TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BỘ MÔN NGỮ VĂN
----
HUỲNH DIỄM MY
MSSV: 6095872
HÌNH THỨC TỰ SỰ TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN BÁ HỌC
Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Ngữ Văn khóa 35
Giáo viên hướng dẫn: ThS.GvC. HUỲNH THỊ LAN PHƯƠNG
Cần Thơ, 5/2013
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài Hình thức tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Bá Học,
người viết đã cố gắng hết sức mình. Tuy nhiên, bên cạnh việc nỗ lực của bản thân,
người viết còn nhờ sự giúp đỡ và động viên không nhỏ từ quý thầy cô và bạn bè
để hoàn thành tốt luận văn này.
Nhân đây, người viết xin dành trang đầu tiên để gửi lời cảm ơn chân thành
và biết ơn sâu sắc đến quý thầy cô và các bạn đã nhiệt tình giúp đỡ người viết suốt
những năm tháng trên giảng đường Đại học, đặc biệt là sự giúp đỡ tận tình của cô
Huỳnh Thị Lan Phương trong giai đoạn đầy khó khăn và thử thách đối với người
viết.
Mặc dù, người viết đã hết sức cố gắng nhưng vì khả năng và thời gian có
hạn nên luận văn chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong nhận
được sự đóng góp ý kiến chân thành của quý thầy cô.
Người thực hiện
ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích và yêu cầu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LÍ LUẬN VĂN HỌC
1.1 Một số vấn đề về lí luận văn học
1.1.1. Khái niệm tự sự
1.1.2. Khái niệm người kể chuyện
1.1.3. Các hình thức tự sự
1.2. Vài nét về tác giả Nguyễn Bá Học
1.2.1. Cuộc đời
1.2.2. Sự nghiệp sáng tác
1.3. Đôi nét về truyện ngắn của Nguyễn Bá Học
1.3.1. Những nét nổi bật trong truyện ngắn Nguyễn Bá Học
1.3.2. Nét đặc sắc về nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Bá Học
CHƯƠNG II. NGƯỜI KỂ CHUYỆN VÀ ĐIỂM NHÌN TRẦN
THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN BÁ HỌC
2.1. Người kể chuyện – chủ thể tự sự trong truyện Nguyễn Bá Học
2.1.1. Khái niệm về người kể chuyện
2.1.2. Ngôi của người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Bá Học
2.1.3. Vai trò của người kể chuyện
2.1.4. Giọng điệu của người kể chuyện
2.2. Điểm nhìn trần thuật
2.2.1. Các điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Bá Học
2.2.2. Trọng điểm của điểm nhìn trần thuật
CHƯƠNG III. PHƯƠNG THỨC TỰ SỰ VÀ NHỮNG TÍNH CHẤT
CỦA HÌNH THỨC TỰ SỰ TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN BÁ
HỌC
3.1. Phương thức tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Bá Học
3.1.1. Kể chuyện theo kết cấu đường thẳng
3.1.2. Kể chuyện theo bút pháp bạch miêu
3.1.3. Kể chuyện theo kết hợp với phân tích bình luận
3.1.4. Kể chuyện bằng giọng của người kể chuyện đối với nhâ vật và giọng
nhân vật đối với thế giới
3.2. Những thuộc tính của hình thức tự sự thể hiện trong truyện ngắn Nguyễn
Bá Học
3.2.1. Khoảng cách thời gian hoạt động được miêu tả và sự trần thuật.
3.2.2. Khoảng cách giữa người trần thuật và nhân vật trong tác phẩm.
3.2.3. Miêu tả trong trần thuật với vai trò khắc họa sự vận động của cuộc
sống và con người
PHẦN KẾT LUẬN
PHẦN NỘI DUNG
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn học giai đoạn đầu thế kỷ XX là một giai đoạn văn học hiện đại của
nước nhà, với thể loại đa dạng và nội dung phong phú: tiểu thuyết, truyện ngắn,
kịch, thơ,...Trong đó, truyện ngắn là một trong những thể loại phát triển mạnh. Và
cũng trong giai đoạn này, có nhiều cây bút đã thành công ở thể loại truyện ngắn:
Trần Quang Nghiệp, Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn,...Các nhà văn đã dùng ngòi
bút của mình để phản ánh hiện thực xã hội. Và nhà văn Nguyễn Bá Học là người
có nhiều đóng góp cho thể loại này.
Nguyễn Bá Học là một trong những cây bút đầu tiên viết truyện ngắn hiện
đại bằng chữ Quốc ngữ trong văn học Việt Nam. Ông luôn chú trọng giữ gìn nề
nếp gia phong đạo lý và tâm huyết với việc bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống
của dân tộc đang dần bị mai một đi trong xã hội buổi giao thời với đầy biến động
từ khi có luồng tư tưởng Tây phương ồ ạt tràn vào nước ta. Tư tưởng Tây phương
đã làm lung lay cả nền luân lí lâu đời của dân tộc, khiến cho không ít người đã trở
nên lai căng, mất gốc. Chính vì thế, ngòi bút hiện thực của Nguyễn Bá Học đã
xoáy sâu vào những vấn đề đang diễn ra trong thực tiễn đời thường, những sự việc
xảy ra trong cơn biến thiên của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX. Từ đó, nhà văn đã
trần thuật lại một cách tỉ mỉ sự vận động của cuộc sống với đủ mọi thành phần
trong xã hội. Từ những người giàu sang đến những người nghèo khổ. Ông phản
ánh cuộc sống ê chề, đau đớn của những cô gái sa chân bị đẩy xuống vực thẳm
hay những cô gái con nhà giàu mà rơi vào cảnh lầm than và cả nỗi vất vả, bất hạnh
tận cùng của công nhân thợ dệt. Ngoài ra, ngòi bút của ông còn tập trung phản ánh
số phận bi thảm của những người theo Nho học trong những năm đầu thế kỷ XX.
Nguyễn Bá Học giúp người đọc hiểu rõ hơn số phận con người trong thời buổi
chuyển giao thời.
Trước nay đã có nhiều bài viết giới thiệu về: thân thế và sự nghiệp, phong
cách, tác phẩm, của Nguyễn Bá Học,...nhưng chưa có bài viết hay công trình nào
nghiên cứu về Hình thức tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Bá Học. Với sự
ngưỡng mộ tài năng và công lao mở đường cho truyện ngắn Quốc ngữ, người viết
chọn đề tài Hình thức tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Bá Học với mong muốn
được góp thêm một phần nhỏ của mình vào việc khẳng định các giá trị của truyện
ngắn của Nguyễn Bá Học.
2. Lịch sử vấn đề.
Nói đến nhà văn Nguyễn Bá Học và các sáng tác của ông từ trước đến nay
đã có không ít bài viết, công trình nghiên cứu. Chúng ta có thể điểm qua một số
nhà nghiên cứu và phê bình gắn liền với các sáng tác của Nguyễn Bá Học như:
Nguyễn Đăng Mạnh, Phạm Minh Thảo – Phạm Minh Luật, Vũ Ngọc Phan,…Và
sau đây là một số công trình tiêu biểu:
Trong Từ điển tác giả - tác phẩm văn học Việt Nam (Dùng cho nhà
trường) của Nguyễn Đăng Mạnh (biên soạn), NXB ĐH Sư Phạm TP. Hồ Chí
Minh, tác giả đã giới thiệu gần như khá đầy đủ về thân thế, sự nghiệp, phong cách,
tác phẩm của nhà văn Nguyễn Bá Học. Đồng thời, trong từ điển cũng có ý kiến
nhận xét về “Nguyễn Bá Học là một trong những nhà văn đầu tiên ở Việt Nam đầu
thế kỷ XX viết truyện ngắn phản ánh cuộc sống xã hội thành thị đang trên đà tư
sản hóa”. Điều đó giúp cho người viết thấy được nội dung nổi bật trong truyện
ngắn của Nguyễn Bá Học là việc đi sâu vào phản ánh hiện thực cuộc sống thành
thị trong thời điểm chuyển giao thế hệ.
Tuyển tập văn xuôi Việt Nam (Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX), Phạm Minh
Thảo – Phạm Ngọc Luật (tuyển chọn và giới thiệu), NXB Phụ nữ, NXB 3/1999,
đã giới thiệu về những tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Nguyễn Bá Học. Trong đó,
những tác phẩm của Nguyễn Bá Học được trích dẫn gần như khá đầy đủ.
Trong quyển Nhà văn hiện đại (tập 1) của Vũ Ngọc Phan, nhà xuất bản
văn học. Có bài viết giới thiệu về nhà văn Nguyễn Bá Học. Trong đó, tác giả đã
giới thiệu những nét đặc sắc về một số truyện ngắn của Nguyễn Bá Học. Đồng
thời, ông còn trích lời khen ngợi của Phạm Quỳnh về truyện ngắn của Nguyễn Bá
Học: “…Hay nhất, có giá trị nhất là mấy bài đoản thiên tiểu thuyết, toàn là ngụ ý
răn đời. Lập ý đã hay, lời văn lại nhã. Mỗi bài in ra, các bạn đọc báo lấy làm
khoái trá vô cùng” (Nam Phong, số 50, trang 164). Qua lời khen của Phạm Quỳnh
đã phần nào khẳng định được giá trị của các truyện ngắn Nguyễn Bá Học.
Bên cạnh đó, trong quyển Lịch sử văn học Việt Nam (tập 4B), NXB Giáo
Dục, NXB 1978, tác giả nhận định về Nguyễn Bá Học là người viết truyện ngắn
đầu tiên ở giai đoạn đầu thế kỷ XX. Ông là nhà nho chuyển sang viết báo, làm văn.
Câu văn ông dùng nhiều chữ Hán, đầy dẫy tính chất biền ngẫu, du dương. Ông
nhận thấy trong xã hội đang biến đổi có nhiều lúc hư hỏng nhất về mặt luân lý, nên
ông chú trọng hẳn về mặt ấy. Chính lời nhận định của tác giả về nhà văn Nguyễn
Bá Học đã giúp người viết hiểu sâu hơn về nhà văn Nguyễn Bá Học – là một
người có nhiều đóng góp cho nền văn học Việt Nam hiện đại.
Ngoài ra, trong quyển Lí luận văn học, Phương Lựu (chủ biên) NXB Giáo
dục, 11/2006. Có đề cập đến tác phẩm tự sự. Ở đó, ông đã đưa ra khái niệm chung
về loại tác phẩm tự sự bao gồm cả nhân vật tự sự, hình tượng người trần thuật thể
hiện trong tác phẩm tự sự. Đồng thời, tác giả còn nói lên vai trò của tác phẩm tự sự
“không chỉ phản ánh cái tồn tại vật chất với các việc làm, hành động của con
người. Nó cũng phản ánh thế giới bên trong bao gồm tâm trạng, cảm xúc, ý nghĩ
của con người nữa”. Ngoài ra, ông còn trích câu nói của Heghen “cần phải trần
thuật về những tình cảm, những suy nghĩ, cũng như về tất cả những gì bề ngoài
như một cái gì đã xảy ra, nói ra, nghĩ ra” – tức là như những sự kiện và Heghen
viết tiếp “sự kiện cá biệt, như tôi đã nói nhiều lần, là cái hình thức làm cho tự sự
trở thành ý nghĩa đích thực của từ đó”. Từ khái niệm về tác phẩm tự sự đã nêu
giúp cho người viết có cơ sở xác định rõ về hình tượng người trần thuật và nhân
vật trong mỗi tác phẩm của nhà văn Nguyễn Bá Học.
Các công trình nghiên cứu trên mới chủ yếu đi sâu vào vấn đề quan điểm,
đóng góp, cuộc đời, sự nghiệp của Nguyễn Bá Học. Còn vấn đề hình thức tự sự
trong truyện ngắn của Nguyễn Bá Học thì hầu như chưa có công trình nghiên cứu
chuyên biệt nào cả. Có chăng những công trình đi trước khi nghiên cứu đã lấy đối
tượng khảo sát là tác phẩm của những nhà văn khác như: Nguyễn Du, Ngô Tất Tố,
Nguyễn Tuân,…
Có thể nói, đây là khó khăn và thử thách đối với người viết khi nghiên cứu
đề tài này. Tuy nhiên, người viết cũng cố gắng khai thác vấn đề tự sự ở các công
trình nghiên cứu có liên quan ít nhiều đến đề tài như: khái niệm tự sự, tác phẩm tự
sự nói chung. Nhưng tiêu biểu nhất là quyển Tự sự học của Trần Đình Sử chủ
biên. Ở đây, tác giả đã dẫn lại khái niệm về tự sự của J.H.Miller, nhà giải cấu trúc
Mĩ có nói (1993): “Tự sự là cách để ta đưa các sự việc vào một trật tự, và từ trật
tự ấy mà chúng có được ý nghĩa. Tự sự là cách tạo nghĩa cho, sự kiện, biến cố”
hay theo Jonathan Culler (1998) cũng nói: “Tự sự là phương thức chủ yếu để con
người hiểu biết sự vật”. Khái niệm xoay quanh về vấn đề tự sự, vì vậy giúp người
viết hiểu được thế nào là tự sự, các hình thức tự sự thể hiện như thế nào. Từ đó áp
dụng vào việc lí giải, làm sáng tỏ hình thức tự sự mà Nguyễn Bá Học đã sử dụng
trong tác phẩm của mình.
Qua các công trình nghiên cứu, người viết tập hợp được những yếu tố có
liên quan để làm sáng tỏ đề tài nghiên cứu của mình.
3. Mục đích yêu cầu
Một nhà cấu trúc Mĩ (1993), J.H.Miller, cho rằng: “Tự sự là cách để đưa
các sự việc vào một trật tự, và từ trật tự ấy mà chúng có được ý nghĩa. Tự sự là
cách tạo nghĩa cho sự kiện biến cố” (Dẫn lại từ bài viết của Trần Đình sử, Tự sự
học – Một bộ môn liên ngành giàu tiềm năng. Tạp chí nghiên cứu văn học số 22002, trang 4).
Nghiên cứu tự sự là nghiên cứu cách thức nhà văn làm tái hiện chân dung
cuộc sống và con người thông qua văn bản nghệ thuật. Đây là một hướng tiếp
nhận tác phẩm nhằm phát hiện ra những giá trị nghệ thuật của một tác phẩm tự sự.
Với đề tài Hình thức tự sự trong truyện ngắn của Nguyễn Bá Học, người
viết không ngoài mục đích tìm hiểu một phương cách làm tái hiện bức tranh xã hội
và con người ở truyện ngắn của Nguyễn Bá Học. Đây là một hướng nghiên cứu
được quan tâm nhiều trong thời gian gần đây. Nó giúp người nghiên cứu có thể
phát hiện được và lý giải các đặc điểm của cấu trúc tự sự để từ đó hiểu rõ hơn ý đồ
nghệ thuật của nhà văn.
4. Phạm vi nghiên cứu
Nói đến tự sự học bao gồm cả lý thuyết cấu trúc văn bản tự sự, cấu trúc sự
kiện và cả phần nghiên cứu về hình thức tự sự. Nhưng ở đây, người viết chỉ tập
trung nghiên cứu hình thức tự sự trong truyện ngắn của Nguyễn Bá Học. Chủ yếu
tìm hiểu về người kể chuyện – chủ thể tự sự; phương thức tự sự để rút ra được
những kết luận về hình thức tự sự thể hiện qua việc khảo sát 8 truyện ngắn của
Nguyễn Bá Học: Câu chuyện một tối của người tân hôn, Chuyện cô Chiêu Nhì, Dư
sinh lịch hiểm ký, Câu chuyện gia tình, Có gan làm giàu, Câu chuyện nhà sư,
Truyện ông Lý Chắm, À, truyện Chiêm bao. Bên cạnh đó, người viết còn tìm hiểu
và tham khảo một số ý kiến có liên quan đến Nguyễn Bá Học. Đồng thời, người
viết cũng tìm hiểu một số tác phẩm của Phạm Duy Tốn, Nguyễn Trọng Quản – các
nhà văn cùng thời, tác phẩm của Nguyễn Minh Châu để đối chiếu, so sánh nhằm
làm sáng tỏ yêu cầu của đề tài.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết vấn đề nghiên cứu người viết sử dụng các phương pháp sau:
Phương pháp tiểu sử: người viết thông qua tiểu sử của Nguyễn Bá Học
nhằm lí giải và khẳng định vị trí của các tác phẩm trong quá trình sáng tác của nhà
văn.
Phương pháp phân tích: dùng phân tích các tác phẩm để nắm được nội
dung, nghệ thuật cũng như thấy được những điểm khác nhau giữa các tác phẩm.
Phương pháp so sánh, người viết so sánh tác phẩm với những tác phẩm của
nhà văn cùng thời lẫn trước đó và có cả tác phẩm sau thời đổi mới trên cơ sở
khách quan, để làm nổi bật nét hiện đại trong tác phẩm của Nguyễn Bá Học.
Phương pháp thống kê, phân loại: để sắp xếp các tác phẩm có những điểm
chung và sự khác biệt về vị trí của người kể chuyện và các điểm nhìn trần thuật,
cũng như phương thức tự sự và những thuộc tính trong hình thức tự sự của truyện
ngắn Nguyễn Bá Học.
Ngoài ra, các phương pháp như: giải thích, chứng minh, bình luận,…cũng
được sử dụng ở mức độ phù hợp để góp phần làm sáng tỏ vấn đề.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG MỘT: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Một số vấn đề lí luận văn học
1.1.1. Khái niệm về tự sự
Roland Barthes nói về sự hình thành của tự sự: “Đã có bản thân lịch sử
loài người, thì đã có tự sự”. Tự sự đã có từ xưa, trải qua rất nhiều chặng đường và
gắn liền với lịch sử loài người. Trong suốt hàng trăm năm qua có không ít công
trình nghiên cứu về tự sự. Và ở đây người viết xin dẫn lại từ bài viết của Trần
Đình Sử: Tự sự học - một bộ môn nghiên cứu liên ngành giàu tiềm năng. Trong
đó, J.H.Miller, nhà giải cấu trúc Mỹ có nói (1993): “Tự sự là cách đưa các sự việc
vào một trật tự và trật tự ấy mà chúng có được ý nghĩa. Tự sự là cách tạo nghĩa
cho sự kiện, biến cố”. Hay Jonathan Culler (1998) cũng nói: “Tự sự là phương
thức chủ yếu để con người hiểu biết sự vật”. Muốn hiểu được một sự vật nào thì
người ta kể câu chuyện về sự vật đó. Bản chất của tự sự ngày nay được hiểu là một
sự truyền đạt thông tin, là quá trình phát ra đơn phương trong quá trình giao tiếp,
văn bản tự sự là cụm thông tin được phát ra, và tự sự có thể thực hiện bằng nhiều
phương thức, con đường.
Nghiên cứu tự sự là nghiên cứu cách thức nhà văn tái hiện chân dung cuộc
sống và con người thông qua văn bản nghệ thuật. Đây là một hướng tiếp nhận tác
phẩm nhằm phát hiện những giá trị nghệ thuật của một tác phẩm tự sự.
Trong văn học, tự sự có trong thơ, thơ trữ tình, trong kịch, chứ không chỉ là
trong truyện ngắn, tiểu thuyết, ngụ ngôn,…như một phương thức tạo nghĩa và
truyền thông tin. Tự sự nằm trong bản chất của con người, bởi con người là một
động vật biết tự sự. Vì vậy, có thể nói rằng tự sự là phương thức tái hiện đời sống
qua các sự kiện, biến cố và hành vi con người trong toàn bộ tính khách quan của
nó. Đồng thời, ở đây tư tưởng và tình cảm của nhà văn thâm nhập sâu sắc vào sự
kiện và hành động của con người, nhà văn kể lại, tả lại những gì xảy ra bên ngoài
mình, khiến cho người đọc có cảm giác rằng hiện thực được phản ánh trong tác
phẩm là một thế giới tạo hình xác định đang tự tồn tại, phát triển, không phụ thuộc
vào tình cảm, ý muốn của người viết.
Như đã nói, tự sự là cách tạo nghĩa cho sự kiện, các biến cố và là một phương thức
truyền đạt thông tin. Để làm được điều đó đòi hỏi tự sự phải tạo ra được một hình
tượng nhân vật, đó là người trần thuật. Ở đó người trần thuật đảm nhiệm vai trò
thông báo về các biến cố, các tình tiết như thông báo về một cái gì đó đã xảy ra và
nhớ lại, đồng thời mô tả hoàn cảnh hành động và dáng nét các nhân vật, nhiều khi
còn thêm cả những lời bình luận. Như trong Truyện ngắn Thầy Lazarô Phiền của
Nguyễn Trọng Quản ông đã tạo ra hình tượng người trần thuật, đó là nhân vật
xưng tôi. Anh ta đi trên chiếc tàu, chính trên chiếc tàu ấy người trần thuật đã gặp
và được nghe toàn bộ câu chuyện về cuộc đời của vị thầy tu đang ra Vũng Tàu
dưỡng bệnh. Suốt chặng đường đi người trần thuật cùng đồng hành với nhân vật
về câu chuyện của anh ta. Và khi ấy người trần thuật vừa là người tiếp nhận cũng
đồng thời anh ta là người dẫn dắt câu chuyện và truyền tải thông tin lại cho độc giả
biết. Đầu tiên, người trần thuật đưa độc giả đến với biến cố xảy ra với nhân vật là
việc anh ta nhận được một bức thư không rõ nguồn gốc nói rằng vợ đã ăn ở với
Vero Liễu (em kết nghĩa của Phiền và cũng là anh bà con của vợ Phiền). Tất cả
mọi biến cố, tang thương xảy ra với anh và cả gia đình là do sự bất cẩn, không suy
xét kỹ lưỡng mọi việc mà đã vội vàng kết luận. Chính vậy, nó làm cho máu ghen
trổi dậy trong Phiền, anh ta không ngần ngại lập mưu giết Liễu trong đợt anh được
lệnh đi bắt cướp trên sông. Sai lầm lại một lần nữa nối tiếp sai lầm, khi anh nhẫn
tâm bỏ thuốc độc vào siêu thuốc ho vợ đang đun, để rồi người vợ hết lòng yêu
thương, chung thủy đã chết dưới tay Phiền. Những sai lầm đã khiến cảnh gia đình
tan vỡ, chính tay anh giết vợ và cả người em thân thiết của mình. Chính những
việc anh đã làm nó cứ theo anh mãi, trở thành nỗi dằng vặt, ân hận đến lúc chết
cũng không tha thứ cho tội lỗi mình. Có thể nói, xuyên suốt câu chuyện vị trí
người trần thuật luôn có mặt trong tác phẩm dù anh ta không phải là người trực
tiếp tham gia vào biến cố trong câu chuyện. Nhưng anh ta dẫn dắt người độc đến
với biến cố của nhân vật và cùng nhân vật giải quyết những biến cố đó.
Tự sự hết sức tự do trong việc chiếm lĩnh không gian và thời gian. Vì vậy
nhà văn thỏa sức xây dựng những đoạn miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật trước,
trong và sau biến cố hoặc những đoạn miêu tả cảnh vật dài đến hàng chục, thậm
chí hàng trăm, nghìn trang giấy mà vẫn tạo được sự thu hút với độc giả. Và nó
cũng là khoảng thời gian đủ để người đọc hiểu được những điều nhà văn gửi gắm
trong tác phẩm.
Ngoài ra, trong Từ điển thuật ngữ văn học, cũng nói về tự sự: “Tự sự là
phương thức tái hiện đời sống trong toàn bộ tính khách quan của nó. Tác phẩm tự
sự bao giờ cũng có cốt truyện, gắn với cốt truyện là một hệ thống nhân vật được
khắc họa đầy đủ nhiều mặt hơn hẳn nhân vật trữ tình và kịch”. Từ quan niệm trên,
chúng ta hiểu tự sự là phương thức phản ánh thế giới thông qua cốt truyện và nhân
vật cụ thể.
Như trong câu chuyện À, truyện chiêm bao được nhà văn Nguyễn Bá Học
xây dựng theo cốt truyện tâm lý và qua nhân vật chính là Hàn Bán Thiên. Nhà văn
không trực tiếp kể lại chuyện mà xây dựng nên hình tượng người kể chuyện đứng
ra kể. Người kể chuyện ở đây đứng bên ngoài quan sát về nhân vật nhưng hiểu rất
rõ về nhân vật. Từ tính cách, hành động cho đến thế giới tâm hồn. Hàn Bán Thiên
vốn là một anh chàng sự học lỡ bước mà lại hay mơ xa, anh ta mơ mình trở thành
một nhà đại chính trị, một nhà kinh tế, một nhà đại văn hào,…Đã sự học không
thành mà còn biếng nhát, anh ta sống với tâm lý luôn muốn hưởng thụ chứ chẳng
bao giờ làm. Điều này được người kể chuyện trình bày khá rõ trong giấc mơ của
Hàn Bán Thiên. Anh ta mơ mình trúng số độc đắc và trong chính giấc mơ ấy anh
ta đã tính toán mọi khoản chi cho việc hưởng thụ của mình, nào là tậu ruộng vườn
ao 5.000$, làm nhà ở 5.000$, vào thương hội 10.000$, lập trại biệt thự
3.000$,…Qua việc xây dựng nên nhân vật trong tác phẩm đi từ hành động cho đến
diễn biến tâm lý nhân vật chỉ biết hưởng thụ, nó đã góp phần khái quát được một
phần bức tranh hiện thực xã hội bấy giờ. Cái xã hội mà con người đang dần đánh
mất mình.
Có thể nói, tự sự là phương thức tạo nghĩa cho các sự vật trong sáng tác của
nhà văn, với phương thức tự sự này giúp cho nhà văn hiểu rõ hơn về các sự vật và
từ đó lý giải cho độc giả. Và chính nhờ phương thức tự sự các biến cố trong tác
phẩm được sắp xếp theo một trình tự nhất định để việc tiếp nhận tác phẩm được dễ
hơn đối với độc giả.
1.1.2. Các hình thức tự sự
Theo lý thuyết tự sự học, chúng ta có thể phân các hình thức tự sự thành ba loại
chính:
Tự sự theo điểm nhìn bên trên, người kể chuyện là người biết hết, nghe hết,
thấy hết: người kể chuyện là người biết tất cả mọi sự, gần như nắm hết, nghe hết,
thấy hết mọi sự việc của nhân vật mình. Nhân vật không thể che giấu được gì đối
với người kể chuyện. Vì người kể chuyện hiểu thấu được những điều mà chính
nhân vật cũng không ý thức được hết. Người kể chuyện ở đây biết nhiều hơn nhân
vật biết về chính nó. Con mắt của người trần thuật có mặt ở mọi nơi, mọi lúc, xoáy
sâu vào từng chi tiết nhỏ của đời sống để kể lại cho độc giả. Nhờ vậy, mà mọi hiện
thực đều được phơi bày một cách rõ nét. Nhưng điều này nó cũng đem lại một hạn
chế lớn cho người kể chuyện theo điểm nhìn bên trên. Vì ngày nay dạng người kể
chuyện này không được nhiều nhà văn sử dụng bởi nó tạo ra tâm lý nhàm chán
cho độc giả. Vì một lẽ, con người trong thời hiện đại luôn được xem là một thực
thể phức tạp và khó hiểu. Cho nên, mọi câu chuyện kể được viết ra đều phải tạo
cho người đọc sự hứng thú tìm tòi, khám phá những điều bí ẩn hoặc có một thái độ
hoài nghi, phủ nhận với những điều họ tìm thấy trong tác phẩm.
Tự sự theo điểm nhìn bên trong, điểm nhìn từ nhân vật: ở đây người kể
chuyện đồng thời là một nhân vật trong tác phẩm. Anh ta chỉ nói lên những điều
anh ta biết và thấy. Cái nhìn của người kể chuyện thiên nhiều hơn về chủ quan
theo tư tưởng, thái độ nhân vật mà anh ta thâm nhập. Theo lý thuyết tự sự học,
người kể chuyện mang điểm nhìn bên trong khi người kể là nhân vật ngay trong
câu chuyện. Khảo sát truyện ngắn VN thời kì sau đổi mới, ta nhận thấy được sự
cách tân trong nghệ thuật đó là cách kể chuyện tập trung vào dạng thức người kể
chuyện theo điểm nhìn bên trong, đặc biệt ở phương thức trần thuật từ ngôi thứ
nhất, người kể chuyện xưng tôi. Qua thống kê về một số tác giả tiêu biểu ta thấy số
truyện ngắn sáng tác theo phương thức trần thuật từ ngôi kể thứ nhất này chiếm tỷ
lệ không nhỏ. Truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, truyện ngắn của Duyên Anh.
Tuy mãi đến những năm sau đổi mới nền văn học Việt Nam mới có sự cách tân
trong nghệ thuật, nhưng ở những năm đầu thế kỷ XX độc giả đã thấy thấp thoáng
nét hiện đại trong truyện ngắn của Nguyễn Bá Học về phương thức trần thuật ở
ngôi thứ nhất – người kể chuyện xưng tôi. Và vấn đề này chúng ta sẽ tìm hiểu kỹ
hơn ở những chương tiếp theo trong luận văn. Với ngôi kể chuyện thứ nhất này,
người kể chuyện xưng tôi có vai trò quan trọng trong việc quyết định cấu trúc tác
phẩm, vì khi ấy người kể chuyện có toàn quyền năng miêu tả từ nhân vật này sang
nhân vật khác theo điểm nhìn của bản thân mình. Có thể nói, hình tượng người kể
chuyện ở ngôi thứ nhất trong giai đoạn văn học này đã thật sự được quan tâm
nhiều hơn so với giai đoạn trước đó. Vì văn học giai đoạn này có những đổi mới
trong tư duy nghệ thuật, văn học chuyển từ quan niệm của con người tập thể, cộng
đồng thành con người cá thể. Đồng thời sự sáng tạo của cá nhân đã thật sự được
công nhận và quan tâm nhiều hơn. Với cách kể chuyện này, thì người kể chuyện
và nhân vật đã chuyển hóa trong nhau, anh ta tự kể lại những biến cố của mình hay
những gì mà anh ta chứng kiến. Trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của
Nguyễn Minh Châu nhà văn để cho nhân vật tôi – Phùng kể chuyện anh được giao
nhiệm vụ đi chụp bộ ảnh về biển. Phùng “vác” máy ảnh trở lại vùng biển, nơi
chiến trường cũ thời anh tham gia chống Mỹ. Anh háo hức khi “phục kích” được
một cảnh “trời cho” - màu hồng, trắng của bức tranh “toàn bích” - cảnh buổi sáng
mờ sương lung linh huyền ảo. Nhưng phía sau cái lung linh ấy là cả một chuỗi dài
sự bất hạnh của người đàn bà ngoài bốn mươi tuổi, cao lớn, thô kệch, mệt mỏi, tái
ngắt,…chịu cảnh đánh đập tàn nhẫn của người chồng vũ phu “hai con mắt đầy vẻ
độc dữ lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân
dưới ướt sũng của người đàn bà” [14; tr.71]. Với hắn tình thương yêu như một cái
gì xa xỉ. Hắn sẵn sàng đánh vợ như một con thú dữ muốn nuốt chững con mồi
“quật tới tấp vào lưng người đàn bà” [21; tr.71]. Hắn “vừa đánh vừa thở hồng hộc,
hai hàm răng nghiến ken két” [22; tr.71]. Lão “trút cơn giận như lửa cháy” [20;
tr.71] vào người đàn bà tội nghiệp, đáng thương. Hình ảnh đau lòng ấy đã khắc sâu
vào lòng của người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. Anh thật “kinh ngạc, đứng há mồm ra
mà nhìn” [5; tr.72] trong vài phút...Ở đây người kể chuyện đóng vai nhân vật nhảy
vào các biến cố, tham gia trực tiếp vào câu chuyện, rồi kể lại cho độc giả nghe. Điều
đó giúp cho câu chuyện trở nên gần gũi hơn với hiện thực cuộc sống. Hay trong
truyện ngắn Câu chuyện thương tâm của Phạm Duy Tốn cũng được kể ở ngôi thứ
nhất. Người kể chuyện tham gia trực tiếp vào diễn biến của câu chuyện, nhân vật
xưng tôi chứng kiến một cảnh đời đau khổ của ông lão đã ngoài sáu mươi tuổi mà
vẫn phải đi kéo xe mướn. Trong cảnh trời mưa gió rét, với thân hình gầy gò yếu
đuối khẳng kheo của ông vậy mà phải dầm mưa gió để kiếm tiền nuôi những đứa
cháu mồ côi cha và cả đứa con dâu. Người kể chuyện rất xót xa cho hoàn cảnh ông
lão, muốn làm gì đó cho hoàn cảnh của ông nhưng đành bất lực “Trời ơi! Sao mà
lại có cái khổ cực dường này, hử ông trời xanh cao ngất ?” [8; tr.368]. Qua một số
tác phẩm kể ở ngôi thứ nhất với hình thức tự sự theo điểm nhìn bên trong ta thấy
với cách kể chuyện từ điểm nhìn bên trong của tôi - người trong cuộc như thế,
người đọc dễ dàng nhận ra quan niệm của nhà văn trước các vấn đề của cuộc sống,
nhân sinh. Qua nhân vật tôi - người kể chuyện, nhà văn có thể bình luận, đánh giá
mà vẫn không gây cho độc giả cảm giác bị áp đặt, khuôn khổ. Kể chuyện theo
hình thức tự sự này, người kể chuyện dễ dàng bộc lộ cảm xúc của cá nhân mình và
đồng thời anh ta trở thành chủ thể mang cả hai ý thức, ý thức của chính mình và
của nhân vật. Nhân vật tôi thỏa sức bày tỏ những suy nghĩ, nhận định, đánh giá
khách quan của mình về con người, về cuộc đời mà vẫn tạo nên một logic khách
quan, không mang đến sự khó chịu, cưỡng ép cho người đọc. Có khi mạch cảm
xúc của câu chuyện như ngừng đọng lại để cho nhân vật tôi bày tỏ cảm xúc của
mình một cách tự nhiên, chân thực về cuộc sống, con người. Phần lớn những câu
chuyện được kể với hình thức tự sự theo điểm nhìn bên trong này nó sẽ giúp người
đọc hiểu nhiều hơn về thế giới nội tâm của nhân vật. Vì khi ấy sự trần thuật chủ
yếu tập trung vào chiều sâu tâm tưởng của nhân vật. Mặc dù vậy, với cách kể
chuyện theo điểm nhìn bên trong này vẫn có hạn chế bởi vì nhân vật tôi không
phải là người kể chuyện toàn tri, là người biết tất cả mọi chuyện. Tôi biết rõ những
gì về mình nhưng không thể tường tận về chuyện của người khác. Cho nên điểm
nhìn và góc quan sát của người kể chuyện cũng bị hạn chế, vị trí của nhân vật
trong câu chuyện cũng ít có sự di chuyển.
Tự sự theo điểm nhìn bên ngoài: người kể chuyện tỏ ra hiểu biết ít hơn
nhân vật, không hướng đến việc khai thác thế giới nội tâm nhân vật. Người kể chỉ
đề cập đến những gì bên ngoài, không đề cập đến thế giới bên trong của nhân vật.
Nhờ vậy mà người đọc có thể liên tưởng đến những gì nhân vật đang suy nghĩ và
cảm nhận. Có người kể chuyện dựa vào điểm nhìn của nhân vật để trần thuật
nhưng không đi sâu vào thế giới cảm nghĩ của nhân vật. Anh ta để cho nhân vật tự
thân vận động còn mình thì đứng bên ngoài quan sát và ghi chép lại mọi diễn biến,
như trong truyện ngắn Sống chết mặc bây của Phạm Duy Tốn. Người kể chuyện
đứng bên ngoài quan sát tình cảnh của người dân khi nước sông dâng lên đê sắp
vỡ. Trong cảnh màn trời chiếu đất ấy họ cố gọi quan phụ mẫu – người làm cha mẹ
của dân làng để mong có sự cứu giúp, thế mà quan vẫn thản nhiên đánh bài. Ông
chẳng lo gì cho dân mà chỉ lo cho ván bài của mình có ù to không thôi “Ấy, trong
cảnh quan lớn ù ván bài to như thế, thì khắp mọi miền đó, nước tràn lênh láng,
xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết; kẻ sống không có chỗ ở,
kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh thảm
sầu, kể sao cho xiết !”[1; tr.367]. Ở đây người kể chuyện đóng vai như một ký giả
đứng bên ngoài theo dõi diễn biến của câu chuyện rồi thuật lại cho độc giả nghe.
Hay trong Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu và ngay trong truyện
ngắn của Nguyễn Bá Học nhà văn cũng kể chuyện theo điểm nhìn bên ngoài này.
Bên cạnh đó, với điểm nhìn bên ngoài cho phép người kể có thể khai thác tối đa
những khía cạnh của hiện thực được miêu tả trong tác phẩm, đồng thời thể hiện
được nhiều nhất những phương diện tính cách, suy nghĩ của các nhân vật thông
qua hàng loạt những chi tiết hành động, trò chuyện của chúng một cách tự nhiên.
Với việc sử dụng kiểu người kể chuyện này, độc giả dường như không hề cảm
nhận được sự tồn tại của kiểu người kể chuyện. Bởi vì khi đó người kể chuyện
giấu mình, đứng ngoài câu chuyện để miêu tả, trần thuật lại một cách khách quan
và chân thực. Đặc biệt, nội tâm của nhân vật không được đi sâu khám phá mà chủ
yếu là ghi lại lời nói và hành động của nhân vật. Vai trò của người kể chuyện cho
phép truyện kể được đọc như một cái gì đó tường thuật hơn là một cái gì đó hư
cấu.
Qua những hình thức tự sự trên, ta thấy trong tác phẩm việc tổ chức các
hình thức tự sự theo điểm nhìn nghệ thuật bao giờ cũng mang tính sáng tạo cao độ.
Thông qua điểm nhìn nghệ thuật, người đọc có dịp đi sâu tìm hiểu cấu trúc tác
phẩm và nhận ra đặc điểm phong cách của nhà văn. Trong truyện ngắn của
Nguyễn Bá Học, người kể chuyện có khi là điểm nhìn bên ngoài hay điểm nhìn
bên trong, điểm nhìn không gian, thời gian….tùy thuộc vào mỗi tác phẩm có một
cách nhìn riêng. Trong các chương sau vấn đề điểm nhìn nghệ thuật sẽ được người
viết nói sâu hơn.
1.2. Vài nét về tác giả Nguyễn Bá Học
1.2.1. Cuộc đời
Nguyễn Bá Học là nhà văn Việt Nam. Cùng với Phạm Duy Tốn, ông được
giới văn học đánh giá là một trong những cây bút đầu tiên viết truyện ngắn hiện
đại bằng chữ quốc ngữ trong văn học Việt Nam.
Nguyễn Bá Học sinh năm 1857 mất 1921, tên chữ là Nhân Mục. Quê gốc ở
làng Nhân Mục, huyện Từ Liêm, nay là quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông xuất thân
trong một gia đình Nho học, sớm dùi mài kinh sử, sau khi thi hai khóa Hán học
không đỗ, ông chuyển sang tân học (học chữ Pháp và chữ Quốc Ngữ) và làm nghề
dạy học suốt 31 năm tại Sơn Tây, Hà Nội và Nam Định. Sau khi về hưu năm 1918,
Nguyễn Bá Học viết báo và sáng tác truyện ngắn đăng trên Nam Phong tạp chí
theo gợi ý của người con rể Nguyễn Bá Trác, chủ bút phần Hán văn trên Nam
Phong tạp chí.
1.2.2. Sự nghiệp sáng tác
Các tác phẩm chính của nhà văn Nguyễn Bá Học là: Câu chuyện gia đình
(1918), Truyện ông Lý Chắm (1918), Có gan làm giàu (1919), Câu chuyện nhà sư
(1919), Dư sinh lịch hiểm ký (1920), Câu chuyện một tối của người tân hôn
(1920), Chuyện cô Chiêu Nhì (1921). Bên cạnh đó, còn có một số tác phẩm khác
như À, truyện chiêm bao, Chuyện nhà bác học…
Ngoài sáng tác, Nguyễn Bá Học còn viết khoảng hơn 20 bài báo (hoặc
dịch) như: Lời khuyên học trò, Bàn về nghĩa tự do kết hôn, Gia đình giáo dục ký,
Chuyện việc làng, Văn minh Á – Âu khác nhau như thế nào…
1.3. Vài nét về truyện ngắn của Nguyễn Bá Học
1.3.1. Nội dung nổi bật của truyện ngắn Nguyễn Bá Học
Truyện ngắn Nguyễn Bá Học nhìn chung có tinh thần phê phán xã hội
thuộc địa, nửa phong kiến đương thời, đồng thời bộc lộ tâm trạng xót xa của tác
giả trước thực trạng đó. Truyện của ông đã phác họa một bức tranh của cuộc sống
nhiều vẻ của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX. Chất liệu cho sáng tác là dựa vào
những điều nhà văn tai nghe mắt thấy trong cuộc sống hàng ngày, tạo dựng được
không khí thời đại. Có thể nói, Nguyễn Bá Học là một trong những nhà văn đầu
tiên ở Việt Nam đầu thế kỷ XX viết truyện ngắn, phản ánh cuộc sống thành thị
đang trên đà tư sản hóa. Cuộc sống này được miêu tả trong không khí náo động,
xô bồ, chen chúc các loại người, những mưu mô và sự trụy lạc gia tăng ở thành
thị, ngược hẳn với một nông thôn vắng lặng và tàn tạ, nho học sụp đỗ kéo theo
một lớp người thất thế sống an phận thủ thường. Nguyễn Bá Học đã nhìn thấy và
phơi bày trong tác phẩm, tất cả những xấu xa, sự sa đọa, những quan hệ thù địch
với cuộc sống bình thường của con người. Nhà văn đã có cái nhìn thực tế, cụ thể
với hiện thực cuộc sống. Đặc điểm này là ưu thế cải biến sự hình dung ban đầu của
ông về một xã hội tư sản lý tưởng. Cái mâu thuẫn lại chính là ở chỗ, trong khi hình
dung một xã hội lý tưởng phải là xã hội với đạo đức cũ thì ông lại không ngừng
phê phán xã hội hiện đại bao quanh mình. Kết quả của mâu thuẫn này làm cho nhà
văn không thể hướng lý tưởng thẩm mỹ của mình vào việc khẳng định xã hội tư
sản và cái gọi là “điều hòa tân – cựu” hay “thờ nạp Á – Âu” mà ông chịu ảnh
hưởng, chỉ là những ý niệm trừu tượng, không khúc xạ được vào tác phẩm. Do
vậy, đa phần nhân vật trong tác phẩm của mình ông cũng để họ sống trong sự luẩn
quẩn, theo nho học không thành mà tân học cũng lỡ bước và trở nên người vô
dụng như chính hiện thực xã hội đương thời mà ông chứng kiến. Trong truyện
ngắn À, truyện chiêm bao nhà văn đã xây dựng nhân vật “Hàn Bán Thiên là một
anh chàng nhà nho, cựu học không thành danh, tân học cũng lỡ bước, lại có tính
hay mơ những sự cao xa, không còn nghĩ đến tư cách, địa vị, thời thế mình là thế
nào nữa” [1; tr.120]. Đáng thương thay cho một anh thanh niên mà không nuôi
nỗi vợ con để họ phải sống trong khổ sở, thiếu thốn. Có lẽ hình ảnh nhân vật Hàn
Bán Thiên là hiện thân chung cho lớp thanh niên trong buổi giao thời, khi họ chưa
xác định được hướng đi cho bản thân.
Vì sống trong buổi giao thời, nên Nguyễn Bá Học đã phần nào thấy được
sự hỗn loạn, bát nháo trong chính xã hội ấy. Nơi mà luồng văn hóa phương tây
đang ồ ạt vào nước ta, nó khiến cho không ít người trở nên lai căng mất gốc, dần
đánh mất đi cái gọi là giá trị truyền thống. Đứng trước thảm trạng đó với một nhà
văn hoài cổ, luôn muốn gìn giữ những giá trị văn hóa thì sao khỏi xót xa. Do vậy,
nội dung trong các sáng tác của ông phần lớn hướng về mục đích giáo huấn đạo lý,
truyện của ông đề cập đến nhiều vấn đề cấp thiết của cuộc sống trong buổi giao
thời cũ – mới. Ngoài ra, truyện ngắn của ông còn xoay quanh việc phản ánh sự bế
tắt, cùng quẫn cả về tư tưởng lẫn đời sống của những người công chức, trí thức
Nho học và cả Tây học trong thời bấy giờ. Thêm vào đó là lời kêu gọi của tác giả
hô hào cổ vũ cho con đường thực nghiệp. Và nội dung nổi bật trong truyện ngắn
của Nguyễn Bá Học còn là lời ca ngợi tấm gương hiếu nghĩa của những vị quan
thanh liêm vì dân, vì nước.
Với mỗi truyện mang một nội dung riêng nhưng nó không nằm ngoài
những vấn đề trên. Chẳng hạn, ở truyện Truyện ông Lý Chắm – nói về nhân vật
ông Lý Chắm thanh liêm, ông lúc nào cũng nghĩ và lo cho dân, sợ dân bị thiệt thòi.
Ông đã tìm mọi cách tranh đấu để bảo vệ cho người dân mong sao những giúp họ
bớt khổ. Vì thế ông Lý Chắm đã được người dân ngợi ca và nhớ ơn đức. Đó chính
là một trong những nội dung nổi bật trong truyện của Nguyễn Bá Học về tấm
gương hiếu nghĩa, dũng khí.
Hay ở hai tác phẩm Câu chuyện gia tình và Dư sinh lịch hiểm ký cùng một
nội dung phản ánh sự bế tắt, cùng quẫn cả tư tưởng lẫn đời sống của những trí
thức Nho học và cả Tây học và ở tác phẩm cũng là lời kêu gọi hô hào cổ vũ cho
con đường thực nghiệp. Tuy vậy, nhưng ở mỗi truyện mang những tình tiết khác
nhau, chẳng hạn: ở Câu chuyện gia tình bà già buồn rầu vì cả hai đứa con đã
không được như bà mong muốn. Đứa thứ nhất đã có danh khoa (học theo nền Nho
học) nhưng mãi không lập được nghiệp, cứ thế sống dựa vào vợ chứ chẳng chịu
làm gì ngoài việc học tập của mình. Còn đứa thứ hai thì học theo nền học của
phương Tây, tuy có sự nghiệp và danh tiếng nhưng bản chất ngày xưa không còn,
trở nên hóng hách, khinh bỉ mọi người thấp hơn mình và giờ đây sống trụy lạc bỏ
bê vợ con. Còn ở truyện Dư sinh lịch hiểm ký thì một thanh niên vì sự học không
thành đã bị cha đuổi ra khỏi nhà để tự lập nghiệp và bước đường lập nghiệp anh ta
cũng chịu không ít khó khăn. Nói cho cùng ở cả hai tác phẩm đều nói lên sự bế tắt
của sự học thời bấy giờ của người trí thức và qua đó cũng là lời kêu gọi mọi người
phải thực nghiệp vì chính bản thân mình và cho cả gia đình. Ngoài ra, con đường
thực nghiệp thật sự không dễ dàng nhưng đòi hỏi mỗi người phải có linh hoạt thay
đổi theo thời thì mới có thể thành công được nhưng dù có thay đổi thì cũng không
nên đánh mất cái bản chất vốn có của mình.
Có thể nói các nhân vật trong tác phẩm xuất hiện như một cái loa phát
thanh của chính tác giả để truyền đạt những giáo lý răn đời. Tuy vậy, nhưng nhà
văn không áp đặt nhân vật theo quan niệm của chính mình mà ông để cho họ tự
thân vận động với những luân lí đạo đức, thực hiện và sống theo giá trị văn hóa ấy.
1.3.2. Đặc điểm nghệ thuật của truyện ngắn Nguyễn Bá Học
Cốt truyện không phải là yếu tố tất yếu cho mọi loại tác phẩm văn học mà
chỉ tồn tại trong những tác phẩm thuộc loại tự sự như tiểu thuyết, truyện vừa,
truyện ngắn, truyện thơ,…Trong một số loại ký, không có yêu cầu xây dựng cốt
truyện chặt chẽ và ở tác phẩm trữ tình thì yếu tố cốt truyện cũng không được đề
cập đến vì tác phẩm trữ tình chủ yếu thể hiện trực tiếp tâm trạng, tình cảm,…của
tác giả, nó không đòi hỏi nhà thơ phải xây dựng những sự kiện, biến cố, hành động
cho nhân vật. Nhưng trái lại với thể loại truyện ngắn thì cốt truyện cần phải được
xây dựng chặt chẽ với hệ thống nhân vật, sự kiện, hành động nhất quán nhau. Cốt
truyện có nhiều loại nhưng ta chỉ khảo sát ba loại cốt truyện tiêu biểu của truyện
ngắn ở đầu thế kỷ XX bao gồm: cốt truyện luận đề, cốt truyện có các sự kiện mang
tính kịch cao, cốt truyện tâm lý. Ở mỗi loại cốt truyện mang nét độc đáo riêng để
thích ứng với từng phong cách của mỗi nhà văn. Và ở đây, nhà văn Nguyễn Bá
Học gần như chọn tất cả các kiểu cốt truyện và ở mỗi loại đều có một tác phẩm thể
hiện. Chẳng hạn, ở cốt truyện luận đề ông có hai tác phẩm thể hiện Một nhà bác
học và Câu chuyện gia tình hay ở cốt truyện có các sự kiện mang tính kịch cao thì
có tác phẩm Câu chuyện nhà sư, còn trong cốt truyện tâm lý, nhà văn đã sáng tác
truyện À, truyện chiêm bao để thể hiện. Với việc vận dụng cả ba loại cốt truyện
trong sáng tác làm cho tác phẩm của Nguyễn Bá Học trở nên phong phú hơn,
không gây nhàm chán hay cảm giác bó hẹp cho độc giả. Mà ngược lại nó tạo cho
độc giả sự hứng thú, tìm tòi, khám phá những điều mới mẻ vì mỗi câu chuyện
mang một cốt truyện riêng, độc đáo.
Ngoài việc vận dụng các loại cốt truyện trong sáng tác, thì một điểm nghệ
thuật nổi bật trong truyện ngắn Nguyễn Bá Học là việc tạo dựng nghệ thuật kết
cấu đảo lộn thời gian của sự kiện - tức là nghệ thuật trần thuật không tuân theo
trình tự diễn tiến của cốt truyện tự nhiên theo thời gian tuyến tính (đi từ “nhân” tới
“quả”). Các truyện này thường bắt đầu ở phần giữa hoặc phần kết thúc của cốt
truyện tự nhiên. Sự tái tạo lại trật tự nghệ thuật cho các sự kiện trong cốt truyện là
một đặc trưng của tư duy nghệ thuật hiện đại. Truyện Có gan làm giàu là một tác
phẩm có sự cách tân trong kết cấu. Mở đầu tác phẩm, Nguyễn Bá Học mô tả cuộc
sống cần kiệm, hạnh phúc của một đôi vợ chồng nghèo. Cho đến một hôm chồng
ốm, vợ mới biết bí mật của chồng. Người chồng thuật lại quá khứ và khát vọng
vươn lên làm giàu của mình. Rõ ràng đây là kết cấu phá vỡ tuyến tính thời gian.
Kết cấu như thế, tác giả muốn chuyển sự chú ý của người đọc từ sự kiện xảy ra
bên ngoài sang nội tình bên trong, nhấn mạnh ý chí mãnh liệt của nhân vật...Sự
đảo lộn trật tự thời gian của các sự kiện có ý nghĩa không nhỏ trong việc thể hiện
nội dung tác phẩm nên kiểu kết cấu này đã rất phổ biến ở truyện ngắn các giai
đoạn sau.
Ngoài ra, trong sáng tác Nguyễn Bá Học còn sử dụng kiểu kết cấu theo
mạch đường thẳng và cả kết cấu đối lập giữa hai tuyến nhân vật của truyền thống
như cũ - mới, giàu có - khốn khổ…Hình ảnh anh chàng học chữ Tây hư hỏng tán
gia bại sản vì theo nhân tình đối lập với hình ảnh người anh cả học chữ Nho sống
mô phạm, chăm lo làm ăn. Kiểu kết cấu này làm nổi bật sự trái ngược, mâu thuẫn
hai con người, hai cá tính giữa hai môi trường cũ - mới, mà xét đến cùng là đạo
đức theo nền nếp phong kiến và đạo đức theo khuynh hướng tư sản giữa thời buổi
nhố nhăng lúc bấy giờ.
Một điều đặc biệt trong sáng tác của Nguyễn Bá Học mà người đọc dễ dàng
bắt gặp đó là kiểu cấu trúc khi mở đầu truyện cũng như khi kể, thường xen những
- Xem thêm -