kiểm toán. Nguyên tắc kiểm toán Quốc tế thứ 3 – Các nguyên tắc cơ bản xuyên suốt một cuộc kiểm toán do IAPC (Uỷ ban thực hành kiểm toán Quốc tế) phê duyệt tháng 6/1980 và ban hành tháng 10/1980 nêu rõ: “KTV phải lập kế hoạch kiểm toán để trợ giúp cho công việc kiểm toán tiến hành có hiệu quả, đúng thời gian. Kế hoạch kiểm toán phải được tiến hành trên cơ sở các hiểu biết về đặc điểm hoạt động kinh Sv: Đặng Thúy Duyên CQ50/22.06 Luận văn tốt nghiệp 10 Học viện Tài chính doanh của khách hàng”. - Thực hiện kế hoạch kiểm toán: là quá trình sử dụng các phương pháp kỹ thuật kiểm toán thích ứng với đối tượng kiểm toán cụ thể để thu thập bằng chứng kiểm toán. Đó là quá trình triển khai một cách chủ động và tích cực các kế hoạch, chương trình kiểm toán nhằm đưa ra những ý kiến xác thực về mức độ trung thực và hợp lý của bảng khai tài chính trên cơ sở những bằng chứng kiểm toán đầy đủ và tin cậy. - Kết thúc kiểm toán: là công việc cuối cùng trong quy trình chung kiểm toán BCTC của doanh nghiệp. Đây là khâu cuối cùng nhưng đóng vai trò quan trọng không kém vì đây là giai đoạn mà các KTV phải tổng hợp để hình thành nên ý kiến của mình về BCTC của doanh nghiệp được kiểm toán. Để kết thúc kiểm toán, cần đưa ra kết luận kiểm toán và lập báo cáo hoặc biên bản kiểm toán. 1.2. LÝ LUẬN CHUNG VỀ BÁO CÁO KIỂM TOÁN VỀ BÁO CÁO TÀI CHÍNH 1.2.1. Khái niệm Báo cáo kiểm toán về Báo cáo tài chính Khâu cuối cùng của quá trình kiểm toán BCTC là công việc lập BCKT về BCTC. BCKT về BCTC về thực chất là một bản thông báo về kết quả cuộc kiểm toán về BCTC cho người sử dụng BCTC. Nội dung trình bày của BCKT về BCTC có thể khác nhau nhưng phải chuyển đến cho người đọc bản BCKT về BCTC những đánh giá của KTV về sự phù hợp của những thông tin định lượng của BCTC cũng như sự tuân thủ các chuẩn mực; hoặc chế độ kế toán hiện hành khi lập BCTC này. Hình thức trình bày BCKT về BCTC có thể có nhiều hình thức khác nhau có thể bằng văn bản hoặc bằng miệng (trong trường hợp đơn giản, khi kiểm toán Sv: Đặng Thúy Duyên CQ50/22.06 Luận văn tốt nghiệp 11 Học viện Tài chính BCTC cho một cá nhân nào đó và họ không cần có kết quả kiểm toán trình bày dưới dạng bằng văn bản). Theo quy định mang tính phổ biến của một quốc gia hoặc của Uỷ ban về chuẩn mực kiểm toán (IAPC) của Liên đoàn Kế toán quốc tế (IFAC) thì BCKT về BCTC được quy định viết dưới dạng văn bản và phải tuân thủ các quy định cả về mặt nội dung và hình thức. Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 700 – Báo cáo kiểm toán về Báo cáo tài chính – “BCKT là loại báo cáo bằng văn bản do KTV và công ty kiểm toán lập và công bố để nêu rõ ý kiến chính thức của mình về BCTC của một đơn vị (tổ chức hoặc doanh nghiệp) đã được kiểm toán”. 1.2.2. Vai trò, ý nghĩa của Báo cáo kiểm toán về Báo cáo tài chính BCKT về BCTC có vai trò, ý nghĩa quan trọng trong hoạt động kiểm toán và với người sử dụng BCTC. Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 700 – Báo cáo kiểm toán về Báo cáo tài chính – BCKT là loại báo cáo bằng văn bản do KTV và công ty kiểm toán lập và công bố để nêu rõ ý kiến chính thức của mình về BCTC của một đơn vị (tổ chức hoặc doanh nghiệp) đã được kiểm toán. Đối với hoạt động kiểm toán, BCKT về BCTC là khâu cuối cùng trong quá trình thực hiện cuộc kiểm toán BCTC để trình bày kết quả của cuộc kiểm toán bằng những ý kiến đánh giá của KTV về thông tin định lượng và trình bày BCTC theo quy định của chuẩn mực hoặc chế độ kế toán hiện hành. Đối với người sử dụng BCTC, khi sử dụng BCTC có BCKT về BCTC đính kèm giúp cho người sử dụng BCTC đánh giá được độ tin cậy của các thông tin định lượng trên BCTC trên cơ sở đó mà họ có các quyết định kinh tế đúng đắn, hiệu quả trong mối quan hệ kinh tế đối với tổ chức hoặc doanh nghiệp có BCTC này. 1.2.3. Yêu cầu lập, trình bày, gửi Báo cáo kiểm toán về Báo cáo tài chính Sv: Đặng Thúy Duyên CQ50/22.06 Luận văn tốt nghiệp 12 Học viện Tài chính Khi kết thúc cuộc kiểm toán BCTC, KTV phải lập BCKT về BCTC trình bày ý kiến của KTV về tính trung thực, hợp lý của các thông tin định lượng và sự trình bày các thông tin định lượng này trên BCTC do đơn vị (tổ chức, doanh nghiệp) được kiểm toán đã lập. BCKT về BCTC được trình bày theo chuẩn mực kiểm toán quy định của về nội dung, kết cấu và hình thức. Sự trình bày nhất quán về nội dung, kết cấu và hình thức để người đọc BCKT về BCTC hiểu thống nhất và dễ nhận biết khi có tình huống bất thường xảy ra. BCKT về BCTC phải được đính kèm với BCTC được kiểm toán. 1.2.4. Các yếu tố cấu thành Báo cáo kiểm toán về Báo cáo tài chính ❖ Các yếu tố cấu thành BCKT về BCTC - Tên và địa chỉ công ty - Số hiệu BCKT - Tiêu đề BCKT - Người nhận BCKT - Mở đầu của BCKT ❖ Theo CMKT số 700 “Hình thành ý kiến kiểm toán và báo cáo kiểm toán” BCKT về BCTC gồm các yếu tố cơ bản và được trình bày theo thứ tự sau: ➢ Số hiệu và tiêu đề báo cáo kiểm toán Báo cáo kiểm toán phải ghi rõ số hiệu phát hành báo cáo kiểm toán của doanh nghiệp kiểm toán hoặc chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán theo từng năm (số đăng ký chính thức trong hệ thống văn bản của doanh nghiệp hoặc chi nhánh). Báo cáo kiểm toán phải có tiêu đề chỉ rõ đó là Báo cáo kiểm toán độc lập. ➢ Người nhận Báo cáo kiểm toán Báo cáo kiểm toán phải chỉ rõ người nhận báo cáo kiểm toán tùy theo từng Sv: Đặng Thúy Duyên CQ50/22.06 Luận văn tốt nghiệp 13 Học viện Tài chính cuộc kiểm toán. Người nhận báo cáo kiểm toán là những người mà báo cáo được lập cho họ sử dụng, thường là các cổ đông, Ban quản trị hoặc Ban Giám đốc của đơn vị có báo cáo tài chính được kiểm toán. ➢ Mở đầu báo cáo kiểm toán (a) Nêu rõ tên đơn vị có báo cáo tài chính đã được kiểm toán; (b) Nêu rõ rằng báo cáo tài chính đã được kiểm toán; (c) Nêu rõ tiêu đề của từng báo cáo cấu thành bộ báo cáo tài chính; (d) Tham chiếu đến phần tóm tắt các chính sách kế toán quan trọng và các thuyết minh khác; (e) Nêu rõ ngày kết thúc kỳ kế toán hoặc kỳ kế toán của từng báo cáo cấu thành bộ báo cáo tài chính; (f) Nêu rõ ngày lập và số trang của báo cáo tài chính đã được kiểm toán. ➢ Trách nhiệm của Ban Giám đốc đối với báo cáo tài chính - Mục này trong báo cáo kiểm toán mô tả trách nhiệm của những người chịu trách nhiệm lập và trình bày báo cáo tài chính tại đơn vị được kiểm toán. Báo cáo kiểm toán không nhất thiết phải đề cập một cách cụ thể đến “Ban Giám đốc” mà sẽ sử dụng thuật ngữ thích hợp, tùy thuộc vào cơ cấu tổ chức của đơn vị được kiểm toán, như Ban quản lý dự án, Ban Giám hiệu... - Báo cáo kiểm toán phải bao gồm một mục có tiêu đề là “Trách nhiệm của Ban Giám đốc (hay một thuật ngữ thích hợp khác).” - Báo cáo kiểm toán phải mô tả trách nhiệm của Ban Giám đốc trong việc lập và trình bày báo cáo tài chính, trong đó giải thích thêm rằng Ban Giám đốc chịu trách nhiệm lập và trình bày báo cáo tài chính theo khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính được áp dụng, và chịu trách nhiệm về kiểm soát nội bộ mà Ban Sv: Đặng Thúy Duyên CQ50/22.06 Luận văn tốt nghiệp 14 Học viện Tài chính Giám đốc xác định là cần thiết để đảm bảo cho việc lập và trình bày báo cáo tài chính không có sai sót trọng yếu do gian lận hoặc do nhầm lẫn - Trong trường hợp báo cáo tài chính được lập theo khuôn khổ về trình bày hợp lý, phần giải thích về trách nhiệm của Ban Giám đốc đối với báo cáo tài chính trong báo cáo kiểm toán phải đề cập đến “trách nhiệm lập và trình bày trung thực và hợp lý báo cáo tài chính của Công ty”. ➢ Trách nhiệm của kiểm toán viên - Báo cáo kiểm toán phải bao gồm một mục có tiêu đề là “Trách nhiệm của Kiểm toán viên”. - Báo cáo kiểm toán phải nêu rõ trách nhiệm của kiểm toán viên là đưa ra ý kiến về báo cáo tài chính dựa trên kết quả cuộc kiểm toán - Báo cáo kiểm toán phải nêu rõ rằng công việc kiểm toán đã được tiến hành theo các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam. Báo cáo kiểm toán cũng phải giải thích rằng các chuẩn mực đó yêu cầu kiểm toán viên phải tuân thủ chuẩn mực và các quy định về đạo đức nghề nghiệp, phải lập kế hoạch và thực hiện cuộc kiểm toán để đạt được sự đảm bảo hợp lý về việc báo cáo tài chính có còn sai sót trọng yếu hay không - Báo cáo kiểm toán phải mô tả về cuộc kiểm toán bằng cách nêu rõ: • Công việc kiểm toán bao gồm thực hiện các thủ tục để thu thập các bằng chứng kiểm toán về các số liệu và thuyết minh trên báo cáo tài chính • Các thủ tục kiểm toán được lựa chọn dựa trên xét đoán của kiểm toán viên, bao gồm đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu trong báo cáo tài chính, do gian lận hoặc nhầm lẫn. Khi thực hiện đánh giá rủi ro, kiểm toán viên xem xét kiểm soát nội bộ của đơn vị liên quan đến việc lập và trình bày báo cáo tài chính trung thực, hợp lý nhằm thiết kế các thủ tục kiểm toán phù hợp với tình hình thực tế, tuy nhiên không nhằm mục đích đưa ra ý kiến về tính hữu hiệu của kiểm soát nội bộ của đơn vị. Trong trường hợp kiểm toán viên cũng có trách nhiệm đưa ra ý kiến về tính hữu Sv: Đặng Thúy Duyên CQ50/22.06 Luận văn tốt nghiệp 15 Học viện Tài chính hiệu của kiểm soát nội bộ cùng với việc kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán viên sẽ bỏ đi đoạn nói rằng việc kiểm toán viên xem xét kiểm soát nội bộ không nhằm mục đích đưa ra ý kiến về tính hữu hiệu của kiểm soát nội bộ của đơn vị. • Công việc kiểm toán cũng bao gồm việc đánh giá tính thích hợp của các chính sách kế toán được áp dụng và tính hợp lý của các ước tính kế toán của Ban Giám đốc cũng như đánh giá việc trình bày tổng thể báo cáo tài chính. - Trong trường hợp báo cáo tài chính được lập theo khuôn khổ về trình bày hợp lý, phần mô tả về cuộc kiểm toán trong báo cáo kiểm toán phải đề cập đến “trách nhiệm lập và trình bày trung thực và hợp lý các báo cáo tài chính của đơn vị”. - Báo cáo kiểm toán phải nêu rõ liệu kiểm toán viên có tin tưởng rằng các bằng chứng kiểm toán mà kiểm toán viên đã thu thập được là đầy đủ và thích hợp để làm cơ sở đưa ra ý kiến kiểm toán hay không. ➢ Ý kiến của kiểm toán viên - Báo cáo kiểm toán phải bao gồm một mục có tiêu đề là “Ý kiến của kiểm toán viên”. - Khi đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần đối với báo cáo tài chính được lập theo khuôn khổ về trình bày hợp lý, trừ khi pháp luật có quy định khác, ý kiến kiểm toán phải sử dụng mẫu câu sau: “Báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lý, trên các khía cạnh trọng yếu,…phù hợp với [khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính được áp dụng]” - Khi đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần đối với báo cáo tài chính được lập theo khuôn khổ về tuân thủ, ý kiến kiểm toán phải nêu rõ là báo cáo tài chính đã được lập, trên các khía cạnh trọng yếu, tuân thủ khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính được áp dụng. - Nếu khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính được áp dụng được đề cập đến trong ý kiến kiểm toán không phải là các chuẩn mực kế toán Việt Nam, chế độ kế toán doanh nghiệp Việt Nam và các quy định có liên quan đến việc lập Sv: Đặng Thúy Duyên CQ50/22.06 Luận văn tốt nghiệp 16 Học viện Tài chính và trình bày báo cáo tài chính của Việt Nam hoặc chuẩn mực lập và trình bày báo cáo tài chính quốc tế do Uỷ ban Chuẩn mực Kế toán Quốc tế ban hành hay các chuẩn mực kế toán công quốc tế do Uỷ ban Chuẩn mực Kế toán Công Quốc tế ban hành, ý kiến kiểm toán phải chỉ rõ nước ban hành ra khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính đó. ➢ Các trách nhiệm báo cáo khác - Trong báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính, nếu kiểm toán viên nêu thêm các trách nhiệm báo cáo khác ngoài trách nhiệm của kiểm toán viên là báo cáo về báo cáo tài chính theo các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam, các trách nhiệm báo cáo khác này phải được nêu trong một phần riêng trong báo cáo kiểm toán có tiêu đề là “Báo cáo về các yêu cầu khác của pháp luật và các quy định” hoặc được đặt tiêu đề khác phù hợp với nội dung của mục đó. - Nếu báo cáo kiểm toán có một phần riêng về các trách nhiệm báo cáo khác, các tiêu đề, giải thích và thuyết minh phải được đặt dưới phụ đề “Báo cáo về báo cáo tài chính.” Phần “Báo cáo về các yêu cầu khác của pháp luật và các quy định” phải được đặt ngay sau phần “Báo cáo về báo cáo tài chính” ➢ Chữ ký của kiểm toán viên - Báo cáo kiểm toán phải có 2 chữ ký, gồm chữ ký của kiểm toán viên hành nghề được giao phụ trách cuộc kiểm toán và chữ ký của thành viên Ban Giám đốc là người đại diện theo pháp luật phụ trách tổng thể cuộc kiểm toán. Dưới mỗi chữ ký nói trên phải ghi rõ họ và tên, số Giấy chứng nhận đăng ký hành nghề kiểm toán (Giấy CN ĐKHN kiểm toán). Trên chữ ký của thành viên Ban Giám đốc phụ trách tổng thể cuộc kiểm toán phải đóng dấu của doanh nghiệp kiểm toán (hoặc chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán) phát hành báo cáo kiểm toán. ➢ Ngày lập báo cáo kiểm toán Sv: Đặng Thúy Duyên CQ50/22.06 Luận văn tốt nghiệp 17 Học viện Tài chính - Ngày lập báo cáo kiểm toán không được trước ngày mà kiểm toán viên thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp để làm cơ sở đưa ra ý kiến kiểm toán về báo cáo tài chính, bao gồm các bằng chứng chứng minh rằng: • Tất cả các báo cáo cấu thành bộ báo cáo tài chính, bao gồm các thuyết minh liên quan, đã được lập; • Những người có thẩm quyền đã xác nhận trách nhiệm của họ đối với các báo cáo tài chính này; - Ngày lập báo cáo kiểm toán cũng không được trước ngày lập báo cáo tài chính. ➢ Tên và địa chỉ doanh nghiệp kiểm toán Báo cáo kiểm toán phải ghi rõ tên và địa chỉ doanh nghiệp kiểm toán. 1.2.5. Các loại ý kiến của kiểm toán viên trình bày trên Báo cáo kiểm toán về Báo cáo tài chính Ý kiến của KTV trình bày trên BCKT về BCTC là một trong những nội dung quan trọng của BCKT về BCTC. Ý kiến này đưa ra đánh giá của KTV về việc báo cáo tài chính, xét trên phương diện tổng thể, có còn sai sót trọng yếu do gian lận hoặc nhầm lẫn hay không. Ý kiến đánh giá về BCTC được kiểm toán phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu: nghĩa là ý kiến của KTV đưa ra trên BCKT về BCTC một sự đảm bảo chắc chắn rằng BCTC đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu; nhưng không đảm bảo tuyệt đối rằng không có bất kỳ một sai sót nào trên BCTC đã được kiểm toán. KTV chỉ quan tâm đến các yếu tố trọng yếu của BCTC. Ý kiến chấp nhận toàn phần - BCKT đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần được trình bày trong trường hợp KTV và công ty kiểm toán cho rằng BCTC phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của đơn vị được kiểm toán, và phù Sv: Đặng Thúy Duyên CQ50/22.06 Luận văn tốt nghiệp 18 Học viện Tài chính hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành (hoặc được chấp nhận). - BCTC được kiểm toán có những sai sót nhưng đã được KTV phát hiện và đơn vị đã điều chỉnh theo ý kiến của KTV; BCTC sau khi điều chỉnh đã được KTV chấp nhận. - BCKT về BCTC có một đoạn nhận xét để làm sáng tỏ một số yếu tố ảnh hưởng không trọng yếu đến BCTC, nhưng không có ảnh hưởng đến BCKT về BCTC. Ví dụ về ý kiến chấp nhận toàn phần:“ Theo ý kiến của chúng tôi, báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lý, trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của Công ty ABC tại ngày 31/12/20x1, cũng như kết quả hoạt động kinh doanh và tình hình lưu chuyển tiền tệ cho năm tài chính kết thúc cùng ngày, phù hợp với chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán (doanh nghiệp) Việt Nam và các quy định pháp lý có liên quan đến việc lập và trình bày báo cáo tài chính”. Có những trường hợp báo cáo tài chính dù đã được lập theo các quy định của khuôn khổ về trình bày hợp lý nhưng vẫn không đạt được mục tiêu trình bày hợp lý. Trong trường hợp đó, Ban Giám đốc có thể thuyết minh thêm trong báo cáo tài chính những nội dung mà khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính không quy định, hoặc trong một số trường hợp rất hãn hữu, Ban Giám đốc có thể không tuân thủ một quy định của khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính nhằm đạt được mục tiêu trình bày hợp lý báo cáo tài chính. Ý kiến kiểm toán không phải ý kiến chấp nhận toàn phần Theo CMKT số 705 -“Ý kiến kiểm toán không phải ý kiến chấp nhận toàn phần” kiểm toán viên phải đưa ra ý kiến kiểm toán không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần trong báo cáo kiểm toán trong các trường hợp: Sv: Đặng Thúy Duyên CQ50/22.06 Luận văn tốt nghiệp 19 Học viện Tài chính - Dựa trên bằng chứng kiểm toán thu thập được, kiểm toán viên kết luận rằng báo cáo tài chính, xét trên phương diện tổng thể, vẫn còn sai sót trọng yếu; hoặc - Kiểm toán viên không thể thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp để đưa ra kết luận rằng báo cáo tài chính, xét trên phương diện tổng thể, không còn sai sót trọng yếu. Ý kiến kiểm toán không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần gồm 3 dạng: “Ý kiến kiểm toán ngoại trừ”, “Ý kiến kiểm toán trái ngược” hoặc “Từ chối đưa ra ý kiến”. a. Ý kiến kiểm toán ngoại trừ Kiểm toán viên phải trình bày “ý kiến kiểm toán ngoại trừ” khi - Dựa trên các bằng chứng kiểm toán đầy đủ, thích hợp đã thu thập được, kiểm toán viên kết luận là các sai sót, xét riêng lẻ hay tổng hợp lại, có ảnh hưởng trọng yếu nhưng không lan tỏa đối với báo cáo tài chính; hoặc - Kiểm toán viên không thể thu thập được đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp để làm cơ sở đưa ra ý kiến kiểm toán, nhưng kiểm toán viên kết luận rằng những ảnh hưởng có thể có của các sai sót chưa được phát hiện (nếu có) có thể là trọng yếu nhưng không lan tỏa đối với báo cáo tài chính. - Ví dụ về ý kiến kiểm toán ngoại trừ Cơ sở của ý kiến kiểm toán ngoại trừ Tại công ty ABC có một TSCĐ giá trị là XXX1 VND trên Bảng cân đối kế toán tại ngày 31/12/20x1, được trích khấu hao và tính vào khoản chi phí quản lý doanh nghiệp giá trị XXX2 trong Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của ABC cho năm tài chính kết thúc cùng ngày. Chúng tôi không thể thu thập được đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp về giá trị ghi sổ của TSCĐ này tại ngày 31/12/20x1. Do đó, chúng tôi không thể xác định liệu có cần thiết phải điều chỉnh các số liệu này hay không. Ý kiến kiểm toán ngoại trừ Sv: Đặng Thúy Duyên CQ50/22.06 Luận văn tốt nghiệp 20 Học viện Tài chính Theo ý kiến của chúng tôi, ngoại trừ ảnh hưởng của vấn đề nêu tại đoạn “Cơ sở của ý kiến kiểm toán ngoại trừ”, báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lý, trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của Công ty ABC tại ngày 31/12/20x1, cũng như kết quả hoạt động kinh doanh và tình hình lưu chuyển tiền tệ cho năm tài chính kết thúc cùng ngày, phù hợp với chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán (doanh nghiệp) Việt Nam và các quy định pháp lý có liên quan đến việc lập và trình bày báo cáo tài chính. b. Ý kiến kiểm toán trái ngược Kiểm toán viên phải trình bày “ý kiến kiểm toán trái ngược” khi dựa trên các bằng chứng kiểm toán đầy đủ, thích hợp đã thu thập được, kiểm toán viên kết luận là các sai sót, xét riêng lẻ hay tổng hợp lại, có ảnh hưởng trọng yếu và lan tỏa đối với báo cáo tài chính. Ví dụ về ý kiến kiểm toán trái ngược Cơ sở của ý kiến kiểm toán trái ngược Như đã trình bày ở thuyết minh X, Tập đoàn (Tổng Công ty) chưa hợp nhất báo cáo tài chính của công ty con DEF mà Tập đoàn (Tổng Công ty) đã mua trong năm 20X1, do chưa xác định được giá trị hợp lý của một số tài sản và khoản nợ phải trả trọng yếu của công ty con tại ngày mua. Do đó, khoản đầu tư này đang được phản ánh trên báo cáo tài chính hợp nhất của Tập đoàn (Tổng Công ty) theo giá gốc. Theo quy định của chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán (doanh nghiệp) Việt Nam hiện hành, báo cáo tài chính của công ty con DEF phải được hợp nhất vì công ty con chịu sự kiểm soát của công ty mẹ. Nếu báo cáo tài chính của công ty DEF được hợp nhất, nhiều khoản mục trong báo cáo tài chính hợp nhất kèm theo sẽ bị ảnh hưởng trọng yếu. Các ảnh hưởng đối với báo cáo tài chính hợp nhất do việc không hợp nhất báo cáo tài chính công ty con là chưa thể xác định được. Ý kiến kiểm toán trái ngược Sv: Đặng Thúy Duyên CQ50/22.06
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan