Đăng ký Đăng nhập

Tài liệu Giáo trìnhtriết học giáo dục

.DOC
158
241
88

Mô tả:

LỜI NÓI ĐẦU Thuật ngữ "Triết học giáo dục" hiện còn ít gặp trong các tài liệu giáo dục học Việt Nam. Ở các nước Asean và các nước khác trên thế giới, thuật ngữ "triết học giáo dục" chẳng những được sử dụng rộng rãi trong các tài liệu sư phạm, mà còn đi khá sâu vào cuộc sống nhà trường. Các thầy giáo luôn luôn quan tâm tới cơ sở triết học khi tiến hành những hoạt động giáo dục cụ thể. Tại các trường phổ thông "Cơ sở triết học của công tác giáo dục" thường được ghi lên bảng và đặt ở vị trí trang trọng trước tiền sảnh, như là một khẩu hiệu, một tư tưởng chỉ đạo mọi hoạt động của nhà trường. Sự nghiên cứu triết học giáo dục là hết sức cần thiết, vì nó tìm hiểu các vấn đề giáo dục trên bình diện rộng và ở tầm cao của lý luận, cho phép đi sâu vào bản chất của các hiện tượng giáo dục, do đó đề xuất đúng những vấn đề then chốt, đúng trọng tâm là chìa khoá để giải quyết thành công các vấn đề giáo dục. Triết học giáo dục bảo đảm tính hệ thống, tính nhất quán của các hoạt động giáo dục. Nếu không có một triết học giáo dục vững vàng thì giáo dục sẽ vận động trong vòng luẩn quẩn, không phát triển lên được. Nghiên cứu triết học giáo dục là một công việc quan trọng và to lớn đòi hỏi sự nỗ lực lâu dài và công sức của nhiều người. Với lòng mong muốn góp phần khiêm tốn của mình vào việc xây dựng lý luận giáo dục học Việt Nam, chúng tôi mạnh dạn cho ra mắt bạn đọc cuốn "Tìm hiểu triết học giáo dục Việt Nam". Cuốn sách gồm 5 chương: Chương I "MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG" trình bày một số định nghĩa, đối tượng, các khái niệm và phạm trù cơ bản, phương pháp nghiên cứu, và trả lời câu hỏi Việt Nam có triết học và triết học giáo dục không? Chương II "TRIẾT HỌC GIÁO DỤC ĐÔNG VÀ TÂY" giới thiệu tư tưởng triết học của một số nhà giáo dục lớn trong lịch sử, giới thiệu hai giáo trình "Triết học giáo dục" của Trung Quốc xuất bản trong những năm gần đây và nêu nên một số vấn đề triết học giáo dục đang được quan tâm hiện nay. Chương III "TRIẾT LÝ GIÁO DỤC VIỆT NAM THỜI PHONG KIẾN" đã hệ thống hoá triết lý giáo dục truyền thống qua ca dao, tục ngữ, qua hệ thống nhà trường và qua tìm hiểu tư tưởng của các nhà giáo dục lớn. Đặc biệt, triết lý giáo dục truyền thống đựơc phản ảnh trong ca dao, tục ngữ đã được hệ thống hoá qua các phạm trù giáo dục học cơ bản như: mục đích học tập; vị trí, vai trò của giáo dục, nguyên tắc, nội dung, phương pháp dạy học, thầy giáo, gia đình, môi trường giáo dục... Chương IV "TRIẾT HỌC GIÁO DỤC VIỆT NAM TỪ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM ĐẾN NAY" đã giới thiệu các quan điểm, tư tưởng giáo dục của Đảng dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và một số vấn đề cụ thể của triết học giáo dục, như cấu trúc quá trình giáo dục và hệ thống giáo dục quốc dân. Ở đây đã phân tích các mâu thuẫn, các mối quan hệ của quá trình giáo dục; đồng thời đã trình bày cơ chế, động lực và một số biện pháp hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân. Chương V "MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẤP THIẾT" trình bày vấn đề chất lượng giáo dục và đổi mới tư duy giáo dục là những vấn đề quan trọng nhất hiện nay để đưa giáo dục Việt Nam lên một TẦM CAO MỚI. Những tư tưởng phương pháp luận khoa học hiện đại như quan điểm tiếp cận phức hợp, quan điểm hệ thống cấu trúc... đã được vận dụng để nghiên cứu các vấn đề cơ bản của dạy học và giáo dục, thí dụ: cấu trúc tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh, cấu trúc quá trình dạy học - giáo dục, đổi mới tư duy giáo dục... Cuốn sách đã sử dụng kết quả của đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ (B2003 - 49 - 57) do tác giả làm chủ nhiệm và TS. Phạm Thị Kim Anh làm thư ký như một tài liệu chính. Mặc dầu đã hết sức cố gắng, cuốn sách mới là sự tìm hiểu bước đầu triết học giáo dục Việt Nam. Chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với lãnh đạo Viện chiến lược và Chương trình giáo dục, nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội, các nhà khoa học và bạn bè gần xa đã dành cho chúng tôi sự giúp đỡ quí báu để ra đời cuốn sách này.
1 LỜI NÓI ĐẦU Thuật ngữ "Triết học giáo dục" hiện còn ít gặp trong các tài liệu giáo dục học Việt Nam. Ở các nước Asean và các nước khác trên thế giới, thuật ngữ "triết học giáo dục" chẳng những được sử dụng rộng rãi trong các tài liệu sư phạm, mà còn đi khá sâu vào cuộc sống nhà trường. Các thầy giáo luôn luôn quan tâm tới cơ sở triết học khi tiến hành những hoạt động giáo dục cụ thể. Tại các trường phổ thông "Cơ sở triết học của công tác giáo dục" thường được ghi lên bảng và đặt ở vị trí trang trọng trước tiền sảnh, như là một khẩu hiệu, một tư tưởng chỉ đạo mọi hoạt động của nhà trường. Sự nghiên cứu triết học giáo dục là hết sức cần thiết, vì nó tìm hiểu các vấn đề giáo dục trên bình diện rộng và ở tầm cao của lý luận, cho phép đi sâu vào bản chất của các hiện tượng giáo dục, do đó đề xuất đúng những vấn đề then chốt, đúng trọng tâm là chìa khoá để giải quyết thành công các vấn đề giáo dục. Triết học giáo dục bảo đảm tính hệ thống, tính nhất quán của các hoạt động giáo dục. Nếu không có một triết học giáo dục vững vàng thì giáo dục sẽ vận động trong vòng luẩn quẩn, không phát triển lên được. Nghiên cứu triết học giáo dục là một công việc quan trọng và to lớn đòi hỏi sự nỗ lực lâu dài và công sức của nhiều người. Với lòng mong muốn góp phần khiêm tốn của mình vào việc xây dựng lý luận giáo dục học Việt Nam, chúng tôi mạnh dạn cho ra mắt bạn đọc cuốn "Tìm hiểu triết học giáo dục Việt Nam". Cuốn sách gồm 5 chương: Chương I "MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG" trình bày một số định nghĩa, đối tượng, các khái niệm và phạm trù cơ bản, phương pháp nghiên cứu, và trả lời câu hỏi Việt Nam có triết học và triết học giáo dục không? Chương II "TRIẾT HỌC GIÁO DỤC ĐÔNG VÀ TÂY" giới thiệu tư tưởng triết học của một số nhà giáo dục lớn trong lịch sử, giới thiệu hai giáo trình "Triết học giáo dục" của Trung Quốc xuất bản trong những năm gần đây và nêu nên một số vấn đề triết học giáo dục đang được quan tâm hiện nay. 2 Chương III "TRIẾT LÝ GIÁO DỤC VIỆT NAM THỜI PHONG KIẾN" đã hệ thống hoá triết lý giáo dục truyền thống qua ca dao, tục ngữ, qua hệ thống nhà trường và qua tìm hiểu tư tưởng của các nhà giáo dục lớn. Đặc biệt, triết lý giáo dục truyền thống đựơc phản ảnh trong ca dao, tục ngữ đã được hệ thống hoá qua các phạm trù giáo dục học cơ bản như: mục đích học tập; vị trí, vai trò của giáo dục, nguyên tắc, nội dung, phương pháp dạy học, thầy giáo, gia đình, môi trường giáo dục... Chương IV "TRIẾT HỌC GIÁO DỤC VIỆT NAM TỪ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM ĐẾN NAY" đã giới thiệu các quan điểm, tư tưởng giáo dục của Đảng dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và một số vấn đề cụ thể của triết học giáo dục, như cấu trúc quá trình giáo dục và hệ thống giáo dục quốc dân. Ở đây đã phân tích các mâu thuẫn, các mối quan hệ của quá trình giáo dục; đồng thời đã trình bày cơ chế, động lực và một số biện pháp hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân. Chương V "MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẤP THIẾT" trình bày vấn đề chất lượng giáo dục và đổi mới tư duy giáo dục là những vấn đề quan trọng nhất hiện nay để đưa giáo dục Việt Nam lên một TẦM CAO MỚI. Những tư tưởng phương pháp luận khoa học hiện đại như quan điểm tiếp cận phức hợp, quan điểm hệ thống cấu trúc... đã được vận dụng để nghiên cứu các vấn đề cơ bản của dạy học và giáo dục, thí dụ: cấu trúc tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh, cấu trúc quá trình dạy học - giáo dục, đổi mới tư duy giáo dục... Cuốn sách đã sử dụng kết quả của đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ (B2003 - 49 - 57) do tác giả làm chủ nhiệm và TS. Phạm Thị Kim Anh làm thư ký như một tài liệu chính. Mặc dầu đã hết sức cố gắng, cuốn sách mới là sự tìm hiểu bước đầu triết học giáo dục Việt Nam. Chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đối với lãnh đạo Viện chiến lược và Chương trình giáo dục, nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội, các nhà khoa học và bạn bè gần xa đã dành cho chúng tôi sự giúp đỡ quí báu để ra đời cuốn sách này. Tác giả GS. TSKH. Thái Duy Tuyên 3 Chương I MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG 1. Một số định nghĩa 1.1. Triết học là một khái niệm khó và có nhiều định nghĩa. Theo người Trung Quốc thuật ngữ triết học có gốc ngôn ngữ là chữ viết ( ) với chữ hình tượng này người Trung Quốc hiểu triết học không phải là sự mô tả mà là sự truy tìm bản chất của đối tượng, triết học chính là trí là sự hiểu biết sâu sắc của con người. Theo tiếng Ấn, triết học là darshana, có nghĩa là chiêm ngưỡng mang hàm ý là trí thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến lẽ phải. Theo tiếng Hy Lạp, triết học là Philosophia, nghĩa là yêu mến sự thông thái, thể hiện khát vọng tìm kiếm chân lý của con người. Triết học ra đời rất sớm (khoảng từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ VI trước công nguyên) ở các phương Đông và phương Tây. Qua nhiều thế kỷ, nhiều thời đại và vùng miền khác nhau triết học đã phát triển vô cùng đa dạng và ngày nay đã đạt tới trình độ cao. Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về triết học, nhưng nhìn chung đều có những điểm giống nhau như: Nghiên cứu thế giới dưới một dạng chỉnh thể, trên bình diện rộng, trong mối quan hệ nhiều chiều; Tìm những qui luật chung nhất chi phối sự vận động của chỉnh thể đó; Thể hiện nó một cách hệ thống dưới một dạng duy lý. Ở Việt Nam, triết học thường được hiểu qua một số định nghĩa sau đây: - Triết học là một hình thái ý thức xã hội, là thế giới quan, là hệ thống tư tưởng và quan điểm đối với thế giới và vị trí của con người trong thế giới. - Triết học là một khoa học nghiên cứu các quy luật chung nhất của sự phát triển tự nhiên, xã hội và tư duy. - Triết học là phương pháp luận chung của nhận thức khoa học. 4 Xuất phát từ thực tiễn xã hội, triết học có tác dụng tích cực đến tồn tại xã hội, có khả năng hình thành những tư tưởng mới, những chuẩn mực và giá trị văn hoá mới. 1.2. Triết học giáo dục là một lĩnh vực khoa học nghiên cứu và vận dụng các phương pháp triết học để giải quyết các vấn đề về giáo dục, là những nguyên tắc phương pháp luận chủ yếu và chung nhất làm cơ sở cho việc nghiên cứu khoa học và cải tạo thực tiễn giáo dục. Là một bộ phận của triết học, triết học giáo dục phải bảo đảm một số tính chất sau đây khi nghiên cứu các vấn đề giáo dục: - Tính bản chất: Nó phải tìm tòi, phát hiện những vấn đề bản chất của đối tượng nghĩa là những nội dung bên trong quan trọng nhất, những cái gốc gác, cội nguồn như cấu trúc, qui luật, những mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của đối tượng. - Tính phổ quát: Nghĩa là phải nghiên cứu đối tượng dưới một dạng tổng thể với một phạm vi và qui mô rộng lớn, trong mối quan hệ nhiều chiều. - Tính nhất quán: bảo đảm tính hệ thống và chặt chẽ về mặt logic trong tất cả các khâu của quá trình lập luận. - Tính qui luật: đảm bảo nghiên cứu đối tượng trong dạng luôn luôn vận động và biến đổi... - Trình bày vấn đề dưới một dạng lý luận có hệ thống, cô đọng và duy lý. Mục đích của triết học giáo dục là xác định được những quan điểm chủ yếu và lí giải được các vấn đề giáo dục một cách đúng đắn, rõ ràng, nhất quán và hệ thống nhằm nâng cao chất lượng lí luận giáo dục, góp phần cải tạo thực tiễn giáo dục. Để làm được điều đó, các nhà triết học giáo dục thường phải đi theo hai con đường. a. Phân tích luận điểm của các nhà triết học lớn trong quá khứ, vì vậy có nhiều phần trùng với lịch sử giáo dục. Việc nghiên cứu lịch sử triết học, tìm kiếm những mâu thuẫn giữa lôgíc và lịch sử trên cơ sở đối chiếu với hiện 5 tại để rút ra những bài học kinh nghiệm sẽ làm cho các vấn đề lí luận hiện đại có độ tin cậy cao hơn. b. Khảo sát thực tiễn, làm rõ mối liên hệ giữa lí thuyết và thực tiễn, quan tâm đặc biệt tới việc tìm kiếm các con đường ứng dụng lí luận vào thực tiễn, sao cho các quan điểm triết học giáo dục đi vào quần chúng, được những người bình thường như các bà nội trợ, người công nhân, người nông dân chấp nhận và vận dụng việc dạy dỗ con cái họ trong cuộc sống hàng ngày. 1.3. Triết lý giáo dục: Trong ngôn ngữ Việt Nam, ngoài triết học người ta thường hay dùng thuật ngữ triết lý. Vậy triết lý là gì? Theo từ điển tiếng Việt, triết lý là: Quan điểm chung của con người về những vấn đề nhân sinh và xã hội. Theo từ điển Hán Việt, triết lý là: Lí luận về triết học (triết = trí, lý = lẽ). Từ đó chúng ta có thể hiểu: Triết lý là những quan điểm được khái quát từ cuộc sống, nhằm chỉ đạo sự suy nghĩ và hành động của con người. Triết lý giáo dục là những quan điểm phản ánh những vấn đề của giáo dục thông qua con đường trải nghiệm từ cuộc sống để chỉ đạo sự suy nghĩ và hành động của con người về các vấn đề giáo dục. Như vậy, triết lý và triết học có sự tương đồng với nhau, nhưng triết lý thường đề cập tới một vấn đề cụ thể, còn triết học là một khoa học, được xây dựng từ một hệ thống tư tưởng, quan điểm với các khái niệm, phạm trù, đối tượng và phương pháp riêng... Trong thực tiễn, để điều hành, lãnh đạo một sự nghiệp hay một lĩnh vực nào đó không phải chỉ bằng những triết lý cụ thể mà phải bằng hệ thống những định hướng tư tưởng và định hướng khoa học mang tầm triết học. Do vậy, vai trò của triết lý và triết học giáo dục có tầm quan trọng trong sự nghiệp phát triển giáo dục, vì nó là những tư tưởng cốt lõi tạo nên bản sắc cho sự phát triển bền vững của nền giáo dục; là công cụ định hướng cho nhận thức và hành động; là phương tiện, cách thức để tiến hành các hoạt động Giáo dục của con người. 2. Đối tượng của triết học giáo dục Triết học giáo dục nghiên cứu gì? Đó là một trong những câu hỏi cần được tìm hiểu đầu tiên. 6 Đối tượng nghiên cứu của một khoa học nói chung là lĩnh vực, là một miền của thực tiễn khách quan mà khoa học đó nghiên cứu. Qua nghiên cứu lịch sử, phân tích thực trạng và yêu cầu xây dựng đối với giáo dục, có thể xác định đối tượng của triết học giáo dục Việt Nam là hệ thống những tư tưởng quan điểm cơ bản nhất để giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn giáo dục trên cơ sở nghiên cứu quá trình hình thành nhân cách và hệ thống giáo dục quốc dân trong dạng chỉnh thể. Để làm được điều đó cần phải tiến hành những việc cụ thể sau đây: - Nghiên cứu lịch sử triết học giáo dục thế giới. Hệ thống tri thức về triết học giáo dục mà loài người để lại rất đồ sộ. Cần phải nghiên cứu, phát triển nó vì cái quá khứ luôn luôn liên hệ với cái hiện tại và tương lai. Tuy nhiên, cần lựa chọn vấn đề nghiên cứu và tập trung vào một số hướng chính như: + Lịch sử giáo dục cổ đại Trung Hoa, Châu Á và Châu Âu. + Lịch sử giáo dục Châu Âu thời kỳ Phục Hưng và Ánh sáng (thế kỷ XVI, XVII, XVIII...). + Lịch sử giáo dục CNXH. - Lịch sử tư tưởng giáo dục Việt Nam thời phong kiến và thời Pháp thuộc: Mặc dầu phải chịu ảnh hưởng nhiều của tư tưởng giáo dục phong kiến Trung Hoa, nhưng dưới ảnh hưởng của văn hoá Việt Nam, tư tưởng giáo dục Việt Nam thời phong kiến đã tiếp thu Khổng giáo một cách có chọn lọc, sáng tạo và mang bản sắc riêng. Đó là điều cần được nghiên cứu, hệ thống hoá và phát triển. - Triết học giáo dục Việt Nam hiện đại (từ cách mạng tháng 8 đến nay). Từ ngày cách mạng tháng 8/1945 thành công, nền giáo dục Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ dưới ánh sáng của những tư tưởng triết học giáo dục mới. Việc phân tích, hệ thống hoá, rút ra những bài học kinh nghiệm từ việc vận dụng chúng trong việc xây dựng lý luận và cải tạo thực tiễn nhà trường có 7 ý nghĩa quan trọng đặc biệt cho giai đoạn hiện nay. Cụ thể phải tiến hành những việc cụ thể sau đây: + Nghiên cứu các quan điểm, đường lối giáo dục của Đảng và tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh. + Nghiên cứu các thành tựu mới của KHGD thế giới và kết quả vận dụng vào Việt Nam. Ngoài ra, còn cần tìm hiểu văn hoá và con người Việt Nam truyền thống và hiện dại, vì không hiểu văn hoá và con người Việt Nam thì cũng không hiểu được các vấn đề cội nguồn của giáo dục. 3. Các khái niệm và phạm trù cơ bản. Khi nói đến hệ thống tri thức một khoa học thì thành phần cơ bản và quan trọng nhất phải kể đến là các khái niệm và phạm trù. Khái niệm là hình thức của tư duy phản ánh những mặt, những thuộc tính cơ bản của một lớp những sự vật hay hiện tượng nhất định của hiện thực khách quan. Khái niệm rộng nhất là được gọi là phạm trù. Sau đây là một số khái niệm phạm trù cơ bản của triết học giáo dục mà ta thường gặp: - Vật chất, ý thức, vận động, phát triển, mâu thuẫn, động lực..; - Phương pháp luận, hệ thống, cấu trúc, mô hình, di truyền, lịch sử...; - Số lượng, chất lượng, khách quan, chủ quan, nguyên nhân, kết quả...; - Nhân cách, quá trình hình thành và phát triển nhân cách, nhân tố xã hội, nhân tố sinh học...; - Lý tưởng, niềm tin, giá trị, định hướng giá trị, hệ thống giá trị xã hội...; - Thầy giáo, học sinh, nhà trường, sách giáo khoa, thiết bị dạy học...; - Giáo dục, giáo dưỡng, dạy học, quá trình giáo dục, quá trình dạy học, hoạt động, giao lưu, sư phạm, năng lực sư phạm, đào tạo...; - Mục đích, nội dung, phương pháp, phương tiện, kết quả...; - Đức dục, trí dụ, thể dục, mỹ dục...; 8 - Hệ thống giáo dục quốc dân, công bằng và dân chủ trong giáo dục, nguyên lý giáo dục, phổ cập giáo dục, xã hội hoá giáo dục, môi trường giáo dục... - Giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và sau đại học...; - Giáo dục thường xuyên, giáo dục chính qui, không chính qui, quốc lập, tư thục...; Đấy là một số khái niệm và phạm trù chung nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến nhất của các vấn đề giáo dục nói chung. Trong số các khái niệm và phạm trù trên đây thì cần lưu ý đến một số khái niệm và phạm trù đặc biệt quan trọng như: nhân cách, quá trình hình thành và phát triển nhân cách, quá trình giáo dục, quá trình dạy học, hệ thống giáo dục quốc dân.. 4. Phương pháp Triết học giáo dục nghiên cứu, các vấn đề giáo dục trong một dạng chỉnh thể và đưa ra một hệ thống các quan điểm, các giải pháp về chỉnh thể đó. Trong quá trình nghiên cứu, triết học giáo dục luôn luôn quan tâm tới các mối liên hệ giữa các yếu tố của quá trình giáo dục, của hệ thống giáo dục quốc dân, sự tác dụng tương hỗ và nhiều chiều giữa chúng, và giữa chúng với môi trường kinh tế - xã hội. Đồng thời, triết học giáo dục luôn luôn xem xét đối tượng trong dạng vận động và biến đổi, và giải thích các vấn đề giáo dục chủ yếu bằng lý luận. 5. Việt Nam có triết học và triết học giáo dục không? Trên đây ta đã trình bày: Khái niệm triết học giáo dục, đối tượng, các phạm trù, phương pháp của triết học giáo dục. Để kết thúc mục "Những vấn đề chung" cần bàn tới một vấn đề mà nhiều người quan tâm: Việt Nam có triết học và hơn thế có triết học giáo dục không? Nếu tìm trong sách vở và các tài liệu Việt Nam, thì trong lịch sử chưa hề có một cuốn sách nào về triết học và triết học giáo dục. Đến các nhà tư 9 tưởng, nhà giáo dục lớn của phương Đông và của cả loài người như Khổng Tử cũng không có cuốn sách nào về triết học giáo dục. Ngày nay người ta thường nói triết học Phương Đông, triết học của Khổng Tử..., nhưng, thật ra đó là thứ triết học vô ngôn. Nó có thật, nó nằm trong lòng dân, đã được ông cha ta hình thành và phát triển qua hàng ngàn năm lịch sử, nó chỉ đạo các hoạt động thực tiễn để xây dựng đất nước như ngày nay. - Hơn nữa, mọi người đều biết Việt Nam là một nước văn hiến với trên 4.000 năm lịch sử. Trong quá trình dựng nước, dân tộc ta đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm: trên một ngàn năm rên xiết dưới gông xiềng nô lệ, nhưng cũng đã có những trang sử hào hùng: phá Tống, bình Nguyên, diệt Ngô, dẹp Thanh... và gần đây chiến thắng đế quốc Pháp, Mĩ; trong đó quân xâm lược Nguyên Mông và đế quốc Mĩ là những kẻ thù lớn mạnh và hung hãn nhất trong lịch sử loài người. Một dân tộc anh hùng và kiên cường như thế, ngoài lòng yêu nước tha thiết, phải có một triết lý vô cùng sâu sắc và bền vững đối với việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đối với dân tộc và cộng đồng. Cái triết lý đó đã được phản ánh qua nhiều mặt trong nền văn hoá Việt Nam, đặc biệt qua một số văn kiện và tác phẩm văn học như: Hịch tướng sĩ văn, Bình Ngô đại cáo, truyện Kiều, Tuyên ngôn độc lập... Cái triết lý đó đã được vận dụng và trải nghiệm thành công qua chiều dài lịch sử dân tộc. Nhưng, cái triết lý đó chưa được hệ thống hoá trong những tác phẩm triết học lớn. Đó là nhiệm vụ đặt ra cho các nhà khoa học Việt Nam hiện tại và tương lai, đó là trách nhiệm mà cha ông ta giao cho hậu thế. Trong giáo dục cũng vậy, mặc dầu nền giáo dục đất nước đã được hình thành và phát triển sớm, mặc dầu dân tộc ta đã sản sinh ra nhiều thầy giáo giỏi như: Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm... nhưng những tác phẩm về triết học giáo dục có hệ thống chưa xuất hiện. Nói tóm lại, ông cha ta đã vận dụng triết học để giải quyết thành công các vấn đề thực tiễn, nhưng chưa biên soạn được những tác phẩm lí luận lớn và có hệ thống. Đó cũng là một hiện tượng thông thường trong quá trình phát triển của khoa học tự nhiên cũng như khoa học xã hội trên thế giới. Thí dụ, 10 loài người biết đi tắt từ lâu rồi sau đó toán học mới nêu lên: đường thẳng là ngắn nhất; con người biết đưa nước từ ruộng cao đến ruộng thấp từ lâu, rồi vật lí học mới phát hiện ra nguyên tắc bình thông nhau; thuyền bè được con người cổ đại dùng lâu rồi mới tìm ra định luật Acsimét... Trong triết học cũng vậy, các nhà triết học Hi Lạp cổ đại khai sinh ra triết học "không phải trong văn phòng đầy giấy tờ, mà ở ngoài trời, dưới ánh nắng, khi mà sau những buổi luyện tập mệt nhọc, những người trẻ tuổi đứng quây quần ở góc sân vận động để trò chuyện với Socrate về cái thiện và chân lí", "Trong số những người trò chuyện với Socrate có Platon, Aristote..."1 Để xây dựng nền triết học giáo dục Việt Nam, việc tổng kết đúc rút kinh nghiệm xây dựng nhà trường trong mấy chục năm qua là vô cùng quan trọng. Nghiên cứu lịch sử triết học giáo dục thế giới cũng là vấn đề cần thiết, nhưng đây là một vấn đề rất rộng lớn, đòi hỏi nhiều thời gian, công sức và tiền của. Vì vậy, cần lựa chọn những vấn đề lịch sử có tính định hướng và mang lại hiệu quả thiết thực. 1 E.Hazan. Tư tưởng sư phạm. Bản dịch: Lê Thanh Hoàng Dân, NXB Trẻ, Sài Gòn, 1972. Tr.12. 11 Chương II TRIẾT HỌC GIÁO DỤC ĐÔNG VÀ TÂY Nảy sinh và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người, giáo dục là một hiện tượng xã hội phổ biến và vĩnh hằng. Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, các tư tưởng giáo dục khác nhau được nảy sinh không chỉ trên những điều kiện kinh tế xã hội đương thời phản ánh trình độ phát triển khác nhau của xã hội, mà còn được nảy sinh trên những quan điểm triết học, thế giới quan nhất định. Việc nghiên cứu cơ sở triết học của giáo dục có ý nghĩa to lớn về phương pháp luận trong quá trình nghiên cứu giáo dục và giáo dục học. Nó giúp chúng ta hiểu biết sâu sắc hơn và toàn diện hơn các tư tưởng giáo dục trong lịch sử, từ đó giúp chúng ta tiếp thu, kế thừa và phát triển một cách sáng tạo các tư tưởng giáo dục tiến bộ, các thành tựu và kinh nghiệm trong lịch sử phát triển giáo dục của nhân loại, góp phần đổi mới lý luận giáo dục học cũng như sự nghiệp giáo dục đất nước. 1. Triết học giáo dục phương Đông - Khổng Tử Từ thời cổ đại, phương Đông đã đóng góp cho loài người nhiều nhà triết học kiệt xuất như: Khổng Tử, Phật Thích ca Mâu Ni, Mặc Tử, Mạnh Tử, Pháp gia và Hàn Phi Tử, Đổng Trọng Thư và thuyết "trời và người hợp nhất".... Ở đây, ta chỉ giới hạn việc tìm hiểu những tư tưởng triết học giáo dục của Khổng Tử, nhằm góp phần tìm kiếm con đường xây dựng tư tưởng triết học giáo dục Việt Nam trong thời kỳ hiện đại. Khổng tử (551 - 479 trước công nguyên) Là nhà giáo dục lớn của phương Đông và của cả loài người. Người ta coi ông là "Vạn thế sư biểu" nghĩa là người thầy của muôn đời. Khi tìm hiểu tư tưởng giáo dục của Khổng Tử, cần hình dung rằng, đó là một xã hội cách ta 26 thế kỷ, với nền nông nghiệp còn ở trình độ thấp. Dẫu là một nhà tư tưởng, sư phạm kiệt xuất của loài người, Khổng Tử cũng không thể có được những kiến thức về nhận thức luận, về mô hình nhân cách, về quá trình giáo dục...như chúng ta ngày nay. 12 Cho nên, khi nói đến mục đích, mục tiêu, nội dung, phương pháp... là chúng ta đã hiện đại hoá nó đi theo kiểu suy nghĩ của chúng ta ngày nay cho dễ hiểu, dễ nhớ, dễ sử dụng... nhưng nhiều điểm không thể tìm được những khái niệm tương đồng. Mặt khác, qua chiều dài lịch sử, những tài liệu do Khổng Tử biên soạn đã bị mất mát, thất lạc rất nhiều. Nhiều phần bị cắt xén, thay đổi, bổ sung... theo sự thăng trầm của lịch sử. Đối với người Việt Nam, những tư tưởng giáo dục của Khổng Tử ít nhất cũng bị khúc xạ bốn lần trong lịch sử: Nho giáo của Khổng Tử: Dưới chế độ phong kiến phân quyền (190). Hán nho: là đạo Nho dưới chế độ quân chủ chuyên chế tuyệt đối và cực thịnh. Từ năm 140 trước Công nguyên, Hán Vũ Đế nghe lời Đổng Trọng Thư mở khoa thi, cái học lấy thi cử làm mục đích bắt đầu từ đó. Nho học trở thành độc tôn. Thuyết "Trời và người hợp nhất", "Tam cương," "Tam tòng" ra đời từ đó. Đường nho:chuyển cái học về phía thơ phú, văn chương. Tống nho: xây dựng lại Nho giáo bằng cách kết hợp với Phật giáo và Đạo giáo. Nho giáo Việt Nam: Khổng giáo đi vào Việt Nam đã bị khúc xa đi dưới ảnh hưởng của văn hoá Việt Nam. Mục đích dạy học của Khổng Tử: điều mà Không Tử mong muốn là xây dựng một xã hội ổn định và hoà mục. Muốn thế, một người làm quan cai trị dân, người quân tử phải có phẩm chất đẹp là: Nhân và Lễ phải luôn rèn luyện mình. Chữ Nhân của Khổng Tử không chỉ là lòng nhân ái mà có ý nghĩa rất rộng lớn. Chữ Lễ, cũng có nghĩa rất rộng, trong nghĩa hẹp có thể hiểu là giữ đúng vị trí, tôn ti, phép tắc, kỉ cương... Trong tư tưởng của Khổng Tử, Nhân và Lễ gắn bó chặt chẽ với nhau và là cái phẩm chất cốt lõi của người quân tử. 13 Hai chữ Nhân và Lễ tuỳ trường hợp cụ thể mà được hiểu khác nhau và được mở rộng ra như: Biết nhường nhịn anh em là Đễ; Biết thương yêu, kính trọng cha mẹ là Hiếu; Giữ lời hứa với bạn bè là Tín; Làm hết sức mình trước sau như một gọi là Trung; Làm theo lẽ phải đối với mọi người là Nghĩa; Có cách ứng xử thích hợp trong những trường hợp khó khăn là Trí; Biết cách tự kiềm chế, không tham lam là Liêm; Biết xấu hổ trước mọi hành động sai trái là Sĩ Trang bị những phẩm chất này ở mỗi con người là điều vô cùng quan trọng cho mọi xã hội. Con người không có những phẩm chất này không thể xây dựng một xã hội hoà mục được. Bảy thế kỷ trước công nguyên, Quản Trọng đã nói: "Lễ, Nghĩa, Liêm, Sĩ là bốn dây giằng của nước. Mất nó nước bị diệt vong". Như vậy, có thể thấy rằng, mô hình nhân cách người quân tử chỉ dừng lại trong mối quan hệ người - người. Theo cách hiểu của chúng ta ngày nay, điều đó có nghĩa là chỉ mới xét đến mặt phẩm chất của nhân cách. Còn quan hệ giữa con người và công việc, con người và tự nhiên, nghĩa là mặt năng lực hầu như chưa được xét đến. - Đối tượng Học thuyết Nho giáo chỉ dành cho một số ít người gọi là quân tử. Đây là điều cần lưu ý khi muốn vận dụng các bài học của Nho giáo vào điều kiện phổ cập giáo dục ngày nay. - Nguyên lý tu thân Nguyên lý xuyên suốt tư tưởng của Khổng học, tạo nên tính nhất quán, tức tính triết học của Khổng Tử là ở chữ "Thứ". "Thứ" là điều gì mình muốn cho mình thì làm điều ấy cho người khác, điều gì mình không muốn cho mình thì đừng làm cho người khác. Đây là chân lý quán triệt toàn bộ học thuyết của Khổng Tử. 14 - Phương pháp tiếp cận nhận thức và cải tạo thế giới. Nhận thức và cải tạo thế giới như thế nào là điều mà mọi người cần biết, đặc biệt là đối với các nhà nghiên cứu. Về vấn đề này, Tôn Dật Tiên đã có nhận xét như sau: "Chúng ta cho rằng các nước Âu Mỹ gần đây rất tiến bộ. Nhưng văn hoá mới của họ thì không được hoàn thiện như triết học chính trị của chúng ta. Trung Quốc có một câu nói về triết học chính trị rất có hệ thống, các chính trị gia lớn ở nước ngoài chưa ai nhìn được, nói rõ được như vậy. Đó là câu trong sách "Đại học". "Cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Không một nhà triết học, chính trị nào của nước ngoài nhìn thấy được, nói ra được một lý luận triển khai tinh vi đến như vậy. Đây chính là thứ bảo bối đặc biệt vốn có trong tri thức triết học chính trị của chúng ta, cần phải bảo tồn " (Tam dân chủ nghĩa, bài 5) Cách vật là gì? Theo Phan Ngọc thì "Cách vật là tiếp cận sự vật, đến với sự vật bằng giác quan" (172) Trí tri là đồng nghĩa với suy nghĩ Như vậy, việc nhận thức và cải tạo xã hội được trình bày thành một quá trình nhất quán và xuất phát từ chính mình... - Nội dung giáo dục Nội dung trong các sách mà Khổng Tử biên soạn để dạy học đều có từ trước, là học vấn chung của Trung Hoa cổ đại, trong đó vai trò của Chu Công là hết sức quan trọng. Ông đã tóm lược, giải thích, bình luận, bổ sung, sắp xếp lại cho rõ ràng, dễ hiểu thành 5 bộ: Dịch, Thư, Thi, Lễ, Nhạc. Ông nói: "Ta chỉ thuật lại cái Đạo của thánh hiền chứ không tạo tác cái gì". Nhưng thật ra, sự cống hiến, sáng tạo của ông là rất lớn. Ông cũng đã soạn bộ sách Xuân thu để trình bày những tư tưởng chính trị của ông. Như vậy, sách ông soạn có 6 bộ, đời sau gọi là lục kinh để tỏ rõ ý kính trọng. 15 Những sách đó đã bị thất lạc, mất mát nhiều, nhất là nhạc kinh. Các đời sau tập hợp lại, bổ sung, phụ hoạ thêm, nay còn lại 5 kinh là: Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu. Kính thư là bộ sách ghi chép những lời vua tôi dạy bảo, khuyên răn nhau từ thời vua Nghiêu đến thời Đông Chu. Sách này rất có giá trị về mặt sử học, nó cho người đời sau biết sự thay đổi các chế độ, thể lệ, phép tắc, đạo lý, tính cách và cách ăn nói... từ đời nọ đến đời kia, phản ánh sự phát triển của các dân tộc Trung Hoa thời cổ đại. Đến nay, Kinh Thư có cả thảy 59 thiên. Kinh Thi là một bộ sách chép những bài ca, bài đồng giao từ thời thượng cổ đến nhà Chu. Xem Kinh Thi có thể biết được tình hình, phong tục, tập quán và các chính thể thời nhà Chu. Khổng Tử nói: "Đọc sách Thi có thể mở mang được ý chí có thể giúp sự quan sát, xem xét điều hay, điều dở; có thể làm người ta phấn khổi; có thể bày tỏ cái sầu oán mà không gây tức giận. Trong nhà thì biết cách kính yêu cha mẹ, ra ngoài thì biết trung với vua với chúa. Biết nhiều tên các giống chim muông, cây cỏ". Khổng Tử lại nói: "Ba trăm bài trong Kinh Thi thì lấy một lời mà nói trùm cả là: Không nghĩ bậy". Kinh thi cũng bị mất mát nhiều, đến nay còn lại bản của Mao Trường, thường được gọi là Mao Thi. Kinh Lễ là bộ sách chép những quy tắc, lễ nghi để nuôi dưỡng những tình cảm tốt của con người, để giữ cho trật tự xã hội đuợc phân minh và hạn chế cái dục vọng bất chính. Kinh Nhạc là bộ sách Nhạc cổ do Khổng Tử biên soạn lại. Nhạc xưa bao gồm cả nhạc cụ, nhạc khí, múa hát và xướng hoạ, thơ ca. Nhạc và lòng người cảm hoá lẫn nhau: lòng người cảm xúc trước ngoại cảnh mà tạo thành tiếng nhạc; tiếng nhạc rung động lòng người, làm người ta thích thú. Tóm lại, nhạc có thể truyền cảm, ảnh hưởng đến tính chất con người, làm cho con người trở thành thiện hay ác. Do đó, khả năng tính giáo dục của âm nhạc là rất quan trọng. 16 Kinh Xuân Thu: là bộ sách do Khổng Tử sáng tạo theo lối văn làm sử. Nhưng thực chất, đây là một cuốn sách triết học thể hiện các quan điểm chính trị của Khổng Tử. Luận ngữ: Ngoài các Kinh nói trên, nội dung tư tưởng của Khổng Tử còn được thể hiện trong sách Luận ngữ. Đó là cuốn sách do các môn đệ của Khổng Tử biên soạn trên cơ sở sưu tầm lại những lời khuyên dạy học trò hoặc những câu chuyện của ông với các bậc vua chúa, những học giả và người đương thời về các vấn đề triết học, chính trị, nghệ thuật... Sách Luận ngữ dạy người ta cái đạo làm quân tử một cách thực tế. Qua đó cũng biết được tác phong, tình hình, đức độ, trí tuệ của Khổng Tử. Về khoa học sư phạm, qua luận ngữ cũng biết được ông là một nhà sư phạm kiệt xuất, nhạy cảm đối với năng lực và cảnh ngộ học trò, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà xử lý tình huống sư phạm một cách uyển chuyển, dễ hiểu và cảm hoá con người, làm cho học trò hết sức tin yêu, kính phục. Phương pháp giáo dục Ông coi trọng việc: - Tự học, tự luyện, tu nhân... - Phát huy mặt tích cực sáng tạo, phát huy năng lực nội sinh; - Dạy sát đối tượng, cá biệt hoá đối tượng - Kết hợp học và hành, lý thuyết với thực tiễn. - Phát triển hứng thú, động cơ, ý chí của người học Nhìn chung, đó vẫn là những bài học lớn cho nhà trường hiện đại. 2. Triết học giáo dục phương Tây. Qua các thời kỳ lịch sử, các nền văn hoá khác nhau, các tư tưởng quan điểm giáo dục đã xuất hiện rất phong phú và đa dạng. Những vấn đề được các nhà triết học lớn của các thời đại quan tâm là: Bản chất nhận thức, bản chất của tư duy, chân lý, đạo đức, tính thiện, cái đẹp, mục đích cuộc sống... Đó là những vấn đề rất quan trọng ảnh hưởng đến việc xác định bản chất quá trình giáo dục, chức năng, nhiệm vụ, quy luật, động lực, mục đích, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục... 17 Theo khả năng và điều kiện của mình, sau đây chúng tôi xin giới thiệu một số quan niệm của một vài nhà triết học có tên tuổi trong lịch sử và đang có ảnh hưởng tới hiện tại. 2.1. Quan điểm của Platon (427 - 348 trước CN) Platon là người đầu tiên xây dựng một nền giáo dục có hệ thống dưới sự chỉ đạo của một tư tưởng triết học nhất quán, có ảnh hưởng tới nền giáo dục phương Tây trong suốt 24 thế kỷ qua và có lẽ còn ảnh hưởng tới nền giáo dục loài người trong nhiều thế kỷ tới. Để củng cố Nhà nước nô lệ đang hết sức hỗn loạn thời đó, trong tác phẩm "Nền cộng hoà" (the Republic) và "Luật" (Laws) Platon đã đề nghị xây dựng một xã hội ổn định, có kỷ cương và thống nhất, trong đó những người có học vấn cao sẽ cầm quyền. Platon cho rằng, xã hội gồm hai loại người: tự do và nô lệ. Những người tự do được đào tạo theo hệ thống giáo dục như sau: - Trước 7 tuổi giáo dục trong gia đình do người mẹ đảm nhiệm là chủ yếu, gọi là "giáo dục mẫu giáo". - Từ 7 đến 17 tuổi học các môn: đọc, viết, tính toán, thiên văn, địa lý, thể dục và âm nhạc. Những em học kém sẽ bị loại để đi lao động với giới công thương. - Từ 17 đến 20 tuổi các em tiếp tục học: Văn hoá, thể dục, quân sự và triết học. Những em kém lại bị loại để trở thành quân nhân. - Từ 20 đến 30 tuổi lại tiếp tục học những môn lý luận như: Văn học, toán học, thiên văn, lý luận âm nhạc, luật pháp, triết học... để chuẩn bị lớp quan lại làm vịêc trong bộ máy chính quyền của Nhà nước chủ nô. - Những người thông minh đặc biệt sẽ được đào tạo tiếp từ 30 đến 35 tuổi bằng việc nghiên cứu sâu về triết học để đạt được trình độ hiểu biết cao siêu về chân, thiện, mỹ. Trong số này sẽ chọn ra những người xuất sắc nhất đề điều hành Nhà nước chủ nô. Họ chỉ làm việc từ 35 đến 50 tuổi. Sau 50 tuổi sẽ thôi việc quản lý để nghiên cứu lý luận và viết sách. Như vậy, Platon đã dùng một chương trình học tập đòi hỏi cao về trí tuệ để đào thải, sàng lọc, phân loại trẻ trong những giai đoạn khác nhau của quá 18 trình học tập. Qua trình độ học vấn, Platon đã sắp đặt và phân chia các nhóm dân cư trong xã hội một cách hợp pháp. Mô hình này được các nước phương Tây thừa nhận và áp dụng qua nhiều thế kỷ. Nhưng từ thực tiễn có thể thấy rằng, mô hình này chỉ đúng khi đánh giá năng lực nghiên cứu và trình độ học vấn trừu tượng của con người. Nó không đánh giá đúng khả năng thực hành và lao động chân tay là điều rất cần cho cuộc sống của mỗi con người cũng như toàn xã hội. Nó cũng rất hạn chế trong việc đánh giá phẩm chất đạo đức, sự xúc cảm và khả năng hoạt động thực tiễn nói chung. Cách đánh giá con người chỉ dựa vào năng lực tư duy trừu tượng đã làm cho quan niệm chọn nghề bị lệch lạc và ảnh hưởng đến việc đào tạo nguồn nhân lực. 2.2. Quan điểm của Komenxki (1592- 1670) Là nhà giáo Tiệp Khắc yêu nước, là nhà sư phạm lỗi lạc của thế giới, được người đời thừa nhận là "Ông tổ của nền giáo dục cận đại". Cuốn "Lý luận dạy học vĩ đại" (1632) của ông đã đi vào lịch sử như một cái mốc đánh dấu sự ra đời của lý luận giáo dục và nhà trường hiện đại. Không những là một nhà lí luận, ông còn tích cực lao mình vào những hoạt động thực tiễn, viết sách giáo khoa, cải tạo nhà trường vì mục đích cao cả. Quan điểm giáo dục của Komenxki có những điểm đáng chú ý sau đây: Chịu ảnh hưởng lớn quan điểm triết học của Bê-cơn (nhà duy vật Anh thế kỷ XVII), thừa nhận "thuyết duy cảm" cho rằng, cảm giác là nguồn gốc của kiến thức. Trẻ em tri giác thế giới khách quan bằng các giác quan, ý thức của trẻ phản ánh cái tồn tại của thế giới bên ngoài. Từ luận điểm này, ông đã đưa ra nhiều nguyên tắc dạy học, trong đó có "nguyên tắc trực quan" được ông gọi là "nguyên tắc vàng ngọc". Đó là một tư tưởng tiến bộ đương thời và còn là bài học cho các thầy giáo ta hiện nay. - Komenxki cho rằng, con người là một thực thể của tự nhiên, vì vậy việc giáo dục con người phải phù hợp với quy luật tự nhiên. Tư tưởng này quán xuyến toàn bộ tác phẩm "Lý luận dạy học vĩ đại". Các nguyên tắc dạy 19 học và giáo dục mà ông nêu lên luôn luôn được rút ra từ những quy luật chung của tạo hoá, ví dụ: + Tạo hoá luôn luôn quan tâm đến thời gian thích hợp. + Tạo hoá không hành động chồng chéo mà còn phân định và giải quyết phân minh từng việc. + Trong mỗi công việc, tạo hoá bắt đầu từ bên trong. + Tạo hoá khai trương toàn bộ sự sáng tạo của mình bắt đầu từ cái tổng thể rộng nhất và kết thúc bằng những tình tiết chi li nhất. + Tạo hoá phát triển tuần tự từng bước một, không nhảy qua một bước nào. + Tạo hoá bao giờ cũng khởi đầu bằng sự tinh khiết. + Tạo hoá sinh ra mọi vật đều bắt đầu từ những khởi điểm có tầm vóc không đáng kể, nhưng lại có tác dụng to lớn. + Tạo hoá tiến dần từ dễ đến khó. + Tạo hoá làm nảy sinh mọi vật đều từ cội rễ, cội nguồn chứ không phải từ đâu khác. + Tạo hoá vận động liên tục trong quá trình tiến hóa và không bao giờ ngừng. + Tạo hoá gắn bó mọi sự việc với nhau bằng sự liên kết, liên hoàn v.v... Từ những quy luật chung của tạo hoá, ông vận dụng vào công tác giáo dục và rút ra những kết luận bổ ích cho việc lựa chọn nội dung, phương pháp, cách tổ chức quá trình dạy học - giáo dục một cách lí thú và sâu sắc. - Komenxki cho rằng, cần chuẩn bị cho con người vào đời, không những vào cuộc đời tinh thần mà cả vào cuộc sống đời trần thế và xã hội. Vì vậy phải học những cái gì thiết thực, có lợi, phải tìm hiểu thế giới xung quanh, sách vở phải lùi trước thực tế. - Điều đáng lưu ý là nhiều vấn đề do Komenxki đề xuất đã được thừa nhận rộng rãi của xã hội đương thời và tồn tại rất lâu dài với thời gian. Ví dụ: về các giai đoạn học tập, Komenxki phân làm 4 giai đoạn: từ 0 đến 6 tuổi; từ 6 - 12 tuổi; 12 - 18 tuổi; 18 - 20 tuổi. Về cơ bản, vẫn tồn tại đến ngày nay. 20 Về hình thức dạy học, hệ thống bài - lớp được Komenxki đề xuất đầu tiên trong lịch sử. Sau 400 năm đến nay hệ thống bài, lớp vẫn là hình thức dạy học cơ bản nhất trong nhà trường hiện đại của tất cả các nước. - Những nguyên tắc dạy học do Komenxki đề xuất là rất có giá trị, nhưng cần điều chỉnh lại một số vấn đề như mối quan hệ giữa trực quan và trừu tượng. Trực quan chỉ cho phép nhận thức được những biểu hiện bề ngoài của sự vật. Phải phối hợp trực quan và trừu tượng mới cho phép tìm hiểu được bản chất của các sự vật và quá trình. Nhất là trong điều kiện hiện đại, khi đi sâu vào tìm hiểu thế giới vi mô, siêu vĩ mô và những quá trình trừu tượng thì việc tuyệt đối hoá ý nghĩa của trực quan là không thích hợp vì tư duy trừu tượng giữ vai trò vô cùng quan trọng. 2.3. Quan điểm của Lốc - cơ (John Locke 1632 - 1704) Là nhà triết học và giáo dục Anh thế kỷ XVII. Ông là người thừa kế "Thuyết duy cảm" trong trường phái triết học của Bê - cơn và áp dụng vào giáo dục. Ông cho rằng, mọi tri thức của con người đều rút ra từ cảm giác, từ kinh nghiệm sống. Tâm trí ta là một tờ giấy trắng chờ đợi ghi vào mọi thứ chữ. Khoái cảm và đau đớn là hai cảm giác đưa ta đến ý niệm về cái lợi và cái hại, cái được phép, cái cấm kỵ Quan điểm triết học này của ông đã được vận dụng vào việc xác định các nhiệm vụ giáo dục cụ thể. Ví dụ, ông cho rằng, phương pháp trí dục là qua sự vật, hiện tượng, chứ không qua ngôn từ. Ông nhấn mạnh rằng: trong các khoa học tự nhiên có rất nhiều điều cần biết... Nhưng các điều này cần học tập ở những tác phẩm của các nhà bác học bắt tay vào các cuộc thí nghiệm có phương pháp, có hệ thống hơn là của các nhà bác học chỉ đưa ra những công trình hoàn toàn lý thuyết. Lốc - cơ đánh giá rất cao ảnh hưởng của môi trường đối với nhân cách của trẻ và rất coi trọng sự trải nhiệm thực tiễn của trẻ. Ông cho rằng, phải nuôi trẻ như ở nông thôn. Quần áo mặc vừa phải, không nóng, không lạnh, phải học bơi, quen mưa nắng, ăn uống giản dị...
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan