Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ hiến pháp 2013 _ÔN THI NÂNG NGẠCH CHUYÊN VIÊN CHÍNH 2020 môn kiến thức chung...

Tài liệu hiến pháp 2013 _ÔN THI NÂNG NGẠCH CHUYÊN VIÊN CHÍNH 2020 môn kiến thức chung

.PDF
15
73
101

Mô tả:

HIẾN PHÁP 2013 Câu 1: Hiến pháp mới 2013 - những vấn đề cần chú ý 1 5 11 18 24 28 30 34 37 40 43 Th ic hu ye nv ie nc hi nh .co m Câu 2: Về quyền lực Nhà nước và sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp hiện nay. Câu 3: Phân tích Điều 2 Hiến pháp 2013: : “Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp” Câu 4: Một số điểm mới cơ bản của Hiến pháp 2013 Câu 5: Đảm bảo tính tối cao của Hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền? Câu 6: Những điểm mới của Hiến pháp (2013) và Chính phủ? Câu 7. Quốc hội trong Hiến pháp 2013 Câu 8: Hiến pháp và thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước? Câu 9: Mục 5, Điều 96, Hiến pháp 2013 quy định nhiệm vụ của Chính phủ: Thống nhất quản lý nền Hành chính Quốc gia. Hãy trình bày các nội dung trên và nêu các giải pháp thực hiện tốt nhiệm vụ trên? Câu 10: Mục 5, Điều 96, Hiến pháp 2013 quy định nhiệm vụ của Chính phủ: Thực hiện quản lý về cán bộ, công chức, viên chức và công vụ trong cơ quan Nhà nước. Hãy trình bày các nội dung quản lý về cán bộ, công chức, viên chức và công vụ, nêu các giải pháp thực hiện tốt nhiệm vụ trên? Câu 11: Khoản 3, Điều 2, Hiến pháp sửa đổi năm 2013 khẳng định “Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Hãy phân tích nội dung đảm bảo việc kiểm soát quyền lực Nhà nước giữa quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Câu 12: khoản 3, Điều 2, Hiến pháp sửa đổi năm 2013 khẳng định “ quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. hãy phân tích việc đảm bảo sự kiểm soát của các cơ quan quyền lực Nhà nước đối với cơ quan hành chính và tư pháp. (Lập pháp) Câu 13: Khoản 3, Điều 2, Hiến pháp sửa đổi năm 2013 khẳng định “ quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. hãy phân tích việc đảm bảo sự kiểm soát của các cơ quan hành chính Nhà nước đối với cơ quan Nhà nước khác. (Hành pháp) Câu 14: Khoản 3, Điều 2, Hiến pháp sửa đổi năm 2013 khẳng định “ quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. hãy phân tích 44 47 48 TK Chính Chính Th ic hu ye nv ie nc hi nh .co m việc đảm bảo sự kiểm soát của các cơ quan tư pháp đối với cơ quan Nhà nước khác. (Tư pháp) PHỤ LỤC Câu 1: Phân tích làm rõ nội dung hiến định về nhà nước tại Khoản 1 Điều 2 HP năm 2013 :” Nhà nước CHXHCNVN là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” ( Chính xem trang 15 HP. Tham khảo phụ lục phần phân tích vì xúc tích hơn Câu 2: Phân tích làm rõ nội dung hiến định về nhà nước tại Khoản 2 Điều 2 HP năm 2013:” Nhà nước CHXHCNVN do nhân dân làm chủ”. Liên hệ Câu 3: Phân tích làm rõ nội dung hiến định về Nhà nước tại Điều 6 Hiến pháp 2013 “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, HĐND và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước” ( Những hạn chế của hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện có thể tham khảo thêm tại trang 7, trang 10 Đề tham khảo trang 4) Câu 4: Phân tích làm rõ nội dung hiến định về Nhà nước tại Khoảng 1 Điều 8 Hiến pháp 2013 “Nhà nước quản lý xã hội bằng HP và Pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ ( Xem thêm tại Đề tham khảo 2, tr30 Chính Th ic hu ye nv ie nc hi nh .co m Câu 1: Hiến pháp mới 2013 - những vấn đề cần chú ý Hiến pháp được thông qua tại kỳ họp thứ 6 - Quốc hội khóa XIII gồm 11 chương, 120 Điều (giảm 1 chương và 27 Điều so với Hiến pháp năm 1992) có hiệu lực từ ngày 11-2014. Hiến pháp (sửa đổi) giá quy định bao quát hầu hết các quyền cơ bản về chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa của con người. sửa đổi trong Hiến pháp đều được hướng tới nhân dân, đảm bảo quyền và lợi ích của nhân dân, đổi mới Tổ chức bộ máy Nhà nước để phục vụ nhân dân tốt hơn, bước đầu xây dựng cơ chế nhằm giảm tham ô, nhũng nhiễu người dân, đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân được thực hiện một cách thực chất hơn trong thực tế. Ngay phần lời nói đầu của Hiến pháp đã được hoàn thiện, ngắn gọn hơn nhưng vẫn phản ánh được lịch sử hào hùng của dân tộc và những mốc lịch sử quan trọng, những thành quả cách mạng đã đạt được. Lời nói đầu của Hiến pháp đã thể hiện ý chí, quyết tâm của nhân dân ta, thể chế hóa cương lĩnh của Đảng, kế thừa Các bản Hiến pháp trước đây, xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Sau chương quy định về chế độ chính trị là chương quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Đây cũng là một điểm mới, thể hiện tầm quan trọng của quyền con người trong Hiến pháp. Trong Hiến pháp 1992, vấn đề này được quy định tại chương 5 về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Với việc ghi nhận trong Hiến pháp về quyền con người đã đảm bảo phù hợp với các Điều ước quốc tế về quyền con người mà người ta tham gia ký kết. Hiến pháp đã làm rõ hơn các quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân và trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân; hiện rõ bản chất dân chủ của Nhà nước ta. Hai điểm mới đó là ghi nhận về quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng và mọi người có quyền sống. Đáng chú ý, Hiến pháp mới tiếp tục khẳng định vai trò của Nhà nước và kinh tế Nhà nước trong việc định hướng, Điều tiết sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thừa nhận các hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế. Nhà nước khuyến khích, tạo Điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh; phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước. Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được Pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa. Hiến pháp làm rõ thẩm quyền của Chủ tịch nước trong từng lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tin Pháp và làm rõ hơn vai trò của Chủ tịch nước trong thống lĩnh lực lượng vũ trang; giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc phòng và an ninh, quyết định phong, thăng, giáng, trước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân. Quy định làm cơ sở để lực lượng vũ trang tham gia vào việc bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới, từng bước nâng cao vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế. Việc tổ chức chính quyền địa phương gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân hiện nay đều giống nhau ở các loại đơn vị hành chính đã tạo ra sự rập khuôn, cứng nhắc, ít 1 Th ic hu ye nv ie nc hi nh .co m phân biệt được sự khác nhau trong quản lý hành chính Nhà nước ở đô thị, nông thôn, miền núi, hải đảo và cũng không bảo đảm được tính tập trung cao từ Trung ương xuống địa phương. Hiến pháp sửa đổi đã tạo cơ sở cho việc quy định mở về chính quyền địa phương, cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng Nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định. Nếu coi nhớ cha 1992 hơn tới đổi mới chính quyền Trung ương (Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao) thì Hiến pháp 2013 hướng tới đổi mới chính quyền địa phương (Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân)và các cơ quan Tư pháp ở địa phương (Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân) tuy chưa thật rõ nét nhưng là những định hướng cơ bản cho việc đổi mới chính quyền địa phương sau này. Cũng tại Hiến pháp mới, Kiểm toán Nhà nước đã và đang hoạt động, nhưng lần đầu tiên được quy định trong Hiến pháp, thể hiện vị trí, vai trò của cơ quan này, từng bước tạo sự Kiểm toán độc lập việc quản lý và sử dụng tài chính, tài sản công. Việc nâng cao vai trò Kiểm toán Nhà nước phù hợp với xu thế chung của thế giới cũng như mong muốn góp phần giảm tham nhũng, lãng phí trong bộ máy Nhà nước Một cơ quan mới, lần đầu tiên thành lập là Hội đồng bầu cử quốc gia. Trước đây, mỗi khi tiến hành bầu cử để thành lập Hội đồng bầu cử có tính lâm thời, hoạt động trong thời gian ngắn (khoảng sáu tháng), Khi bầu cử xong thì Hội đồng bầu cử hoàn thành nhiệm vụ. Việc có Hội đồng bầu cử quốc gia hoạt động thường xuyên, thể hiện đầy đủ, sâu sắc hơn chủ quyền nhân dân, tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của mình, tăng thường hình thức dân chủ trực tiếp theo hướng hoàn thiện chế định bầu cử. Có thể nói, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013 đã thể hiện được ý Đảng, lòng dân, tinh thần dân chủ, đổi mới, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới. Những điểm mới của Hiến pháp (sửa đổi) về Chính phủ Việc Quốc hội khóa XIII thông qua Hiến pháp (sửa đổi) tại kỳ họp thứ 6 ( ngày 2811-2013) là một sự việc chính trị - pháp lý quan trọng bậc nhất của đất nước trong năm 2013, thể hiện sự kết tinh trí tuệ của cả dân tộc ta trên con đường phát triển. Hiến pháp (sửa đổi) có rất nhiều đổi mới và chính những đổi mới đó là cơ sở hiến định quan trọng mở đường cho việc tiếp tục cải cách, đổi mới để đất nước ta phát triển. Một trong những nội dung trọng tâm của sửa đổi, bổ sung Hiến pháp Lần này là đổi mới về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước theo yêu cầu của Nhà nước pháp quyền, không những có sự hoàn thiện hơn về nguyên tắc tổ chức quyền lực Nhà nước tại Điều 2 của Hiến pháp, mà các nguyên tắc nó đã trở thành tư tưởng xuyên suốt trong các quy định cụ thể của Hiến pháp. Bước tiến mới dễ nhận thấy là Hiến pháp (sửa đổi) đã khẳng định rõ, Quốc hội là cơ quan lập pháp, Chính phủ thực hiện quyền hành pháp, Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Trên cơ sở đó, sự phân công thẩm quyền giữa Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân đã rõ ràng, minh bạch, phù hợp với chức năng của từng cơ quan. Sự phân công rõ ràng là cơ sở quan trọng để các cơ quan phối hợp với nhau nhịp nhàng hơn. Đồng thời, một cơ chế kiểm soát quyền lực đã được xác định, trong đó quyền của nhân dân với tư cách là chủ nhân của tất cả quyền lực Nhà 2 Th ic hu ye nv ie nc hi nh .co m nước được đề cao, các hình thức dân chủ được mở rộng. Vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên được khẳng định. Riêng đối với Chính phủ, Hiến pháp (sửa đổi) có nhiều quy định mới, thậm chí rất mới, vừa tạo cơ sở hiến định để Chính phủ chủ động, năng động, sáng tạo hơn trong hoạch định chính sách, tổ chức thực thi Hiến pháp, pháp luật và trong đối phó với tình hình mới; vừa đặt Chính phủ Trong cơ chế kiểm soát chặt chẽ của nhân dân, đề cao trách nhiệm trước nhân dân. Với những quy định mới của Hiến pháp (sửa đổi) về Chính phủ, tin rằng đất nước sẽ có một Chính phủ mạnh, đủ sức thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Ngoài điểm mới đã nêu ở trên, ở mức độ khái quát, có thể thấy quy định của Hiến pháp (sửa đổi) còn có một số điểm mới cụ thể như sau: Một là, Hiến pháp đã sửa đổi, bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ theo hướng khái quát, hợp lý hơn, phù hợp với vị trí hành pháp của Chính phủ (Điều 96), chẳng hạn như: (i) khẳng định vai trò hoạch định chính sách của Chính phủ, Hiến pháp quy định nhiệm vụ quyền hạn của Chính phủ “đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội”, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạ quy định tại Điều này…” (khoản 2 Điều 96). (ii) Khẳng định vai trò quản lý, Điều hành vĩ mô của Chính phủ, Hiến pháp đã làm rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ trong việc tổ chức thi hành Hiến pháp và pháp luật (khoản 1); thi hành các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản của nhân dân (khoản 3); bổ sung quy định trình Quốc hội quyết định thành lập, giải thể, nhập, Điều chỉnh địa giới hành chính đối với đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt (khoản 4);... (iii) Bên cạnh quyền trình dự án luật, Hiến pháp (sửa đổi) đã bổ sung quyền ban hành văn bản pháp luật của Chính phủ như một nhiệm vụ, quyền hạn độc lập của chức năng Hành pháp tại Điều 100: “Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lý các văn bản trái pháp luật theo quy định của luật”. (iv) Trong mối quan hệ với Quốc hội: Hiến pháp (sửa đổi) đã bỏ quy định về thẩm quyền của Quốc hội quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, tạo Điều kiện cho Chính phủ và các chủ thể khác chủ động, linh hoạt trong việc đề xuất xây dựng luật, pháp lệnh; phân định rõ hơn phạm vi chính sách và các vấn đề quan trọng do Quốc hội quyết định (trong một số lĩnh vực Quốc hội chính quyết định các chính sách cơ bản). Chính phủ có quyền ban hành các chính sách, biện pháp cụ thể để quản lý, Điều hành; phân định rõ và phù hợp hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ trong việc đàm phán, ký kết, gia nhập Điều ước quốc tế… Theo đó, Chính phủ có thẩm quyền “Tổ chức đàm phán, ký Điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước theo ủy quyền của Chủ tịch nước; quyết định việc ký, Gia nhập, phê duyệt hoặc chấm dứt hiệu lực Điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ, trừ Điều ước quốc tế trình Quốc hội phê chuẩn quy định tại khoản 14 Điều 70” (khoản 7 Điều 96). rút xuống phải không Hai là, Hiến pháp quy định rõ cơ cấu, thành phần của Chính phủ “gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang 3 Th ic hu ye nv ie nc hi nh .co m bộ”. Như vậy, Hiến pháp (sửa đổi) đã bỏ cụm từ “các thành viên khác” so với Hiến pháp 1992 và bổ sung quy định “cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ do Quốc hội quy định” để trên cơ sở đó sẽ quy định trong luật về cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ nhằm bảo đảm tính ổn định. Ba là, Hiến pháp tăng cường vai trò, vị trí và trách nhiệm cá nhân của Thủ tướng Chính phủ (Điều 98). Thủ tướng Chính phủ được xác định là người đứng đầu Chính phủ, chịu trách nhiệm trước Quốc hội về hoạt động của Chính phủ và những nhiệm vụ được giao; báo cáo công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trước Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước (thay vì quy định chung, không rõ ràng như Hiến pháp năm 1992). Chức năng chủ yếu của Thủ tướng là lãnh đạo tập thể Chính phủ thực hiện chức năng hành pháp; Điều hành hoạt động của Chính phủ. Các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Thủ tướng được tăng cường và sắp xếp lại hợp lý hơn như: Lãnh đạo công tác của Chính phủ (bỏ quy định “lãnh đạo… các thành viên Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp” của Hiến pháp năm 1992); bổ sung các nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ: lãnh đạo việc xây dựng chính sách và tổ chức thi hành pháp luật (khoản 1); lãnh đạo và chịu trách nhiệm về hoạt động của hệ thống hành chính Nhà nước từ Trung ương đến địa phương, bảo đảm tính thống nhất và thông suốt của nền Hành chính Quốc gia (khoản 2); “Quyết định và chỉ đạo việc đàm phán, chỉ đạo việc ký, gia nhập Điều ước quốc tế thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ; tổ chức thực hiện Điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên” (khoản 5)... Tăng cường chế độ báo cáo của Thủ tướng trước nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng về những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền giải quyết của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ (khoản 6). Phó Thủ tướng Chính phủ giúp Thủ tướng Chính phủ làm nhiệm vụ theo sự phân công của Thủ tướng và bổ sung quy định Phó Thủ tướng “chịu trách nhiệm trước Thủ tướng về nhiệm vụ được phân công”. Với các sửa đổi, bổ sung này, vị thế và vai trò của Thủ tướng Chính phủ đã được nâng cao hơn. Thủ tướng Chính phủ có đủ quyền hạn để trở thành nhân tố định hướng khác mục tiêu chung và thúc đẩy định hướng xây dựng chính sách và toàn bộ các hoạt động của Chính phủ vào lãnh đạo hệ thống hành chính Nhà nước từ Trung ương tới cơ sở trong việc thực hiện các chức năng, thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Bốn là, Hiến pháp tăng cường vai trò, trách nhiệm cá nhân của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ. Hiến pháp thể hiện rõ vị trí, nhiệm vụ của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ với tư cách vừa là thành viên Chính phủ, vừa là người đứng đầu bộ máy hành chính Nhà nước trong lĩnh vực phụ trách, lãnh đạo công tác của Bộ, cơ quan ngang Bộ; chịu trách nhiệm quản lý Nhà nước về ngành, lĩnh vực được phân công (khoản 1 Điều 99). Về nhiệm vụ, quyền hạn, Hiến pháp đã bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ: “tổ chức thi hành và theo dõi luật thi hành pháp luật liên quan đến ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc” (khoản 1 Điều 99); “ban hành văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lý theo văn bản trái pháp luật theo quy định của luật” (Điều 100). Về chế độ chịu trách nhiệm, 4 ie nc hi nh .co m Hiến pháp quy định rõ ràng và cụ thể hơn: Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ “chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ và Quốc hội về ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách” (bổ sung chịu trách nhiệm cá nhân trước Chính phủ)); và “cùng các thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Chính phủ” (mới bổ sung). Đồng thời, Hiến pháp bổ sung chế độ báo cáo công tác của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; thực hiện chế độ báo cáo trên nhân dân về những vấn đề quan trọng thuộc trách nhiệm quản lý (khoản 2 Điều 99). Tóm lại, những điểm mới nêu trên trong Hiến pháp (sửa đổi) về Chính phủ có ý nghĩa là cơ sở cho việc đổi mới tổ chức hoạt động của Chính phủ theo hướng thúc để nâng cao hiệu quả quản lý vĩ mô của Chính phủ trong Điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, đề cao vai trò của Chính phủ trong việc chủ động khởi xướng, hoạch định và Điều hành chính sách vĩ mô; Điều hành nhanh nhạy, sáng tạo, ứng phó, giải quyết kịp thời các vấn đề của cuộc sống đặt ra. Hiến pháp (sửa đổi) cũng đã phản ánh đầy đủ chính quyền của nhân dân và yêu cầu thực tiễn, đề cao trách nhiệm cá nhân của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, tạo cơ sở cho việc đổi mới phương thức hoạt động của Chính phủ theo hướng bảo đảm giải quyết các vấn đề đặt ra ngay trong từng những vực, tránh tình trạng đùn đẩy trách nhiệm lẫn nhau và đẩy trách nhiệm giải quyết công việc lên Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Phó Thủ tướng Chính phủ gây ách tắc; tạo động lực mới cho hoạt động quản lý, chỉ đạo, Điều hành trước những yêu cầu và cách thức đặt ra trong giai đoạn phát triển mới của đất nước. hu ye nv A. CÂU HỎI VÀ ĐÁP ÁN PHẦN HIẾN PHÁP MỚI Câu 2: Về quyền lực Nhà nước và sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp hiện nay. Th ic -Thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Hiến pháp sửa đổi năm 2013 bổ sung một nguyên cách mới về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước ta: “Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Đây vừa là quan điểm, vừa là nguyên tắc chỉ đạo công cuộc tiếp tục, xây dựng và hoàn thiện bộ máy Nhà nước ta trong thời kỳ mới. Về quyền lực Nhà nước là thống nhất là vấn đề có tính lý luận và thực tiễn sâu sắc. Theo Hiến pháp sửa đổi năm 2013, quyền lực Nhà nước ta thống nhất là ở nhân dân. Quan niệm thống nhất quyền lực Nhà nước là ở nhân dân thể hiện ở nguyên tắc “Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân”. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân được Hiến pháp sửa đổi ghi nhận nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước, nhân dân thông qua quyền lực Hiến giao quyền lực Nhà nước của mình cho Quốc hội, do Chính phủ và cho cơ quan tư pháp. Theo Điều 70 Hiến pháp sửa đổi năm 2013, nhân dân chỉ cho Quốc hội 3 nhóm quyền hạn và nhiệm vụ: quyền hạn và nhiệm vụ về lập hiến, lập pháp; quyền hạn và nhiệm vụ về giám sát tối cao; quyền hạn và nhiệm vụ với quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Đồng thời, Điều 6 quy định Nhân dân thực hiện quyền lực Nhà 5 Th ic hu ye nv ie nc hi nh .co m nước không những bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng Nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước, mà còn bằng dân chủ trực tiếp thông qua việc thực hiện quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân, trong đó có trưng cầu ý dân về Hiến pháp (Điều 29 và Điều 120). Cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp tuy có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau nhưng được thống nhất ở mục tiêu của Chính trị chung là xây dựng một “Nhà nước vào Đảng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân;... thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, như Điều 3 Hiến pháp mới đã quy định. Quan niệm quyền lực Nhà nước là thống nhất như nói ở trên của Hiến pháp là cách thức tổ chức quyền lực Nhà nước đề cao trách nhiệm của Nhà nước trước nhân dân, hạn chế sự dựa dẫm, ỷ lại trong việc thực hiện quyền hạn và nhiệm vụ mà nhân dân đã ủy quyền, giao quyền. Đó cũng là cơ sở để không có chỗ cho các yếu tố cực đoan, đối lập, thiếu trách nhiệm tồn tại. Đồng thời, đó cũng làm Điều kiện để hình thành cơ chế kiểm soát, nhận xét, đánh giá chất lượng và hiệu quả hoạt động của các quyền từ bên trong tổ chức quyền lực Nhà nước cũng như từ xã hội là nhân dân. Như vậy, quyền lực Nhà nước là thống nhất và tập trung ở nhân dân, chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực Nhà nước là quan niệm có ý nghĩa chỉ đạo tổ chức quyền lực Nhà nước trong Điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Mọi biểu hiện sa rồi quan điểm quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân theo Hiến pháp sửa đổi năm 2013 đều dẫn đến việc tổ chức quyền lực Nhà nước kém hiệu quả. Về “phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Hiến pháp sửa đổi năm 2013 đã tiến một bước mới trong việc phân công quyền lực Nhà nước. Lần đầu tiên trong Hiến pháp nước ta chỉ rõ Quốc hội thực hiện quyền lập hiến (không còn là duy nhất có quyền lập hiến như Hiến pháp năm 1992), quyền lập pháp (Điều 69), Chính phủ thực hiện quyền hành pháp (Điều 94), Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp (Điều 102). Việc xác nhận các cơ quan khác nhau thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là một sự đổi mới quan trọng, tạo Điều kiện để làm rõ vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi Quyền. Một là, đối với quyền lập pháp là quyền đại diện cho nhân dân thể hiện ý chí chung của quốc gia. Thuộc tính cơ bản, xuyên suốt mọi hoạt động của quyền này là đại diện cho nhân dân, bảo đảm cho ý chí chung của nhân dân được thể hiện trong các đạo luật mà mình là cơ quan duy duy nhất được nhân dân giao quyền giao quyền biểu quyết thông qua luật. Quyền hạn và nhiệm vụ của Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, lập pháp được quy định ở Điều 70 và Điều 120 của Hiến pháp năm 2013. Hai là, quyền hành pháp là quyền tổ chức thực hiện ý chí chung của quốc gia do Chính phủ đảm trách. Thuộc tính cơ bản, xuyên suốt của quyền này là đề xuất, hoạch định, tổ chức thực hiện pháp luật để đảm bảo an toàn, an ninh và phát triển xã hội. Quyền hạn và nhiệm vụ của Chính phủ - cơ quan thực hiện quyền hành pháp được quy định một cách khái quát ở Điều 96 Hiến pháp hiện nay. 6 Th ic hu ye nv ie nc hi nh .co m Ba là, quyền tư pháp là quyền xét xử, được nhân dân giao cho Tòa án thực hiện. Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là nguyên tắc xuyên suốt và cao nhất trong tổ chức thực hiện quyền này. Như vậy, xuất phát từ đặc điểm của quyền lực Nhà nước, việc phân định làm ba quyền nói trên là một nhu cầu khách quan. Ngày nay, xu hướng phân định rành mạch ba quyền đón ngày càng được coi trọng trong tổ chức quyền lực Nhà nước. Vì xã hội ngày càng phát triển, phân công lao động càng phải chuyên môn hóa cao để phát triển vừa thống nhất vừa hiệu quả. Đồng thời, thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta chỉ ra rằng, việc phân định rành mạch lạc ba quyền là cách thực tốt nhất để phát huy vai trò của Nhà nước trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Như đã nói ở trên, trong Nhà nước ta, quyền lực Nhà nước là thống nhất. Đó là sự thống nhất về mục tiêu chính trị chung. Vì vậy, việc phân định quyền lực Nhà nước không chứa đựng và bao quát việc phân lập mục tiêu chính trị chung của quyền lực Nhà nước. Do vậy, mặc dù có sự phân định ba quyền nhưng cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp không hoàn toàn tách biệt nhau, mà “ràng buộc lẫn nhau”, cả ba Quyền đều phải phối hợp với nhau, phải hoạt động một cách nhịp nhàng trên cơ sở làm đúng, làm đủ nhiệm vụ và quyền hạn mà nhân dân giao cho mỗi quyền được Hiến pháp - đạo luật gốc của Nhà nước và xã hội quy định. Mục đích của việc phân công quyền lực Nhà nước để nhằm kiểm soát quyền lực Nhà nước, bảo đảm cho tính pháp quyền của Nhà nước và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải là để thỏa hiệp hay chia rẽ quyền lực Nhà nước giữa các quyền. Thực tiễn chỉ ra rằng, sức mạnh và sự thịnh vượng của mỗi một quốc gia, cũng như khả năng đối mặt với những khó khăn, thách thức phần lớn được quyết định bởi sự vững vàng của các thiết chế, cam kết của các nhánh quyền lực Nhà nước với nhân dân về tính pháp quyền. Điều đó không kém phần quan trọng so với các yếu tố về tài nguyên thiên nhiên, khí hậu hoặc Vị trí địa lý quốc gia. Những nước duy trì được sự phát triển ổn định lâu dài về kinh tế - xã hội và chính trị là những nước tuân theo tinh thần của pháp quyền. Ý nghĩa của sự phân công quyền lực Nhà nước là để phân định nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan trong bộ máy Nhà nước, để Nhà nước hoạt động có hiệu lực và hiệu quả, quyền lực Nhà nước ngày càng thực sự là quyền lực của nhân dân, tính pháp quyền của Nhà nước ngày càng thực sự là quyền lực của nhân dân, tính pháp quyền của Nhà nước ngày càng được đề cao. Nội dung và tinh thần của các quy định về việc phân công nhiệm vụ, quyền hạn, cho Quốc hội, Chính phủ, Tòa án Nhân dân nhìn chung đáp ứng các yêu cầu nói trên và là cơ sở để tiến hành kiểm soát quyền lực Nhà nước. Về kiểm soát quyền lực Nhà nước, ngoài việc phân công mạch lạc nhiệm vụ, quyền hạn của các quyền để tạo cơ sở cho kiểm soát quyền lực; Hiến pháp sửa đổi 2013 còn tạo lập cơ sở hiến định để hình thành cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định (Điều 119). Đồng thời, Hiến pháp giao cho: Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án Nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp. Như vậy, Hiến pháp sửa đổi lần này tuy chưa hình thành cơ chế bảo vệ Hiến pháp chuyên trách như Nghị quyết của Đảng đã đề ra, nhưng với quy định của Điều 119 đã tạo cơ sở hiến định để xây dựng một cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định. Rồi đây, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội, Luật Thanh tra. Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân 7 Th ic hu ye nv ie nc hi nh .co m dân chắc chắn sẽ được sửa đổi bổ sung để hình thành cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước trong việc tuân theo Hiến pháp một cách hữu hiệu hơn Trong tổ chức quyền lực Nhà nước ở các nước theo nguyên tắc phân quyền mềm dẻo thì việc kiểm soát quyền lực Nhà nước giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp chủ yếu là kiểm soát của lập pháp và tư pháp đối với hành pháp. Để tăng cường kiểm soát việc thực hiện quyền hành pháp, Hiến pháp sửa đổi đã bổ sung, Điều chỉnh một số nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội, ví dụ như: Ủy ban Thường vụ Quốc hội được bổ sung thêm nhiệm vụ: Quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, Điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (khoản 8, Điều 74). Quốc hội được bổ sung thêm nhiệm vụ, quyền hạn: Phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm cách chức… Thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao (khoản 7, Điều 70). Cùng với Điều đó, Hiến pháp sửa đổi năm 2013 đã thiết lập thêm hai thiết chế độc lập: Hội đồng Bầu cử quốc gia có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, chỉ đạo công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp (Điều 117) và Kiểm toán Nhà nước có nhiệm vụ giúp Quốc hội Kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công (Điều 118).Sự ra đời các thiết chế Hiến định độc lập này cũng nhằm tăng cường các công cụ để nhân dân kiểm soát quyền lực Nhà nước trong bầu cử, trong sử dụng tài chính ngân sách và tài sản công một cách hiệu quả hơn. Kiểm soát quyền lực Nhà nước trong Hiến pháp * Hiến pháp sửa đổi đã hình thành 1 cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước từ phía nhân dân bằng các hình thức dân chủ trực tiếp *Bằng việc quy định Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập pháp, Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp và Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp - Hiến pháp đã tạo cơ sở xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước từ bên trong bộ máy Nhà nước Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) Chẳng muốn tiếp tục khẳng định tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước ta theo nguyên tắc “quyền lực Nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp…” mà còn là bổ sung thêm một nội dung mới là “kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Sự bổ sung này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, Thể hiện một bước phát triển mới về nhận thức lý luận xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Hiến pháp sửa đổi năm 2013 đã thể chế quan điểm về kiểm soát quyền lực Nhà nước như thế nào? Trước hết, Hiến pháp sửa đổi đã khẳng định chủ thể kiểm soát quyền lực Nhà nước là nhân dân. Tại Điều 2, Hiến pháp sửa đổi đã khẳng định: bản Chất của nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhân dân là người làm chủ đất nước. Kiểm soát quyền lực Nhà nước bắt nguồn từ nguồn gốc và bản chất của Nhà nước. Nhà nước của ai thì người đó phải là người chủ kiểm soát quyền lực Nhà nước của mình. Đây là Một đòi hỏi rất yếu nàng tiên từng yêu cầu chính đáng và tự nhiên của người chủ. Đối với Quyền lực Nhà nước lại càng là một đòi hỏi khách quan và cấp thiết của người chủ là nhân dân phải kiểm soát được quyền lực Nhà nước của mình. Bởi Nếu không kiểm soát được quyền lực Nhà nước thì quyền lực Nhà nước sẽ bị tha hóa, nhân dân là chủ thể giao quyền, ủy quyền sẽ bị mất quyền, bị lạm quyền từ phía Nhà nước. 8 Th ic hu ye nv ie nc hi nh .co m Quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân được giao cho Nhà nước mà thực chất là giao cho những con người cụ thể có thẩm quyền trong bộ máy Nhà nước thực thi. Mà hành động của con người thì luôn luôn bị tác động về vật chất, tình cảm và dục vọng nữa. Từ sự khẳng định nguồn gốc, bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, đồng thời là người chủ kiểm soát quyền lực Nhà nước, Hiến pháp sửa đổi tại khoản 3, Điều 2 đã bổ sung một nguyên tắc mới: Kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Hai là, Từ quan điểm và nguyên tắc nền tảng nói trên, trong mối quan hệ với kiểm soát quyền lực Nhà nước, nhiều nhận thức mới đã được thể hiện xuyên suốt trong bản Hiến pháp sửa đổi. Đó là, Hiến pháp đã được xác nhận nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến, Quốc hội không còn là thiết chế duy nhất có quyền lập hiến như Hiến pháp hiện hành. Khi nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến thì nhân dân là chủ thể kiểm soát quyền lực Nhà nước. Vì thế, Hiến pháp sửa đổi đã đặt nền móng hiến định cho sự ra đời một cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước từ bên ngoài, tức là từ phía nhân dân trong việc kiểm soát quyền lực Nhà nước. Thể hiện Điều đó, Điều 6, Hiến pháp sửa đổi quy định ngoài việc nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước bằng dân chủ đại diện (thông qua QH và HỘI ĐỒNGNHÂN DÂN và các cơ quan khác của Nhà nước) còn thực hiện bằng các hình thức dân chủ trực tiếp như bầu cử và bãi nhiệm (Điều 7); công dân có quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân (Điều 29); công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với các cơ quan Nhà nước… (Điều 28); Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân… giám sát và phản biện xã hội đối với hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức viên chức (Điều 9), Công đoàn Việt Nam… tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước (Điều 10). Như vậy, Hiến pháp sửa đổi đã hình thành một cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước từ phía nhân dân bằng các hình thức dân chủ trực tiếp. Với các quy định nền tảng của Hiến pháp như vậy, chắc chắn cơ chế đó sẽ được cụ thể hóa bằng các đạo luật như bầu cử, luật bãi nhiệm đại biểu, luật trưng cầu dân ý, luật tham vấn và phản biện các công việc Nhà nước của nhân dân. Các luật này sẽ được soạn thảo để thực thi Hiến pháp trong những năm sắp tới. Ba là, nói đến kiểm soát quyền lực Nhà nước thì Điều quan trọng trước tiên là tổ chức bộ máy Nhà nước phải được phân công, phân nhiệm một cách đúng đắn, mạch lạc giữa 3 quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Có phân công phân nhiệm mới có cơ sở để kiểm soát quyền lực. Chứ không phải là Quốc hội chủ thể phân công quyền lực Nhà nước. Theo nhận thức đó, trong bản Hiến pháp sửa đổi đã có một bước tiến mới trong việc phân công quyền lực Nhà nước. Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến nước ta, Hiến pháp năm 1992 đã quy định quyền lực Nhà nước được cấu thành từ ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp (Điều 2). Nhưng Hiến pháp năm 1992 lại chưa chỉ ra được một cách rõ ràng cơ quan nào là cơ quan lập pháp, cơ quan nào là cơ quan hành pháp và cơ quan nào là tư pháp. Hiến pháp sửa đổi đã khắc phục được nhược điểm đó bằng việc quy định Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập pháp, Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp và Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Việc xác nhận cơ quan khác nhau thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là một thay đổi quan trọng so với mô hình tập quyền xã hội chủ nghĩa trước đây. Nó tạo Điều kiện để quy định nhiệm vụ, quyền hạn một cách 9 Th ic hu ye nv ie nc hi nh .co m đúng đắn, mạch lạc giữa các cơ quan Quốc hội, Chính phủ và Tòa án Nhân dân trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đây chính là cơ sở để kiểm soát quyền lực Nhà nước nhân dân có căn cứ để nhận xét, đánh giá hiệu lực và hiệu quả thực hiện quyền lực Nhà nước của mỗi Quyền. Đồng thời, khắc phục được sự trùng lặp, dựa dẫm ỷ lại nó không rõ trách nhiệm trong tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước của mô hình tập quyền xã hội chủ nghĩa trước đây và xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước bên trong bộ máy Nhà nước. Các đạo luật về tổ chức bộ máy Nhà nước như Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm soát nhân dân sẽ lần lượt được sửa đổi theo các tư tưởng mới nói trên của Hiến pháp để hình thành một cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước từ bên trong bộ máy Nhà nước. Bốn là, Hiến pháp sửa đổi đã tạo lập cơ sở Hiến định để hình thành cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định (Điều 119). Đồng thời, Hiến pháp giao cho: QH, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp. như vậy, Hiến pháp sửa đổi lần này tui chưa hình thành cơ chế bảo vệ Hiến pháp chuyên trách như Nghị quyết của Đảng đã đề ra, nhưng Với quy định của Điều 119 đã tạo cơ sở Hiến định để xây dựng một cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định. Rồi đây, luật hoạt động giám sát của QH, Luật Thanh tra, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân chắc chắn sẽ được bổ sung để hình thành cơ chế việc tuân theo Hiến pháp một cách hữu hiệu hơn. Năm là, Trong tổ chức quyền lực Nhà nước ở các nước theo nguyên tắc phân quyền mềm dẻo thì kiểm soát quyền lực Nhà nước giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, chủ yếu là kiểm soát của lập pháp và tư pháp đối với hành pháp. Để tăng cường kiểm soát việc thực hiện quyền hành pháp, Hiến pháp sửa đổi đã bổ sung, Điều chỉnh một số nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội, ví dụ như: Ủy ban thường vụ Quốc hội được bổ sung thêm nhiệm vụ: quyết định, thành lập, giải thể, nhập, chia, Điều chỉnh địa giới, đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc TW (khoản 8, Điều 74). Quốc hội được bổ sung thêm nhiệm vụ quyền hạn: phê chuẩn, đề nghị, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (khoản 7, Điều 70). Cùng với Điều đó, Hiến pháp sửa đổi đã thiết lập hai thiết chế độc lập: Hội đồng bầu cử quốc gia có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, chỉ đạo công tác bầu cử đại biểu HỘI ĐỒNGNHÂN DÂN các cấp (Điều 117) và Kiểm toán Nhà nước có nhiệm vụ giúp QH kiểm soát việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công (Điều 118). Sự ra đời các thiết chế hiến định độc lập này cũng nhằm tăng cường Các công cụ để nhân dân kiểm soát quyền lực Nhà nước trong bầu cử, trong sử dụng tài chính danh sách Nhà nước và tài sản công một cách hiệu quả hơn. Kiểm soát Quyền lực Nhà nước là một vấn đề không đơn giản. Bởi vì, kiểm soát quyền lực Nhà nước, một mặt là để phòng chống sự lợi dụng quyền lực Nhà nước, nhưng mặt khác; làm sao để không phải vì kiểm soát nhận quyền lực Nhà nước mà làm mất đi tính năng động, mềm dẻo cần phải có để tiến hành các công việc của Nhà nước. Vì thế, vấn đề cơ bản của kiểm soát quyền lực Nhà nước là làm cho bộ máy Nhà nước vừa có khả năng kiểm soát được xã hội, lại vừa không kém phần quan trọng là buộc Nhà nước phải tự kiểm soát được chính mình. Do vậy, sau Hiến pháp, dựa trên cơ sở Hiến pháp, phải ban hành các đạo luật để xây dựng các cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước một cách phù hợp. Đó 10 là cơ chế kiểm soát được cấu thành bởi các chủ thể kiểm soát ở bên ngoài bộ máy Nhà nước (như các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp, các Phương tiện thông tin đại chúng và trực tiếp công dân) và cơ chế do các chủ thể bên trong bộ máy Nhà nước tiến hành kiểm soát. Đồng thời, xây dựng cơ chế kiểm soát tuân thủ Hiến pháp một cách độc lập do luật định như Hiến pháp sửa đổi đã đặt nền móng và mở đường cho sự ra đời. Th ic hu ye nv ie nc hi nh .co m Câu 3: Phân tích Điều 2 Hiến pháp 2013: Trả lời: Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng Định vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là một quan điểm chỉ đạo thống nhất và xuyên suốt Đảng ta. Điều này cũng đã được Hiến pháp năm 2013 (bổ sung) nhận tại Điều 2: “Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp”. Bằng lý luận về Nhà nước pháp luật chúng ta hãy phân tích làm rõ vấn đề trên. 1. Cơ sở để đảm bảo của Nhà nước CHXHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân: Nhà nước pháp quyền XHCN do nhân dân ta xây dựng là Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Điều này được quy định khách quan từ cơ sở kinh tế và chế độ chính trị XHCN. Về cơ sở chính trị, nó xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của giai cấp công nhân mà ý chí, nguyện vọng, lợi ích của giai cấp công nhân là thống nhất với ý chí, nguyện vọng, lợi ích của nhân dân lao động, của dân tộc, sự thống nhất về lợi ích đó dẫn đến sự thống nhất về ý chí hành động của tuyệt đại quần chúng nhân dân lao động. Về cơ sở kinh tế của Nhà nước, Nhà nước ta là Nhà nước được xây dựng trên nền tảng kinh tế XHCN; với chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu, nghĩa là nhân dân lao động chính là chủ sở hữu của các tư liệu SX chủ yếu. Đây chính là Điều kiện để đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân, bởi vì giai cấp nào, lực lượng nào nắm giữ kinh tế (mà chủ yếu là nắm giữ các TLSX quan trọng) thì giai cấp ấy, lực lượng ấy mới thật sự nắm giữ quyền lực chính trị. 2. Nhà nước CHXHCN Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. • Nhà nước của nhân dân: Trước hết ta thấy rằng Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, đây chính là Điều kiện đầu tiên phải có để đảm bảo cho việc thực hiện Nhà nước “do nhân dân và vì nhân dân”. Nhân dân đã và đang làm chủ vừa bằng hình thức trực tiếp, vừa bằng hình thức gián tiếp thông qua những đại diện do mình bầu ra. Tuy nhiên, khi xác định quyền lực Nhà nước thuộc nhân dân, Điều đó không có nghĩa là mỗi người dân đều tự hành xứ theo ý chí riêng của mình mà quyền lực đó phải được tổ chức để nhân dân thông qua tổ chức mà sử dụng quyền lực Nhà nước. Tổ chức quyền lực Nhà nước đó là cơ quan đại biểu nhân dân. 11 Th ic hu ye nv ie nc hi nh .co m Cơ quan đại biểu nhân dân được hình thành từ sự tập hợp các đại biểu nhân dân do nhân dân bầu ra, đại diện cho ý chí nguyện vọng của nhân dân, được nhân dân ủy nhiệm quyền lực Nhà nước của mình và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Đến lượt mình các cơ quan đại biểu nhân dân, thay mặt nhân dân và vì lợi ích của nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước. Nói cách khác, cơ quan Nhà nước các cấp chỉ là người chấp hành mệnh lệnh của quốc dân, chấp hành ý chí của nhân dân. Cán bộ công chức phải là công bộc của dân, chăm lo, bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân. Từ những phân tích trên cho thấy, ở Nhà nước ta quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Quyền lực Nhà nước của nhân dân thống nhất và tập trung. Bằng con đường đó, nhân dân mới thật sự quyết định công việc của đất nước mình vì lợi ích của chính mình. • Nhà nước do nhân dân: Nhà nước do nhân dân thể hiện ở việc khi đưa đường lối, chính sách, pháp luật… Nhà nước phải đảm bảo do nhân dân quyết định, nhân dân thực hiện và dân kiểm tra, tức là phải thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm”. Tính nhân dân, tính dân chủ trong quá trình hoạt động xây dựng pháp luật, được thể hiện ở tính quyết định sáng tạo của nhân dân. Nhân dân là chủ thể sáng tạo pháp luật, vừa ủy quyền cho Quốc hội lập pháp, vừa tham gia góp ý kiến vào các dự án Luật, đồng thời nhân dân là chủ thể lớn nhất thực hiện pháp luật, phát hiện những điểm yếu của hệ thống pháp luật khi đưa vào cuộc sống. Đặc điểm này đòi hỏi khi xây dựng pháp luật phải phản ánh tính đúng đắn ý chí của đại đa số nhân dân lao động, thể hiện chính xác các giá trị mà xã hội ủng hộ. Đồng thời đặc điểm này được thể hiện pháp luật sau khi ban hành phải được cả xã hội chấp hành triệt để. Hơn nữa, hoạt động xây dựng pháp luật lấy mục tiêu ban hành pháp luật vì con người, phục vụ con người. Muốn làm được Điều đó, khi xây dựng các văn bản pháp luật, Nhà nước phải thu hút đông đảo mọi người tham gia vào quá trình xây dựng pháp luật, cùng nâng cao chất lượng của pháp luật, đồng thời chuẩn bị cho nhân dân tuân thủ pháp luật. • Nhà nước vì nhân dân: Bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước vì dân thể hiện trước hết mọi chính sách và giải pháp kinh tế - xã hội… của Nhà nước đều phục vụ nhân dân, đảm bảo quyền lợi cho nhân dân, thể hiện nguyên tắc: “dưới chế độ dân chủ, không phải con người tồn tại vì pháp luật, mà pháp luật tồn tại vì con người”. Điều này ở nhiệm vụ của Nhà nước ta trong hoạt động lập pháp, lập quy phải không những đảm bảo dân chủ mà còn phát huy dân chủ ngày càng cao đối với nhân dân lao động. Tính chất Nhà nước “do nhân dân và vì nhân dân” phải thể hiện rõ trong nội dung pháp luật phải xuất phát từ lợi ích của giai cấp công nhân và đông đảo quần chúng nhân dân lao động chứ không chỉ bảo vệ cho quyền lợi, lợi ích của một giai cấp riêng lẻ như Nhà nước của giai cấp tư sản. Mặt khác, phải bảo đảm các quyền khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm giải quyết những ý kiến của dân khiếu nại, kiến nghị, tố cáo. Tóm lại, đối với đặc trưng của Nhà nước ta, ba yếu tố “của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” là một thể thống nhất trong đó yếu tố “của nhân dân” là quyết định. Ngược lại, có phát huy 2 yếu tố “do nhân dân, vì nhân dân” thì Nhà nước ta mới thực sự là “của nhân dân”. 12 Th ic hu ye nv ie nc hi nh .co m Trong những năm đổi mới vừa qua, Nhà nước ta đã trưởng thành về nhiều mặt, để thể hiện rõ bản chất của một Nhà nước pháp quyền của dân do dân và vì dân. Nổi bật nhất là những thành tựu về xây dựng hệ thống pháp luật để quản lý đất nước, về xây dựng nền dân chủ XHCN, nhất là dân chủ ở cơ sở. Hoạt động của Nhà nước thể hiện được tư tưởng lấy dân làm gốc, biết dựa vào dân, thể hiện việc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Nhà nước cũng đã tích cực đấu tranh chống các tệ nạn xã hội, xử lý nghiêm minh những vụ việc tiêu cực, tham nhũng. Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải thừa nhận rằng bộ máy Nhà nước ta chưa thực sự trong sạch, vững mạnh; tệ tham nhũng, quan liêu, lãng phí của công, tình trạng mất dân chủ, phép nước, kỷ cương xã hội rải rác ở nhiều nơi còn buông lỏng… Mặt khác, quản lý Nhà nước chưa ngang tầm với nhiệm vụ của thời kỳ đổi mới. Đó là: chưa phát huy được những mặt tích cực, chưa khắc phục những hạn chế làm cho tình trạng bất công, bất bình đẳng có xu hướng gia tăng… • Quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh công- nông và đội ngũ trí thức, do Đảng cộng sản lãnh đạo Nhữ đã nói ở phần trên, quyền lực trong Nhà nước không phải là quyền lực của cá nhân hay của bộ máy Nhà nước mà phải thật sự là của toàn thể nhân dân, dựa trên nền tảng là liên minh công - nông và đội ngũ trí thức. Liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức chẳng những là yêu cầu khách quan về chính trị, làm nền tảng vững chắc cho Nhà nước trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng XHCN, mà còn là yêu cầu khách quan của sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước. Liên minh thể hiện tính quy luật chung của cách mạng XHCN ở những nước có nông dân chiếm đại bộ phận dân cư và thường có nền kinh tế chậm phát triển như nước ta. Đồng thời với xu hướng nền kinh tế tri thức đang phát triển mạnh cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ đòi hỏi phải có sự liên minh chặt chẽ giữa giai cấp công nhân và đội ngũ tri thức mới có thể xác định được đường lối, chính sách đúng đắn và tổ chức thực hiện tốt sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Cần phải thấy rằng trong Điều kiện nước ta, nếu không do Đảng cộng sản lãnh đạo, thì Nhà nước không thể là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, lúc đó Nhà nước sẽ biến thành công cụ của một thiểu số thống trị, nô dịch và bóc lột nhân dân. Chỉ có sự lãnh đạo của Đảng thì Nhà nước mới giữ vững được bản chất giai cấp công nhân và đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân. Nhưng đảng lãnh đạo Nhà nước không có nghĩa là Đảng bao biện, làm thay Nhà nước mà là để phát huy trách nhiệm, tính chủ động, sắc bén và hiệu lực quản lý, Đảng lãnh đạo là lãnh đạo xây dựng Nhà nước thật sự là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. 3. Nhà nước CHXHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa XHCN là một xã hội được tổ chức trên cơ sở luật pháp. Luật pháp là cái để thể hiện, là cái đảm bảo cho quyền làm chủ của nhân dân lao động và là công cụ để quản lý xã hội. Nói Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền có nghĩa là Nhà nước hoạt động dựa trên cơ sở của pháp luật, vai trò và nhiệm vụ của Nhà nước chỉ được thực hiện thông qua pháp luật và cũng bị hạn chế bởi chính pháp luật. Nói cách khác, nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền XHCN là Nhà nước và công dân đều phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật. Tính pháp quyền XHCN của Nhà nước ta được thể hiện ở các đặc trưng sau: 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng