HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
Câu 1: Nêu về tính cấp bách phải đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị
ở nước ta hiện nay? Những thuận lợi và nguy cơ của đảng cầm quyền?
Câu 2: Phân tích bản chất của hệ thống chính trị ở nước ta?
1
1
Câu 3: Phân tích bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa và việc đổi mới hệ thống chính trị thể
hiện dân chủ hóa đời sống xã hội ở nước ta hiện nay?
m
2
.co
Câu 4: Vị trí, vai trò, nhiệm vụ của các tổ chức chính trị trong hệ thống chính trị ở nước ta
nh
như thế nào?
nc
hi
Câu 5: Vì sao phải tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị?
13
14
ie
Câu 6: Nội dung, phương hướng cơ bản nhằm đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị?
10
nv
Câu 7: Mục tiêu, quan điểm và chủ trương, giải pháp xây dựng hệ thống chính trị trong giai
15
ye
đoạn hiện nay là gì?
ic
hu
Câu 8: Quan điểm quyền lực nhà nước của Đảng ta: “Quyền lực nhà nước thuộc về nhân
Th
dân hay Nhà nước của dân, do dân, vì dân” ?
18
nh
.co
m
Câu 1. Nêu về tính cấp bách phải đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ
thống chính trị ở nước ta hiện nay? Những thuận lợi và nguy cơ của đảng cầm
quyền?
1. Nêu tính cấp bách:
- Yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN do đó phải có
HTCT phù hợp, mục tiêu đưa nước ta thành nước CN PT đến năm 2020
- Khắc phục yếu kém: cồng kềnh, nhiều trung gian, chất lượng hiệu quả thấp,
quan liêu, lãng phí, tham nhũng,... nhằm lập lại kỷ cương
- Các thế lực phản động, thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu diễn biến hòa
bình, bạo loạn nhằm lật đổ, đổi mới nhằm thêm sức mạnh của Đảng ta
Yêu cầu đổi mới đồng bộ vững chắc
2. Làm rõ 4 nguy cơ:
- Tụt hậu
- Chệch đường lối
- Tham nhũng, quan liêu, lãng phí
- Diễn biến hòa bình của thế lực thù địch
nc
hi
Câu 2: Phân tích bản chất của hệ thống chính trị ở nước ta?
Th
ic
hu
ye
nv
ie
Trả lời:
a. Khái niệm hệ thống chính trị:
Hệ thống chính trị là một cơ chế chính trị của một chế độ xã hội,bao gồm các
tổ chức, các thiết chế chính trị xã hội có những mối liên hệ lẫn nhau, bảo đảm thực
hiện có kết quả quyền lực chính trị của giai cấp thống trị trong quan hệ với các giai
cấp, tầng lớp và nhóm xã hội khác, nhằm tác động vào quá trình kinh tế xã hội để duy
trì và phát triển xã hội đương thời.
Là một phạm trù lịch sử hệ thống chính trị ra đời khi xã hội xuất hiện giai cấp
và mâu thuẫn đối kháng. Nó luôn luôn được hoàn thiện và sẽ tự tiêu vong cùng với
giai cấp và nhà nước.
Khi xã hội hình thành, có những lợi ích khác nhau nên hình thành các hình thức
tổ chức, các thể chế xã hội khác nhau, song chúng quan hệ chặt chẽ với nhau tạo nên
hệ thống chính trị xã hội. Lịch sử đã chứng minh ở mỗi chế độ xã hội có giai cấp thì
có hệ thống chính trị tương ứng.
Hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là một cơ cấu xã hội bao gồm: Đảng cộng
sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa, các đoàn thể, các tổ chức chính trị xã hội, các tập thể
lao động hoạt động theo một cơ chế nhất định dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
nhằm thực hiện quyền lực của nhân dân lao động, xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội.
b. Bản chất của hệ thống chính trị xã hội xã hội chủ nghĩa:
1
Th
ic
hu
ye
nv
ie
nc
hi
nh
.co
m
Bản chất của hệ thống chính trị xã hội xã hội chủ nghĩa khác về bản chất so
với hệ thống chính trị của các xã hội trước đó. Yếu tố căn bản nhất của hệ thống chính
trị xã hội chủ nghĩa là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân (thông qua Đảng
cộng sản) đối với toàn xã hội.
Bản chất của hệ thống chính trị:
Hệ thống chính trị xuất hiện cùng với sự xuất hiện của giai cấp và nhà nước.
Bản chất của hệ thống chính trị do quan hệ sản xuất đặc trưng quy định. Hệ thống
chính trị thực hiện đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền. Giai cấp thống trị
thông qua hệ thống chính trị (trước hết và chủ yếu là nhà nước) để bảo vệ lợi ích của
giai cấp mình, chính điều này mà hệ thống chính trị mang bản chất giai cấp.
Trong các chế độ bóc lột, trình độ phát triển của hệ thống chính trị rất khác
nhau nhưng có chung một bản chất là đều dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất và duy trì quyền áp bức bóc lột của giai cấp thống trị đối với đông đảo
nhân dân lao động. Chính vì vậy, sự hình thành và phát triển của hệ thống chính trị
gắn liền với quá trình vận động của mâu thuẫn các giai cấp đối kháng.
Bản chất của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa:
Mang bản chất giai cấp công nhân. Điều đó quy định nhiệm vụ, phương hướng
hoạt động của hệ thống chính trị. Sự lãnh đạo chính trị thuộc về giai cấp công nhân
thực hiện đường lối chính trị của giai cấp công nhân.
Giai cấp công nhân lãnh đạo trên mọi lĩnh vực.
Bản chất dân chủ của hệ thống chính trị được biểu hiện trước hết ở việc
chuyển giao chính quyền nhà nước vào tay nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân, thiết lập sự thống trị của đa số nhân dân lao động với thiểu số bóc
lột.
Bản chất thống nhất, không đối kháng của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
Mặt bản chất này xuất phát từ:
Cơ sở của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất chủ yếu. Vì vậy có sự thống nhất căn bản lợi ích người lao động.
Sự thống nhất của các tổ chức trong hệ thống chính trị về hành động, hoạt động
cùng chiều, phối hợp đoàn kết, hợp tác với nhau nhằm mục đích chung xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội, tất cả vì hạnh phúc của con người.
(Lồng ghép với bản chất chính trị... trang tài liệu ôn)
Câu 3: Phân tích bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa và việc đổi mới hệ
thống chính trị thể hiện dân chủ hóa đời sống xã hội ở nước ta hiện nay?
Trả lời:
Vấn đề hệ thống chính trị và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một trong những
nội dung cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học. Cuộc cách mạng XHCN là cuộc cách
2
Th
ic
hu
ye
nv
ie
nc
hi
nh
.co
m
mạng sâu sắc nhất, toàn diện nhất trong lịch sử. Cuộc cách mạng đó chỉ đạt được
thành tựu mong đợi khi cuộc cách mạng đó là kết quả hoạt động sáng tạo của toàn thể
nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Mácxít, đồng thời kết quả của cuộc cách mạng
đó phải thuộc về nhân dân. Nghĩa là giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao
động khác nhau khác thiết lập được hệ thống quyền lực chính trị của mình, đó là lập
một nền dân chủ mới, nền dân chủ XHCN trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Trong thời
kỳ quá độ lên CNXH, nền dân chủ đó trở thành điều kiện tiên quyết, là công cụ chủ
yếu của giai cấp công nhân và tầng lớp nhân dân lao động khác trong sự nghiệp cải tạo
triệt để xã hội cũ, xây dựng XH mới XHCN. Chính vì vậy, Đảng ta cho rằng “thực
hiện dân chủ XHCN là thực chất của việc đổi mới là kiện toàn hệ thống chính trị, đây
là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới”.
Vậy bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là gì? Và tại sao việc đổi mới hệ
thống chính trị, thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội ở nước ta hiện nay vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới. Bằng lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học
và thực tiễn nền dân chủ ở nước ta hiện nay, chúng ta hãy phân tích, lý giải vấn đề
trên.
1. Bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa
a. Khái niệm về dân chủ:
Dân chủ là một phạm trù chính trị, là sản phẩm của mối quan hệ giai cấp, là
một trong những hình thức tổ chức bộ máy nhà nước của xã hội, thực thi quyền lực
của giai cấp thống trị.
- Có ba đặc trưng cơ bản của dân chủ: một là thừa nhận nguyên tắc thiểu số
phục tùng đa số, hai là thừa nhận quyền bình đẳng giữa các công dân, mà chủ yếu là
bình đẳng trước pháp luật; Không phân biệt giàu nghèo, dân tộc, tôn giáo, nam hay
nữ,... nếu vi phạm pháp luật đều bị xử lý nghiêm minh; ba là thừa nhận cội nguồn của
quyền lực thuộc về nhân dân.
- Dân chủ là một phạm trù lịch sử trước hết bởi vì nó là sản phẩm của mối quan
hệ giai cấp, tồn tại trong một giai đoạn lịch sử nhất định, khi xã hội còn phân chia giai
cấp. Dân chủ ra đời chỉ khi con người có nhu cầu, chế độ XH nguyên thủy không có
dân chủ do tất cả mọi người đều bình đẳng, đến khi XH phân chia giai cấp thì dân chủ
mới xuất hiện. Như vậy dân chủ gắn liền với chế độ chính trị và gắn với giai cấp nhất
định.
- Tuy nhiên không phải nhà nước nào trong xã hội có phân chia giai cấp cũng
ban hành chế độ dân chủ. Trong lịch sử phát triển xã hội loài người, đã trải qua các xã
hội khác nhau từ thấp đến cao. Nhưng trong các cấp thống trị như: giai cấp chủ nô,
giai cấp phong kiến, giai cấp tư sản mới có quyền dân chủ, còn hầu hết các giai cấp
quần chúng nhân dân lao động - những người sáng tạo và làm nên lịch sử, động được
thúc đẩy lịch sử phát triển - thì không được thực hiện dân chủ đúng với bản chất của
nó, nói cách khác dân chủ chỉ thuộc về giai cấp thống trị.
3
Th
ic
hu
ye
nv
ie
nc
hi
nh
.co
m
+ Trong lịch sử xã hội loài người, nền dân chủ xuất hiện đầu tiên từ thời chiếm
hữu nô lệ mà đại biểu là Nhà nước La Mã và Nhà nước Hi Lạp. Dân chủ lúc này thuộc
về giai cấp chủ nô, dân tự do và tầng lớp hiệp sĩ, nó là sản phẩm đấu tranh của phái
dân chủ và phản dân chủ, Trong nền dân chủ đó, tầng lớp nô lệ không được quyền dân
chủ, họ không được xem là những công dân và toàn bộ cuộc sống của - họ kể cả thể
xác - đều do chủ nô quyết định, nô lệ được xem là loại công cụ đặc biệt - công cụ biết
nói.
+ Trong chế độ phong kiến, tư tưởng dân chủ và biểu hiện hiện của dân chủ tuy
có xuất hiện, nhưng do là Nhà nước chuyên chế nên Nhà nước phong kiến không có
ban hành chế độ dân chủ, mà thi hành chính sách bóc lột bằng chế quyền và thần
quyền. Trong chế độ này, tuy người lao động trở thành thực thể tự do, nhưng họ vẫn là
nông dân bị cột chặt vào vua chúa phong kiến, bởi những mảnh đất của chúng. Vua là
con trời, cho nên có quyền lực tối cao, mọi người lao động chỉ là thần dân chịu sự khai
chiến của vua. Vì vậy, mặc dù có sự tồn tại một số nhà nước phong kiến với một số
biểu hiện dân chủ nhưng không thể được xem là có một chế độ dân chủ phong kiến.
+ Chống lại chế độ phong kiến hà khắc chuyên chế, giai cấp tư sản đã giương
cao ngọn cờ “tự do, bình đẳng, bác ái”, nhờ đó giai cấp tư sản đã thu hút và tập hợp
được đông đảo quần chúng lao động theo mình làm cách mạng lần đổ chế độ phong
kiến thống trị, xây dựng nền dân chủ tư sản. Điển hình là cuộc cách mạng tư sản Pháp
(1789). Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, quyền công dân, quyền con người được
ghi vào pháp luật, Tuy nhiên bản chất dân chủ tư sản vẫn là thiểu số bóc lột da số, đời
sống công nhân và nhân dân lao động ngày càng bị bần cùng hóa, tệ nạn xã hội, thất
nghiệp, ô nhiễm môi trường đang là vấn nạn trong lòng CNTB. Do vậy nền dân chủ
trong chế độ tư bản không triệt để.
+ Chống lại chế độ tư bản áp bức, bóc lột nặng nề, giai cấp công nhân một số
nước trên thế giới - dưới sự lãnh đạo của chính đảng của mình, Đảng Cộng sản - đã
thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình là xóa bỏ chế độ tư bản, xây dựng một xã hội mới:
xã hội XHCN. Sau khi giai cấp công nhân giành được chính quyền bằng cuộc cách
mạng vô sản, thiết lập được quyền lực chính trị của mình thì cùng với việc xây dựng
xã hội mới, giai cấp công nhân còn xây dựng chế độ dân chủ mới, với nền dân chủ
tiến bộ hơn: đó là chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa.
- Sự ra đời của dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là kết quả tất yếu của lịch sử đấu
tranh lâu dài của nhân dân lao động vì sự nghiệp giải phóng toàn thể nhân dân lao
động, là sự thay thế tất yếu hợp quy luật đối với dân chủ tư sản, vừa là một bước phát
triển về chất của dân chủ. Lần đầu tiên trong lịch sử, nền dân chủ được thiết lập sau
đại đa số nhân dân lao động đã được hình thành. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày
càng đầy đủ, hoàn thiện, thì nó cũng là quá trình tự tiêu vong.
- Dân chủ với tư cách là một phạm trù chính trị, nên bao giờ cũng mang tính
giai cấp trong nội dung cơ bản nhất của nó. Trong mọi thời kỳ lịch sử, việc thực hiện
dân chủ cho một tập đoàn xã hội có nghĩa là loại trừ hai hạn chế dân chủ của những
4
Th
ic
hu
ye
nv
ie
nc
hi
nh
.co
m
tập đoàn XH khác. Điều đó đúng cho mọi loại hình dân chủ kể cả dân chủ của giai cấp
vô sản. Đối tượng của sự chuyên chính không thể được hưởng các quyền dân chủ. Do
vậy, Trong nền dân chủ XHCN, dân chủ và chuyên chính bổ sung cho nhau, là điều
kiện và tiền đề tồn tại cho nhau.
b. bản chất của nền dân chủ XHCN
Từ những quan điểm về dân chủ và kiểu dân chủ XHCN nêu trên, bản chất của
nền dân chủ XHCN còn thể hiện ở những nội dung mang tính đặc trưng sau:
- Một là dân chủ XHCN là nền dân chủ thực sự, của dân, do dân và vì dân, đó
là nền dân chủ rộng rãi, đầy đủ nhất trong lịch sử. Tuy nhiên nó vẫn mang tính giai
cấp, đó là tính giai cấp công nhân trên cơ sở liên minh với giai cấp nông dân, tầng lớp
trí thức và các tầng lớp lao động khác.
+ Tính chất dân chủ thực sự được thể hiện ở chỗ là nền dân chủ mà trong đó
mọi quyền lực thuộc về nhân dân, trước hết là nhân dân lao động, xã hội được quản lý
bởi nhân dân và vì nhân dân, thông qua nhà nước xã hội chủ nghĩa do chính nhân dân
lập ra; mọi người đều được bảo đảm trên thực tế quyền tự do, bình đẳng và các quyền
cơ bản khác. Nhân dân lao động làm chủ trên tất cả lĩnh vực đời sống xã hội, làm chủ
về kinh tế chính trị, văn hóa và xã hội. Quyền làm chủ của nhân dân được biểu hiện và
bảo đảm bằng pháp luật, nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình trên cơ sở luật
pháp, dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng được hoàn thiện cùng với quá trình phát
triển kinh tế - xã hội.
+ Dân chủ xã hội chủ nghĩa mang bản chất của giai cấp công nhân, thực thi
đường lối dân chủ của giai cấp công nhân, nhưng đồng thời lại mang tính nhân dân
sâu sắc và rộng lớn. Tính giai cấp và tính nhân dân trong dân chủ xã hội chủ nghĩa
giải thống nhất vì xuất phát từ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xóa bóc lột,
giải phóng con người; lợi ích cơ bản và lâu dài của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động là thống nhất với nhau, do quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ
công hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Hai là cơ sở kinh tế - xã hội của dân chủ XHCN là lợi ích chân chính của người
lao động không đối lập mà ngược lại phù hợp, gắn bó chặt chẽ với lợi ích toàn xã hội.
Để dân chủ xã hội chủ nghĩa ra đời và phát triển đầy đủ, ngoài việc giai cấp công nhân
giành được chính quyền và thiết lập quyền lực chính trị của mình chỉ cần có sự hình
thành và phát triển của nền kinh tế mới - kinh tế XHCN. Mặt khác, dân chủ XHCN có
đủ cơ sở và điều kiện xác định vai trò làm chủ của người lao động trong nền SX XH.
Điều đó có ý nghĩa rất quan trọng vì thực hiện dân chủ trong kinh tế là điều kiện cơ
bản chắc chắn trong việc thực hiện dân chủ trên các lĩnh vực khác.
Ba là dân chủ XHCN là dân chủ có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, có kỷ luật,
kỷ cương trong khuôn khổ pháp luật XHCN. Sự lãnh đạo của Đảng vừa thể hiện bản
chất giai cấp công nhân của dân chủ, vừa bảo đảm quyền lực và lợi ích chính đáng của
nhân dân. Dân chủ XHCN cũng đi liền với chuyên chính: dân chủ đối với nhân dân
lao động và chuyên chính với mọi hành vi vi phạm lợi ích của nhân dân, của Tổ quốc
5
Th
ic
hu
ye
nv
ie
nc
hi
nh
.co
m
và của chế độ. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là biểu hiện một cách rõ ràng nhất, sâu
sắc nhất bản chất giai cấp của dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Bốn là dân chủ XHCN thực sự phản ánh và bảo đảm mối quan hệ bình đẳng về
quyền lợi và nghĩa vụ giữa mọi công dân trước pháp luật, không có sự phân biệt đối
xử. Sự bảo đảm ấy không chỉ trên Văn bản pháp luật mà còn được thực thi đầy đủ
trong cuộc sống. Dân chủ xã hội chủ nghĩa tạo điều kiện cho công dân tham gia ngày
càng đông đảo vào công việc quản lý Nhà nước.
Trong thời đại ngày nay, quan điểm tư sản về dân chủ là sự cường điệu chủ
nghĩa đa nguyên về chính trị, xem sự tồn tại của nhiều đảng phái đối lập, tranh giành
quyền lực lãnh đạo xã hội là tiêu chí cơ bản nhất của một chế độ thực sự dân chủ, là
đỉnh cao của dân chủ. Thực tế cho thấy rằng không phải bao giờ và mọi nước tư bản
đều có đa nguyên về chính trị cũng như không bao giờ có giai cấp tư sản nắm chính
quyền lại thừa nhận vai trò hợp pháp của chính đảng Mác-lênin. Hơn nữa sự đa
nguyên về chính trị không phải là sự ban phát hay là thiện chí của giai cấp tư sản cầm
quyền mà là của giai cấp công nhân, đó là thành quả của cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa không thừa nhận đa nguyên chính trị và đa đảng đối
lập. Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập không phải là tiêu chí cũng không phải là
đỉnh cao của dân chủ thực, chất nó chỉ là biểu hiện sự so sánh tương quan lực lượng
giữa các giai cấp, còn dân chủ nhiều hay ít, tiến bộ hay không tiến bộ phụ thuộc vào
lợi ích và quyền lực có thuộc về nhân dân hay không?
Do vậy, muốn thực hiện đầy đủ yêu cầu của dân chủ, tất yếu phải loại bỏ giai
cấp tư sản ra khỏi vị trí cầm quyền. Vì vậy, việc giai cấp công nhân tiến hành cuộc
cách mạng XH xóa bỏ chế độ TBCN cùng với nền dân chủ tư sản, để xây dựng xã hội
mới là một tất yếu lịch sử.
2. Liên hệ nền dân chủ Việt Nam việc đổi mới hệ thống chính trị, thể hiện dân
chủ hóa đời sống xã hội ở nước ta hiện nay.
Từ phân tích bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa nói trên, đối với nước ta
cần phải thực hiện nền dân chủ thiết thực. Đại hội VI của Đảng có ghi: Trong toàn bộ
hoạt động của mình Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Trong Hiến pháp nước ta cũng có quy
định rõ Nước CHXHCN Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức.
Đặc điểm của nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH, không qua giai đoạn
phát triển TBCN, với nền SX còn yếu kém và lạc hậu mang tính tự cung, tự cấp, kinh
tế hàng hóa chưa phát triển cao. Mặt khác, do chiến tranh tàn phá nặng nề, do thực
hiện cơ chế quan liêu bao cấp trong một thời gian dài cho nên làm ảnh hưởng đến việc
phát triển KT-XH và nền dân chủ XHCN.
6
Th
ic
hu
ye
nv
ie
nc
hi
nh
.co
m
Từ những đặc điểm trên cùng với những nguyên nhân khách quan và chủ quan
có thể thấy thực trạng nền dân chủ nước ta là chúng ta đang xây dựng nền dân chủ
XHCN,nhưng hiện nay còn ở trình độ thấp cả về nhu cầu và nếp sống dân chủ, về tính
phong phú, tính nguyên tắc của dân chủ và năng lực thực hiện. Cơ chế vận hành thực
hiện dân chủ ở nước ta chưa đồng bộ và hoàn thiện cả về tổ chức, bộ máy và năng lực
vận hành. Song kể từ khi thực hiện đổi mới (năm 1986) chúng ta đã đạt được một số
thành tựu bước đầu đáng kể trong việc thực hiện nền dân chủ, báo cáo chính trị Đại
hội Đảng lần VII đã đánh giá: một trong những thành tựu của công cuộc đổi mới là
bước đầu thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực của đời sống XH.
Tuy nhiên, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của chúng ta còn hạn chế khuyết điểm
trên từng lĩnh vực như: quyền làm chủ của nhân dân chưa được tôn trọng và phát huy
đầy đủ, trong xã hội còn không ít hiện tượng mất dân chủ, dân chủ hình thức mà có
nơi xảy ra rất nghiêm trọng, bệnh quan liêu, tư tưởng phong kiến - gia trưởng vẫn còn
nặng nề... Đồng thời cũng xuất hiện khuynh hướng dân chủ cực đoan, dân chủ không
đi liền với thực hiện kỷ luật và pháp luật. Cơ chế pháp luật bảo đảm thực hiện dân chủ
chưa được cụ thể hóa đầy đủ. Chính vì vậy, hạn chế trên đã gây nên những tiêu cực
trong mọi mặt đời sống XH, gây nên sự trì trệ, mất sức chiến đấu và làm giảm uy tín
của Đảng, làm thui chột tính năng động sáng tạo và vai trò làm chủ của quần chúng
nhân dân lao động…
Tình trạng ấy đòi hỏi phải có sự đổi mới hệ thống chính trị, dân chủ hóa đời
sống xã hội, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một tất yếu trong quá trình đổi
mới kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay.
Như chúng ta đã biết, đến dân chủ nào cũng được thực hiện thông qua một thiết
chế tổ chức và cơ chế vận hành nhất định: đó là hệ thống chính trị. Hệ thống chính trị
là một phạm trù dùng để chỉ một chính thể các đảng phái, các đoàn thể các tổ chức
chính trị - xã hội nhằm và phát triển xã hội. Nó cũng là một cơ chế bảo đảm quyền
làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội.
Hệ thống chính trị trong chủ nghĩa xã hội là tổng hợp các tổ chức: Nhà nước xã
hội chủ nghĩa và các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân mà thông qua đó dưới sự
lãnh đạo của chính đảng Mácxít - Lênin nhân dân thực hiện được quyền lực của mình
trong việc quản lý sự phát triển kinh tế - xã hội nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội. Hệ thống chính trị của xã hội xã hội chủ nghĩa bao gồm ba bộ phận cấu thành:
Đảng Cộng sản, Nhà nước xã hội chủ nghĩa, các tổ chức chính trị - xã hội của nhân
dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Hệ thống chính trị trong CNXH hoạt động theo nguyên tắc của nền dân chủ
XHCN, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tập trung dân chủ, thiểu số phục
tùng đa số, dân chủ phải đi đôi với kỷ cương pháp luật, tuân thủ nghiêm ngặt các
chuẩn mực pháp quyền XHCN. Chỉ có trên nguyên tắc, tính tích cực chính trị xã hội
của công nhân mới được nâng cao, các quyền dân chủ, công bằng bình đẳng mới được
bảo đảm.
7
Th
ic
hu
ye
nv
ie
nc
hi
nh
.co
m
Đề cập mục tiêu đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta, cương lĩnh chính trị xây
dựng đất nước (1991) của Đảng chỉ rõ: “thực chất của đổi mới hệ thống chính trị là
xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực
thuộc về nhân dân”. Nội dung đổi mới hệ thống chính trị và dân chủ hóa ở nước ta
hiện nay thể hiện ở những vấn đề căn bản sau:
- Thứ nhất là: thực hiện dân chủ hóa trong xã hội, dân chủ hóa ngay trong hệ
thống chính trị để tạo ra mối quan hệ biện chứng giữa dân chủ hóa với việc xây dựng
và kiện toàn hệ thống chính trị. Đảng là hạt nhân, lãnh đạo của hệ thống chính trị
nhưng điều đó không có nghĩa là đảng đứng trên, đứng ngoài pháp luật cũng như đã
cương quyết không bao biện, làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống
chính trị, nhà nước. Do đó, Đảng phải tự đổi mới chỉnh đốn để nâng cao năng lực lãnh
đạo, phải được xây dựng vững mạnh về cả ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Trong những năm tới, toàn Đảng tập trung làm tốt những công tác quan trọng sau
đây: Một là tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng rèn luyện đạo đức cách
mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Hai là tiếp tục đổi mới công tác cán bộ. Ba là xây
dựng củng cố các tổ chức cơ sở Đảng. Bốn là kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng.
- Thứ hai là: xây dựng nhà nước pháp quyền quản lý xã hội bằng pháp luật,
nhằm từng bước tạo ra xã hội công dân XHCN và người công dân XHCN, coi đó là
nhiệm vụ quan trọng có tính cấp bách hiện nay. Việc quản lý xã hội bằng pháp luật
đòi hỏi phải xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, làm rõ và tách bạch giữa
quản lý nhà nước và quản lý sản xuất kinh doanh. Nhà nước được nhân dân giao cho
quyền Lực và trách nhiệm quản lý mọi mặt đời sống xã hộ,i nên mọi chủ trương chính
sách, kế hoạch của nhà nước là thể hiện ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân.
Nhà nước vừa phải phát huy vai trò chủ động sáng tạo của mình vừa phải bảo đảm
quyền lực thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực của mình trước hết thông
thông qua các cơ quan nhà nước do nhân dân trực tiếp bầu ra. Trong cương lĩnh của
Đảng có nêu: Nhà nước có mối quan hệ thường xuyên và chặt chẽ với nhân dân, tôn
trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Hiện nay, nạn
tham nhũng, quan liêu, hối lộ đang là những nhức nhối của xã hội. Vì vậy, nhà nước
phải có trách nhiệm có biện pháp ngăn chặn tệ nạn tham nhũng, quan liêu, xâm phạm
đến quyền làm chủ của nhân dân, làm cho nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì
dân.
Để đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước cần thực
hiện những việc sau đây: Một là phải gắn liền với xây dựng chỉnh đốn Đảng đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Nâng cao chất lượng hoạt động
của các tổ chức Đảng và đảng viên trong các cơ quan Nhà nước; Hai là cải cách thể
chế và phương thức hoạt động của Nhà nước, của Quốc hội, của Chính phủ, của các
cơ quan tư pháp; Ba là phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường
pháp chế; Bốn là xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch có năng lực; Năm là
8
Th
ic
hu
ye
nv
ie
nc
hi
nh
.co
m
tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Bên cạnh đó cần phải chú ý cải
thiện tiền lương của các cán bộ công chức.
- Thứ ba là: về phía các tổ chức xã hội chính trị của quần chúng nhân dân, phải
được tổ chức trên cơ sở pháp luật và phù hợp với trình độ của các thành viên, thực
hiện dân chủ hóa trong hoạt động, lấy việc bảo vệ lợi ích chính Đảng của các thành
viên làm nhiệm vụ.
Thực hiện dân chủ hóa trên các lĩnh vực đời sống xã hội, thực chất là vấn đề
dân chủ hóa đời sống xã hội là quá trình đưa các giá trị dân chủ vào cuộc sống, làm
cho nó trở thành hiện thực và phổ biến trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, là làm
cho nhân dân thực hiện được trên thực tế quyền làm chủ và phát huy được năng lực
làm chủ của mình trên mọi bình diện của đời sống xã hội, là động lực quan trọng trong
sự nghiệp đổi mới, là biện pháp hữu hiệu để khắc phục bệnh quan liêu, tiêu cực... đấu
tranh chống mọi hành vi vi phạm đến quyền lợi và lợi ích của nhân dân, là thước đo,
là tính ưu việt thực hiện nền dân chủ của một xã hội. Dân chủ hóa đời sống xã hội ở
nước ta có nội dung toàn diện, trong đó dân chủ hóa nền kinh tế quan trọng vì mang
tính quyết định. Dân chủ hóa trong lĩnh vực kinh tế là thực hiện quyền tự do, bình
đẳng, giải phóng sức sản xuất, là trả lại cho nền kinh tế tính năng động vốn có của nó,
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN, khẳng định quyền
sản xuất kinh doanh của các cá nhân và tập thể phù hợp với các quy định của pháp
luật và lợi ích chung của xã hội. Dân chủ trong lĩnh vực chính trị là thực hiện quyền tự
do dân chủ trong sinh hoạt chính trị, đảm bảo cho người dân được làm chủ xã hội về
chính trị. Trước hết là dân chủ trong bầu cử, cần khắc phục triệt để những dân chủ
hình thức trong bầu cử, tăng cường dân chủ trực tiếp của nhân dân trong các tổ chức
xã hội, đoàn thể... bảo đảm cho người dân thực hiện được tham gia vào công việc
quản lí nhà nước quản lí, quản lý xã hội, tham gia vào các chính sách, chiến lược phát
triển kinh tế chính trị, văn hóa ... của đất nước.
Dân chủ hóa trong lĩnh vực kinh tế và chính trị vừa đặt ra đòi hỏi, vừa là điều
kiện của dân chủ hóa trong lĩnh vực tinh thần cho tương ứng. Nó bao hàm các hoạt
động giáo dục, tuyên truyền, nghiên cứu khoa học, các hoạt động văn hóa nghệ thuật,
các lĩnh vực thông tin, báo chí, xuất bản. Tự do tư tưởng và giải phóng tinh thần cũng
là vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu đối với quá trình dân chủ hóa trong lĩnh vực
tinh thần. Dân chủ hóa trong lĩnh vực tinh thần là lĩnh vực hết sức phức tạp đa dạng
và phong phú liên quan rất nhiều mặt: tư duy, đạo đức, nhân cách, lối sống, mối quan
hệ giữa các cá nhân và xã hội, về quan niệm thái độ đối với các giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc và hiện đại của nhân loại trong thời đại ngày nay
Qua phân tích bản chất của dân chủ XHCN và những hạn chế trong việc thực
hiện dân chủ ở nước ta hiện nay cho thấy đổi mới hệ thống chính trị của nước ta là
một yêu cầu tất yếu và hết sức quan trọng, nó vừa là mục tiêu của cách mạng nhưng
đồng thời với những kết quả đạt được trong quá trình thực hiện sự đổi mới đó cũng là
động lực để thúc đẩy cuộc cách mạng xây dựng XHCN ở nước ta . Quá trình đó đòi
9
hỏi mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân phải có ý thức về dân chủ xã hội chủ nghĩa,
phải thực thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ nhằm làm cho nhà nước thật sự là
nhà nước của dân, do dân và vì dân, phải tích cực tham gia đóng góp chống những
biểu hiện tham nhũng, quan liêu, hách dịch đồng thời luôn luôn nêu cao cảnh giác
chống mọi âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch nhằm xóa bỏ chế độ
XHCN, nền dân chủ XHCN, thực hiện thắng lợi CNH-HĐH và tiến tới xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
Câu 4: Vị trí, vai trò, nhiệm vụ của các tổ chức chính trị trong hệ thống
chính trị ở nước ta như thế nào?
m
Trả lời:
Th
ic
hu
ye
nv
ie
nc
hi
nh
.co
Ở nước ta hiện nay, giai cấp công nhân và nhân dân lao động đang là chủ thể
chân chính của quyền lực. Vì vậy, hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng là
công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động. Hệ thống chính trị của nước
ta bao gồm nhiều tổ chức, mỗi tổ chức có vị trí, vai trò khác nhau do chức năng,
nhiệm vụ của từng tổ chức, nhưng cùng tác động vào các quá trình phát triển kinh tế xã hội nhằm đảm bảo quyền lực của nhân dân.
a. Đảng Cộng sản Việt Nam:
Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu
trung thành lợi ích giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng là
một bộ phận của hệ thống chính trị nhưng lại là hạt nhân lãnh đạo của toàn bộ hệ
thống chính trị. Vai trò lãnh đạo của Đảng thể hiện trên những nội dung chủ yếu sau:
Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, những quan điểm, chủ
trương phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời Đảng là người lãnh đạo và tổ chức thực
hiện Cương lĩnh, đường lối của Đảng.
Đảng lãnh đạo xã hội chủ yếu thông qua Nhà nước và các đoàn thể quần chúng.
Đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng được Nhà nước tiếp nhận, thể chế hóa cụ
thể bằng pháp luật và những chủ trương, chính sách, kế hoạch, chương trình cụ thể. Vì
vậy, Đảng luôn quan tâm đến việc xây dựng Nhà nước và bộ máy của Nhà nước, đồng
thời kiểm tra việc Nhà nước thực hiện các Nghị quyết của Đảng.
Đảng lãnh đạo xã hội thông qua hệ thống tổ chức Đảng các cấp và đội ngũ cán
bộ, đảng viên của Đảng. Đảng lãnh đạo công tác cán bộ bằng việc xác định đường lối,
chính sách Cán bộ, lựa chọn, bố trí, giới thiệu cán bộ có đủ tiêu chuẩn vào các cơ quan
lãnh đạo của Nhà nước và các đoàn thể quần chúng và các tổ chức chính trị - xã hội.
Ngoài ra, Đảng lãnh đạo bằng phương pháp giáo dục, thuyết phục và nêu
gương, làm công tác vận động quần chúng, lãnh đạo thực hiện tốt quy chế dân chủ…
b. Nhà nước:
10
Th
ic
hu
ye
nv
ie
nc
hi
nh
.co
m
Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị ở nước ta, là công cụ tổ chức thực
hiện ý chí và quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân
dân để quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Đó chính là Nhà nước của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân. Mặt khác, nhà nước chịu sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân, thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Đảng lãnh đạo Nhà nước thực hiện
và đảm bảo đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
Như vậy, Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là cơ quan quyền lực, vừa là bộ máy
chính trị, hành chính, vừa là tổ chức quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội của nhân dân.
Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội do nhân dân
trực tiếp bầu ra, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập ra hiến pháp và luật pháp
(lập hiến và lập pháp). Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội, đối
ngoại, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và
hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao với toàn bộ hoạt động của Nhà
nước.
Với ý nghĩa đó, Quốc hội được gọi là cơ quan lập pháp, Chính phủ là cơ quan
chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của Nhà nước, Chính phủ là cơ
quan chấp hành, chịu trách nhiệm trước Quốc hội và phải báo cáo công tác với Quốc
hội. Trên ý nghĩa đó, Chính phủ được gọi là cơ quan hành pháp.
Cơ quan tư pháp gồm: Tòa án, Viện kiểm sát và các cơ quan điều tra. Đây là
những cơ quan được lập ra trong hệ thống tổ chức Nhà nước để xử lý những tổ chức
và cá nhân vi phạm pháp luật, đảm bảo cho việc thực thi pháp luật một cách nghiêm
minh, chính xác.
Tòa án các cấp là cơ quan nhân danh Nhà nước, thể hiện thái độ và ý của nhà
nước trước các vụ án thông qua hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Tòa án
là cơ quan duy nhất có quyền áp dụng chế tài hình sự, không ai bị coi là có tội và phải
chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Để đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, đảm bảo việc xét xử đúng
người đúng tội, Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức thành hệ thống, tập trung thống
nhất và độc lập thực hiện thẩm quyền của mình đối với các cơ quan khác của Nhà
nước. Thực hiện các quyền khởi tố, kiểm soát các hoạt động điều tra, truy tố... Với ý
nghĩa đó, các tổ chức Tòa án, Viện kiểm sát được gọi là cơ quan tư pháp.
11
Th
ic
hu
ye
nv
ie
nc
hi
nh
.co
m
Nhà nước thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục
nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân. Vì vậy, cần tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa.
c. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội…
Đây là những tổ chức chính trị-xã hội hợp pháp được tổ chức để tập hợp rộng
rãi các tầng lớp nhân dân theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản đại diện cho lợi ích của
nhân dân, tham gia vào hệ thống chính trị, tùy theo tính chất, tôn chi, mục đích của
mình nhằm bảo vệ quyền lợi dân chủ của nhân dân.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng
trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ đất nước; phát huy
dân chủ, nâng cao trách nhiệm công dân của các hội viên, đoàn viên, giữ gìn kỷ cương
phép, nước thúc đẩy công cuộc đổi mới, phát triển mối quan hệ giữa nhân dân với
Đảng và Nhà nước.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân là cơ sở chính trị của chính
quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí và nguyện vọng, phát huy khả năng tham gia bầu
cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân; tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; thực hiện giám sát của nhân dân với cán bộ,
công chức và giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân.
Các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân có nhiệm vụ giáo dục chính trị tư
tưởng, động viên và phát huy tính tích cực xã hội của các tầng lớp nhân dân, góp phần
thực hiện nhiệm vụ chính trị; chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng và hợp pháp của nhân
dân; tham gia vào công việc quản lí Nhà nước, quản lí xã hội, giữ vững và tăng cường
mối liên hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, góp phần thực hiện và thúc
đẩy quá trình dân chủ hóa và đổi mới xã hội, thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức theo một hệ thống từ Trung ương
đến cơ sở. Cơ sở phân cấp theo quản lý hành chính gồm có xã, phường, thị trấn. Hệ
thống chính trị ở cơ sở bao gồm: Tổ chức cơ sở Đảng; Hội đồng nhân dân xã, phường;
Ủy ban Nhân dân xã, phường; Mặt trận Tổ quốc xã, phường và các tổ chức chính trị xã hội khác như: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ, Hội Nông
dân, Hội Cựu chiến binh xã, phường, thị trấn... Tất cả các tổ chức trên đều có vị trí,
vai trò và nhiệm vụ được quy định trong Luật Tổ chức của hệ thống chính trị ở nước
ta.
Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận
động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động
mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư.
12
Câu 5: Vì sao phải tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị?
Trả lời:
Th
ic
hu
ye
nv
ie
nc
hi
nh
.co
m
Trong những năm qua, hệ thống chính trị ở nước ta đã có những đổi mới đáng
kể: Đảng đã được củng cố cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức; vai trò lãnh đạo của Đảng
trong xã hội ngày càng tăng; Nhà nước tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện theo
hướng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì dân; Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội từng bước đổi mới nội dung và phương thức hoạt
động, đem lại hiệu quả thiết thực; quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực kinh
tế, xã hội, chính trị, văn hóa, tư tưởng được phát huy... Bên cạnh đó, hệ thống chính trị
ở nước ta còn bộc lộ nhiều nhược điểm: Năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu
quả quản lý, điều hành của Nhà nước hiệu quả hoạt động của các đoàn thể chính trị xã hội chưa được nâng lên kịp với đòi hỏi của tình hình nhiệm vụ mới. Bộ máy Đảng,
Nhà nước, đoàn thể chậm được sắp xếp lại cho tinh giản và nâng cao chất lượng, còn
nhiều biểu hiện quan liêu, vi phạm quyền dân chủ của nhân dân. Công tác tuyển chọn,
bồi dưỡng, thay thế, trẻ hóa, chuẩn bị cán bộ kế cận còn lúng túng, chậm trễ. Năng lực
và phẩm chất của đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị chưa tương ứng với yêu cầu
của nhiệm vụ. Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, tha hóa
về phẩm chất đạo đức, sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở Đảng chưa cao.
Hệ thống chính trị ở cơ sở hiện nay còn nhiều mặt yếu kém, bất cập trong công
tác lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực hiện và vận động quần chúng. Tình trạng tham
nhũng, quan liêu, mất đoàn kết nội bộ, vừa vi phạm quyền làm chủ của dân, vừa
không giữ đúng kỷ cương, phép nước xảy ra ở nhiều nơi, có những nơi nghiêm trọng.
Chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong hệ thống chính trị chưa được xác định
rành mạch, trách nhiệm không rõ, nội dung và phương thức hoạt động chậm đổi mới,
còn nhiều biểu hiện của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Đội ngũ cán bộ cơ sở ít
được đào tạo, bồi dưỡng chính sách đối với cán bộ cơ sở còn chắp vá.
Để tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở, từ nay
đến năm 2005, cần tập trung giải quyết mấy vấn đề cơ bản và bức xúc sau đây:
Một là, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức trong hệ thống
chính trị, đồng thời xây dựng mối quan hệ đoàn kết, phối hợp giữa các tổ chức dưới sự
lãnh đạo của Đảng bộ, chi bộ cơ sở; đổi mới nội dung và phương thức hoạt động
hướng vào phục vụ nhân dân, sát với dân, được dân tin cậy.
Hai là, thực hành dân chủ thực sự trong nội bộ các tổ chức của hệ thống chính
trị ở cơ sở theo nguyên tắc tập trung dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân
trên cơ sở thực hiện quyền dân chủ trực tiếp, phát huy quyền làm chủ đại diện, quy
định cụ thể việc thực hiện quyền của dân giám sát tổ chức và cán bộ ở cơ sở và kịp
thời thay thế người không đủ tín nhiệm. Phát huy dân chủ phải đi liền với củng cố và
nâng cao kỷ luật, kỷ cương theo pháp luật.
13
Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở có năng lực tổ chức và vận động nhân
dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận
tụy với dân, biết phát huy sức dân, không tham nhũng, không ức hiếp dân, trẻ hóa đội
ngũ, chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối
với cán bộ cơ sở
Trước yêu cầu mới ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cùng với đổi mới nền kinh tế, từng bước đổi mới
kiện toàn hệ thống chính trị là đòi hỏi khách quan, yêu cầu cấp bách.
Câu 6: Nội dung, phương hướng cơ bản nhằm đổi mới, kiện toàn hệ thống
chính trị?
.co
m
Trả lời:
Th
ic
hu
ye
nv
ie
nc
hi
nh
Việc đổi mới hệ thống chính trị phải hướng vào việc thực hiện mục tiêu chủ
yếu là nhằm thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân.
1. Đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo của Đảng.
Để thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng trong tình hình mới, cần tập trung làm
tốt những vấn đề sau:
Một là, nâng cao nhận thức và thực hiện đúng vai trò hạt nhân chính trị và
trình độ lãnh đạo của tổ chức Đảng ở các cấp để phát huy tính chủ động, sáng tạo và
tinh thần trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị trong việc thực hiện
đường lối của Đảng.
Hai là, đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng cần nâng cao nhận thức và có
quan niệm đúng đắn về sự lãnh đạo toàn diện của Đảng. Trước hết là việc đổi mới,
việc ra Nghị quyết và chỉ đạo thực hiện các Nghị quyết của Đảng. Phát huy dân chủ
trong sinh hoạt Đảng, giữ vững đoàn kết thống nhất trong Đảng. Tăng Cường công tác
kiểm tra, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc; tăng
cường công tác giáo dục rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng của cán
bộ, đảng viên của Đảng…
2. Đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước.
Để Nhà nước làm nhiệm vụ quản lý và lãnh đạo xã hội, cần làm tốt một số vấn
đề sau:
- Phát huy mạnh mẽ vai trò của hệ thống chính quyền Nhà nước trong việc mở
rộng và thực hiện dân chủ, cụ thể hóa phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra.
- Chăm lo xây dựng, kiện toàn bộ máy của Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở,
có cơ cấu gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả, đội ngũ cán bộ Có phẩm chất và năng lực
với tinh thần trách nhiệm cao. Hoạt động của cơ quan nhà nước phải đặt nhiệm vụ
14
- Xem thêm -