BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Họ và tên: Nguyễn Hoàng Oanh
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHI MINH
Họ và tên: Nguyễn Hoàng Oanh
Chuyên ngành: Tài chính - Ngân hàng
Mã số: 60.340.201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGSTS. HOÀNG ĐỨC
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2012
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Một số chỉ tiêu của Vietinbank đạt được
Bảng 2.2: Một số hoạt động dịch vụ của Vietinbank từ năm 2007 đến 2011
Bảng 2.3: Tình hình tài chính của các ngân hàng
Bảng 2.4: Tình hình chi tiết các loại thẻ E-partner
Bảng 2.5: Số lượng thẻ phát hành, số lượng máy ATM, POS, doanh số thanh toán của
một số ngân hàng thương mại.
Bảng 2.6: Số lượng thẻ phát hành của Vietinbank (2007-2011)
Bảng 2.7: Số lượng máy ATM, máy POS của Vietinbank (2007-2011)
Bảng 2.8: Doanh số thanh toán thẻ tín dụng, thẻ ATM của Vietinbank (2007-2011)
Bảng 2.9: Lợi nhuận kinh doanh thẻ của Vietinbank (2007-2011)
Bảng 2.10: Khảo sát khách hàng
Bảng 2.11: Kết quả khảo sát
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Hình 2.1 Biểu đồ số lượng thẻ ATM của Vietinbank (2007 - 2011)
Hình 2.2: Biểu đồ số lượng thẻ TDQT của Vietinbank (2007 - 2011)
Hình 2.3: Biểu đồ số lượng máy ATM của Vietinbank (2007 - 2011)
Hình 2.4: Biểu đồ số lượng máy POS của Vietinbank (2007 - 2011)
Hình 2.5: Biểu đồ doanh số thanh toán thẻ ATM của Vietinbank (2007 – 2011)
Hình 2.6: Biểu đồ doanh số thanh toán thẻ TDQT của Vietinbank (2007 – 2011)
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CN
ĐVCNT
NH TMCP CTVN
NHCT VN
NHCT TW
NHTM
NHNN
NHPHT
TCTD
TCKT
TDQT
Vietinbank
ATM (Automatic Teller Machine)
CAR (Capital Adequacy Ratio)
EMV (Europay MasterCard Visa)
PIN (Personal Identify Number)
POS (Point Of Sale)
ROA (Return On Average Assets)
ROE (Return On Average Equity):
SMS (Short Message Services)
Chi nhánh
Đơn vị chấp nhận thẻ
Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam
Ngân hàng Công thương Việt Nam
Ngân hàng công thương trung ương
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng nhà nước
Ngân hàng phát hành thẻ
Tổ chức tín dụng
Tổ chức kinh tế
Tín dụng quốc tế
Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam
Máy rút tiền tự động
Hệ số an tòan vốn. KD
Chuẩn thẻ thông minh
Số mật mã cá nhân
Máy chấp nhận thẻ
Lợi nhuận/tổng tài sản bình quân
Lợi nhuận/vốn chủ sở hữu bình quân
Dịch vụ tin nhắn ngắn
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn với đề tài “Giải pháp phát triển hoạt động dịch vụ thẻ tại
Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam” là công trình nghiên cứu của cá nhân. Các số
liệu nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực được thu thập từ nguồn thực tế.
Tác giả
Nguyễn Hoàng Oanh
i
PHẦN MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp thiết của đề tài
Xu hướng hội nhập khu vực và toàn cầu hóa nền kinh tế, đặc biệt là Hiệp định
thương mại Việt – Mỹ đã có hiệu lực, Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của Tổ
chức thương mại thế giới (WTO), là cơ hội để nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành
Ngân hàng nói riêng phát triển về chiều rộng lẫn chiều sâu, là cơ hội để các Ngân hàng
tiếp cận mô hình quản lý hiện đại, các dự án quốc tế, phát triển các dịch vụ ngân hàng,
đặc biệt là trong các nghiệp vụ thanh toán sẽ đem lại ngày càng nhiều lợi ích cho khách
hàng, tạo nhiều thuận lợi cho chính ngân hàng, đồng thời đẩy nhanh nhịp độ phát triển
kinh tế và tốc độ chu chuyển tiền tệ.
Hiện nay, sự phát triển của khoa học kỹ thuật và nhất là các tiến bộ của công nghệ
tin học được ứng dụng vào hoạt động ngân hàng, trở thành công nghệ tin học ngân hàng
đã mở rộng cho hoạt động ngân hàng tăng lên những bước đáng kể. Đỉnh cao của sự phát
triển các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt là sự ra đời của tiền điện tử - thẻ. Trong
bối cảnh nền kinh tế tài chính Việt Nam hiện nay, thẻ - công cụ chính của hoạt động ngân
hàng bán lẻ đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội
ở Việt Nam, có tác động lớn đến chính sách tiền tệ cũng như đến hiệu quả kinh doanh của
mỗi ngân hàng. Đối với các ngân hàng thương mại (NHTM), nghiệp vụ kinh doanh thẻ
mang lại một định hướng mới cho hoạt động kinh doanh ngân hàng. Theo hướng mở rộng
mảng kinh doanh dịch vụ vừa tăng thu nhập, mở rộng quy mô; vừa giảm rủi ro từ hoạt
động tín dụng truyền thống.
Thẻ ngân hàng là phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, ra đời từ phương
thức mua bán chịu hàng hoá bán lẻ và phát triển gắn liền với sự ứng dụng công nghệ tin
học trong lĩnh vực ngân hàng. Trong khi thẻ ngân hàng đã được sử dụng phổ biến và là
một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày của đông đảo dân chúng trên thế
giới thì tại thị trường Việt Nam mới thu hút được sự quan tâm, đầu tư của các ngân hàng
thương mại trong nước vài năm trở lại đây. Hướng tới đối tượng khách hàng cá nhân,
ii
dịch vụ thẻ trở thành công cụ quan trọng trong chiến lược phát triển hoạt động ngân hàng
bán lẻ của các ngân hàng. Phát hành thẻ ghi nợ và triển khai hệ thống ATM là lựa chọn
của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn ban đầu gia nhập thị trường thẻ,
làm bàn đạp cho ngân hàng tiếp tục triển khai hoạt động phát hành và thanh toán thẻ tín
dụng quốc tế. Thẻ ngân hàng trở thành sản phẩm công nghệ hiện đại, nó đã và đang trở
nên phổ biến ở rất nhiều nước trên thế giới, thẻ với tính chất an toàn, nhanh chóng, tiện
lợi, gọn nhẹ mà không phải dùng tiền mặt đã ra đời và từng bước thay thế các phương
thức thanh toán cổ điển không còn phù hợp với sự phát triển của kinh tế thế giới, góp
phần nâng cao đời sống cộng đồng dân cư, nâng cao đời sống xã hội. Vì vậy, phát triển
thẻ thanh toán là tất yếu khách quan của xu thế liên kết toàn cầu; thực hiện đa dạng hóa
sản phẩm dịch vụ và hiện đại hóa công nghệ ngân hàng đối với các ngân hàng Việt Nam,
trong đó có Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam.
Tuy nhiên, đây cũng là giai đoạn cạnh tranh khốc liệt hơn, ngân hàng sẽ gặp không
ít những khó khăn và thách thức bởi sự gia tăng của các ngân hàng nước ngoài ngày càng
rõ rệt. Mặc dù, ngành Ngân hàng Việt Nam đã góp phần trọng yếu trong việc cung ứng
vốn cho nền kinh tế nhưng trước áp lực phát triển của nền kinh tế hiện nay, hoạt động của
ngân hàng cần phải có những bước phát triển hơn nữa cả về lượng lẫn về chất để có thể
góp phần tạo đà phát triển cho nền kinh tế, góp phần phát triển cơ sở hạ tầng, cơ sở vật
chất kĩ thuật, thiết bị công nghệ thông tin, thực hiện chủ trương kích cầu đầu tư thành
phố.
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động kinh doanh thẻ trong hoạt động kinh
doanh của một ngân hàng hiện đại, chiếm một tỷ lệ tương đối lớn trong tổng doanh thu và
lợi nhuận, Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam trở thành ngân hàng đi đầu trong
việc triển khai hoạt động kinh doanh thẻ, triển khai nghiệp vụ phát hành và thanh toán
thẻ. Tuy nhiên, tình hình kinh doanh thẻ thanh toán của Ngân hàng TMCP Công thương
Việt Nam lại có những điểm bất cập. Mặc dù, ngân hàng đã có những hoạt động tích cực
khuếch trương dịch vụ thẻ, nhưng lượng thẻ được phát hành chưa đúng với tiềm năng
hiện có. Với mạng lưới chi nhánh rộng khắp, thẻ ghi nợ do ngân hàng Công thương phát
hành chủ yếu là để rút tiền mặt, còn thẻ thanh toán quốc tế thì chủ yếu do người nước
iii
ngoài thanh toán, hiệu quả sử dụng máy ATM cũng chưa cao, nhưng đầu tư mua máy
ATM lại tốn rất nhiều tiền.
Trong bối cảnh đó và sau một thời gian tìm hiểu về thực trạng dịch vụ thẻ tại Việt
Nam cũng như nhận thấy được tính cấp thiết của vấn đề này nên tôi đã chọn đề tài “Giải
pháp phát triển dịch vụ thẻ tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam” cho luận
tốt nghiệp của mình, nhằm mục đích giới thiệu Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam
nói chung và sản phẩm thẻ cuả Vietinbank nói riêng. Đây là một dịch vụ giúp cho các
doanh nghiệp tăng nguồn vốn lưu động, mở rộng sản xuất kinh doanh, thuận tiện cho cá
nhân phục vụ tiêu dùng mà không cần phải thế chấp tài sản; cung cấp một số thông tin cơ
bản về dịch vụ thẻ để mọi đối tượng khách hàng không còn ngần ngại khi tham gia dịch
vụ; giúp các đơn vị chấp nhận thẻ thu được khoản lợi nhuận cao hoặc có thể né tránh một
số khó khăn thường phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Đồng thời, việc
nghiên cứu sẽ đưa ra các giải pháp để phát triển dịch vụ thẻ của Ngân hàng TMCP Công
thương Việt Nam, tạo dựng một thương hiệu thẻ nổi tiếng với bản sắc riêng trên thị
trường thẻ, thu hút được sự quan tâm của nhiều người, đạt hiệu quả kinh doanh tốt hiện
nay.
2.
Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề cơ bản của thẻ ngân hàng, một công cụ thanh toán
không dùng tiền mặt hiện đại gắn liền với sự phát triển khoa học công nghệ và những
lợi ích mà dịch vụ thẻ mang lại cho khách hàng, cho ngân hàng và cho nền kinh tế.
- Nghiên cứu phân tích tình hình kinh doanh thẻ của Ngân hàng TMCP Công
thương Việt Nam trong những năm qua để có cái nhìn bao quát và định hướng cho
hoạt động kinh doanh thẻ của Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam. Từ đó, đề
xuất một số giải pháp khả thi nhằm góp phần phát triển dịch vụ thẻ của Ngân hàng
TMCP Công thương Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới và khu vực
hiện nay.
3.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến thẻ ngân hàng, phân tích số liệu tình hình
iv
phát hành và thanh toán thẻ tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam, số liệu
phát hành thẻ và một số nét về các ngân hàng có hoạt động thẻ tại Việt Nam trong
những năm qua (2007-2011).
- Nghiên cứu lý thuyết thẻ ngân hàng, lịch sử ra đời và phát triển của thẻ ngân hàng.
Và tham khảo ý kiến của thầy hướng dẫn, các cán bộ của phòng thẻ tại Trung tâm thẻ
và Sở Giao dịch II Ngân hàng Công thương Việt Nam.
- Trên cơ sở phân tích tổng hợp đề xuất các giải pháp nhằm phát triển dịch vụ thẻ tại
Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam.
4.
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài áp dụng các phương pháp tiếp cận thực tế, phân tích số liệu của nghiệp vụ
phát hành và thanh toán thẻ tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam, các văn bản
pháp quy liên quan đến đề tài. Dựa vào các kết quả phân tích, vận dụng lý luận vào thực
tiễn để đưa ra các nhận định về tình hình phát triển dịch vụ thẻ tại Ngân hàng TMCP
Công thương Việt Nam.
Xác định nhu cầu cấp thiết phải phát triển thẻ tại Ngân hàng TMCP Công thương
Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế cùng với các giải pháp có tính khả thi.
5.
Kết cấu luận văn
Nội dung luận văn được kết cấu trong ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thẻ ngân hàng.
Chương 2: Thực trạng dịch vụ thẻ tại Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp phát triển dịch vụ thẻ tại Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam
1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THẺ NGÂN HÀNG
1.1 Thẻ ngân hàng
1.1.1 Khái niệm
Thẻ ngân hàng là một loại thẻ giao dịch tài chính được phát hành bởi ngân hàng.
Ngày nay, thẻ ngân hàng – hay vẫn được hiểu một cách nôm na là tiền điện tử - là
phương tiện thanh toán hiện đại và tiên tiến trên thế giới. Thẻ ngân hàng ra đời và phát
triển gắn liền với sự phát triển và ứng dụng công nghệ tin học trong ngân hàng.
Thẻ ngân hàng là phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, do ngân hàng phát
hành thẻ cấp cho khách hàng sử dụng để thanh toán hàng hoá dịch vụ hoặc để rút tiền
mặt ở các máy rút tiền tự động hay tại các ngân hàng đại lý trong phạm vi số dư của tài
khoản tiền gửi hoặc hạn mức tín dụng được ký kết giữa ngân hàng phát hành thẻ và chủ
thẻ. Trong Quy chế phát hành, thanh toán, sử dụng và cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động
thẻ ngân hàng ban hành kèm theo Quyết định số 20/2007/QĐ-NHNN ngày 15/05/2007
của NHNN Việt Nam khái niệm thẻ được quy định như sau: “Thẻ ngân hàng là phương
tiện do tổ chức phát hành thẻ phát hành để thực hiện giao dịch thẻ theo các điều kiện và
điều khoản được các bên thỏa thuận”.
1.1.2 Sự ra đời và phát triển của thẻ ngân hàng trên thế giới
Thẻ ngân hàng ra đời bắt nguồn từ việc các đại lý bán lẻ cung cấp tín dụng cho
khách hàng bằng cách bán chịu, mua hàng trước và trả tiền sau. Xuất hiện lần đầu ở Mỹ
vào những năm 1920 dưới cái tên tạm gọi là “đĩa mua hàng” (shooper’s plate). Người chủ
sở hữu của loại “đĩa” này có thể mua hàng tại cửa hiệu phát hành ra chúng và hàng tháng
họ phải hoàn trả tiền cho chủ cửa hàng vào một ngày cố định, thường là cuối tháng.
Hệ thống mua bán chịu này cũng mở đường cho thẻ tín dụng ra đời do Ngân hàng
Franklin National Bank ở Long Island NewYork phát hành lần đầu tiên năm 1951 . Tuy
nhiên, về mặt lịch sử thẻ ngân hàng xuất hiện đầu tiên ở Mỹ với tên gọi đầu tiên là thẻ
Dinners Club do ý tưởng của một doanh nhân người Mỹ là Frank Mc Namara. Cụ thể: Có
một lần sau khi dùng bữa tối tại một nhà hàng ở New York, ông Namara bổng phát hiện
2
mình không mang theo tiền mặt. Ông phải gọi điện thoại cho vợ mình mang tiền đến để
thanh toán. Tình trạng khó xử lần đó khiến ông mày mò chế tạo một phương tiện chi trả
không dùng tiền mặt trong những trường hợp tương tự như trên. Công ty của Frank X.
McNamara phát hành 200 thẻ đầu tiên, và tất nhiên thứ sản phẩm “xa xỉ” này chỉ để dành
cho những người có tiếng tăm trong xã hội New York. Tính năng duy nhất của nó là
thanh toán hoá đơn ở 27 nhà hàng sang trọng của New York bây giờ.
Trong những năm sau đó, ngày càng có nhiều các tổ chức tham gia vào thị trường
thẻ ngân hàng: Năm 1955, hàng loạt thẻ mới xuất hiện ở Mỹ như: Trip Charge, Golden
Key, Gourmet Club, Esquire Club. Năm 1958, thẻ Card Balanche, American Express ra
đời và thống lĩnh thị trường. Năm 1959, một số ngân hàng phát hành thẻ tín dụng đã cung
ứng thêm một dịch vụ mới đó là thẻ tín dụng tuần hòan. Với dịch vụ này, các chủ thẻ có
thể duy trì số dư có trên tài khoản vay bằng một hạn mức tín dụng nếu họ hoàn thành việc
thanh toán hàng tháng. Khi đó, số tiền thanh toán hàng tháng của chủ thẻ sẽ được cộng
thêm một khoản phí tính từ những khoản vay của chủ thẻ. Năm 1960, Bank of America
cho ra đời sản phẩm thẻ đầu tiên của mình là Bank Americard. Đến năm 1966, 14 ngân
hàng hàng đầu của Mỹ thành lập Interbank, một tổ chức mới với chức năng là đầu mối
trao đổi các thông tin về giao dịch thẻ. Ngay sau đó, vào năm 1967, 4 ngân hàng bang
California đổi tên từ Bank Card Association thành Western State Bank Card Association
và tổ chức này đã liên kết với Interbank cho ra đời thẻ MASTER CHARGE, loại thẻ này
đã nhanh chóng trở thành một đối thủ cạnh tranh lớn của BANKAMERICARD. Đến năm
1977, tổ chức BANKAMERICARD đổi tên thành VISA USD và sau đó là tổ chức thẻ
quốc tế VISA. Năm 1979, tổ chức thẻ MASTER CHARGE đổi tên thành MASTER
CARD. Hiện nay, 2 tổ chức này vẫn đang là 2 tổ chức thẻ lớn mạnh và phát triển nhất
trên thế giới.
Do thẻ ngày càng được sử dụng rộng rãi, các công ty và ngân hàng liên kết với nhau
để khai thác lĩnh vực thu nhiều lợi nhuận này. Thẻ ngân hàng đã có mặt ở khắp nơi trên
thế giới với những hình thức và chủng loại đa dạng, đáp ứng đầy đủ những nhu cầu riêng
lẻ của người tiêu dùng, thẻ dần dần được xem như một công cụ văn minh, thuận lợi trong
3
các cuộc giao dịch mua bán. Các loại thẻ Master, Visa, Diners Club, JCB, American
Express (Amex) được sử dụng rộng rãi trên toàn cầu và các loại thẻ thay nhau phân chia
những thị trường rộng lớn.
Thẻ Diners Club, thẻ du lịch và giải trí T&E (Travel & Entertainment) đầu tiên do tổ
chức thẻ tự phát hành vào năm 1949 ở Mỹ, xuất hiện đầu tiên ở Nhật Bản vào năm 1960,
chi nhánh được quản lý bởi Citi Corp, người đứng đầu trong số các ngân hàng phát hành
thẻ. Năm 1990 có 6,9 triệu người sử dụng thẻ Diners Club trên toàn thế giới với doanh số
khoảng 16 tỷ dollars. Hiện nay, số người sử dụng thẻ Diners Club đang giảm dần đến
năm 1993 tổng doanh số chỉ còn khoảng 7,9 tỷ với khoảng 1,5 triệu thẻ lưu hành.
Thẻ American Express (Amex) ra đời vào năm 1958, tổ chức American Express
phát hành thẻ Green Amex, không có hạn mức tín dụng, chủ thẻ được chi dùng và có
trách nhiệm thanh toán một lần vào cuối tháng. Năm 1987, Amex cho ra đời thêm ba loại
thẻ: Amex Gold, Amex Platinium, và Optima có hạn mức tín dụng tuần hoàn để cạnh
tranh với thẻ VISA và MasterCard. American Express hiện là tổ chức thẻ du lịch và giải
trí lớn nhất thế giới, trực tiếp phát hành và quản lý chủ thẻ, không cấp giấy phép thành
viên cho các công ty tài chính- ngân hàng. Tổng số lượng thẻ phát hành có gấp 5 lần
Diners Club và gấp 2 lần JCB. Năm 1990, tổng doanh thu chỉ khoảng 111,5 triệu dollars
với khoảng 36,5 triệu thẻ lưu hành. Nhưng đến năm 1993, tổng doanh thu lên khoảng 124
tỷ dollars với 35,4 triệu thẻ lưu hành và 3,6 triệu cơ sở chấp nhận thanh toán.
Thẻ JCB (the Japan-based) là thẻ phát hành tại Nhật Bản năm 1961 bởi ngân hàng
Sanwa và bắt đầu phát triển thành một tổ chức thẻ quốc tế vào năm 1981. Thẻ JCB đã
phát triển rất nhanh và là đối thủ cạnh tranh của American Express trong thị trường giải
trí và du lịch. Năm 1990 JCB đã phát hành được 17 triệu thẻ với doanh số thanh toán
khoảng 16,5 tỷ USD. Năm 1992, JCB có 27,5 triệu thẻ, khoảng 2,9 triệu cơ sở chấp nhận
thanh toán và 160.000 máy rút tiền tự động ATM. Cũng giống như Amex, JCB phát hành
loại thẻ độc quyền của riêng mình và quản lý trực tiếp đến khách hàng (chủ thẻ và điểm
chấp nhận thẻ).
4
Thẻ Visa là loại thẻ có quy mô phát triển lớn nhất trên toàn cầu. Cuối năm 1990 có
257 triệu thẻ Visa đang lưu hành với doanh thu khoảng 354 tỷ dollars. Cuối năm 1993
doanh thu của thẻ Visa đã tăng lên đến 542 tỷ dollars, hệ thống máy rút tiền tự động của
Visa khoảng 164.000 máy ATM ở 65 nước trên thế giới. Visa không trực tiếp phát hành
thẻ mà giao lại cho các thành viên, đây là điều kiện thuận lợi giúp cho Visa dễ dàng mở
rộng thị trường hơn các loại thẻ khác. Hiện nay, Visa có hơn 22.000 thành viên tại hơn
300 nước, đã phát hành hơn 1 tỷ thẻ, 20 triệu CSCNT, 840.000 máy rút tiền mặt, doanh
số giao dịch hàng năm đạt 1.000 tỷ dollars.
Thẻ Master ra đời vào năm 1966 với tên gọi là Master Charge, là loại thẻ có quy mô lớn
trên thế giới. Cũng giống như Visa, MasterCard là một hiệp hội tài chính quốc tế riêng biệt,
không quan hệ trực tiếp với chủ thẻ mà chỉ quản lý tất cả các thành viên phát hành thẻ. Đến
năm 1990, MasterCard đã phát hành hơn 178 triệu thẻ với trên 5.000 thành viên phát hành
thẻ và khoảng 9 triệu CSCNT thanh toán trên toàn thế giới. Đến năm 1993, tổng doanh thu
của MasterCard lên tới 320,6 tỷ dollars và phát hành được 215,8 triệu thẻ đang lưu hành tại
220 nước. Cho đến nay số lượng thành viên tham gia vào hiệp hội MasterCard đã lên đến
hơn 30.000 thành viên, mạng lưới rút tiền mặt đã được triển khai rộng rãi với hơn 170.000
ATM đặt tại hơn 200.000 chi nhánh ngân hàng trên thế giới.
1.1.3 Phân loại thẻ ngân hàng
Thẻ rất đa dạng, phong phú, chúng ta có thể phân loại thẻ dựa trên những tiêu chí sau
đây:
1.1.3.1 Phân loại theo đặc tính kĩ thuật: có 3 loại thẻ
- Thẻ khắc chữ nổi (embossed card): Đây là loại thẻ sơ khai ban đầu, được làm dựa
trên kỹ thuật khắc chữ nổi. Trên bề mặt thẻ được khắc nổi các thông tin cần thiết. Hiện
nay loại thẻ này không được sử dụng nữa do kỹ thuật sản xuất thô sơ, tính bảo mật kém
và dễ làm gỉ.
-
Thẻ từ (thẻ băng từ - Magnetic stripe): được sản xuất với kĩ thuật từ tính
với hai dải băng từ thông tin phía mặt sau thẻ. Thẻ chứa những thông tin cố định
và không mã hóa
5
được nên vấn đề bảo mật thông tin còn nhiều hạn chế và thẻ dễ bị lợi dụng để thực hiện
những hành vi sai trái như rút tiền, ăn cắp từ tài khoản của khách hàng.
- Thẻ thông minh (Smart Card): thẻ được ứng dụng kĩ thuật vi xử lý tin học và có
được gắn chip điện tử, thẻ có cấu trúc như một máy vi tính. Thẻ thông minh có nhiều
nhóm với dung lượng nhớ của chip điện tử khác nhau. Đây là thế hệ mới nhất của thẻ
thanh toán, nó khắc phục nhiều nhược điểm của thẻ khắc chữ nổi, thẻ băng từ do hạn chế
việc sử dụng thẻ giả mạo, đảm bảo tính an toàn cao. Tuy nhiên, chi phí để đầu tư phát
triển hệ thống thẻ thông minh cũng rất cao.
1.1.3.2 Phân loại theo hạn mức tín dụng
- Thẻ vàng (gold card): đây là loại thẻ có hạn mức tín dụng cao phục vụ thị trường
cao cấp phù hợp với những khách hàng có mức sống thu nhập cao, tình hình tài chính
lành mạnh, nhu cầu chi tiêu lớn.
-
Thẻ chuẩn (classic card): đây là loại thẻ có hạn mức tín dụng thấp hơn thẻ
vàng, mang tính phổ biến và đại chúng, được sử dụng rộng rãi nhất phù hợp với
những khách
hàng có mức thu nhập trung bình.
1.1.3.3 Phân loại theo tính chất thanh toán của thẻ
- Thẻ ghi nợ (Debit card): loại thẻ này hoạt động dựa trên số dư tài khoản tiền gửi
của
khách hàng tại ngân hàng nên gắn liền với tài khoản tiền gửi và không áp dụng các hạn
mức tín dụng. Khi thanh toán hàng hóa hay dịch vụ, giá trị giao dịch sẽ bị khấu trừ ngay
vào tài khoản của khách hàng, chuyển thẳng vào tài khoản của cơ sở chấp nhận thẻ. Tuy
nhiên, để tạo điều kiện cho chủ thẻ trong giao dịch, tổ chức phát hành có thể cho phép
chủ thẻ chi tiêu hoặc rút tiền vượt quá số dư trong một khoảng thời gian nhất định, tùy
thuộc vào mối quan hệ khách hàng, hình thức này gọi là thấu chi. Thẻ ghi nợ cũng có thể
dùng để rút tiền mặt. Có hai loại thẻ ghi nợ cơ bản:
Thẻ on-line là thẻ ghi nợ mà giá trị những giao dịch được khấu trừ ngay lập tức
vào tài khoản chủ thẻ.
Thẻ off-line là thẻ ghi nợ mà giá trị những giao dịch sẽ được khấu trừ vào tài
khoản chủ thẻ sau đó vài ngày.
6
- Thẻ tín dụng (Credit card): là loại thẻ mà ngân hàng sẽ cấp một hạn mức tín dụng
nhất định cho chủ thẻ để thanh toán các giao dịch tại các cơ sở chấp nhận thẻ. Sau đó
khách hàng sẽ phải thanh toán khoản tín dụng này theo những kỳ hạn nhất định. Thông
thường thì thẻ tín dụng có hai loại:
Charge Card: khách hàng phải trả toàn bộ số tiền mà khách hàng đã sử dụng thẻ
để thanh toán tại các cơ sở chấp nhận thẻ vào cuối kỳ sao kê (thường là 1 tháng).
Revolving Credit Card (tín dụng tuần hoàn): khách hàng chỉ trả số tiền thanh
toán tối thiểu từ 10-20% trên tổng hạn mức tối đa mà khách hàng đã sử dụng thẻ
để thanh toán.
Cả 2 loại thẻ Charge Card và Revolving Card, khách hàng đều phải trả lãi ngân hàng và
thẻ được duy trì cho khách hàng sử dụng nếu khách hàng hoàn thành đúng nghĩa vụ thanh
toán cho ngân hàng.
- Thẻ rút tiền mặt (Cash card): dùng để rút tiền mặt từ tài khoản của chủ thẻ tại các
máy rút tiền tự động (ATM) hoặc tại ngân hàng và sử dụng các dịch vụ khác do máy
ATM cung cấp (Ví dụ: kiểm tra số dư, chuyển khoản, chi trả các khoản vay…). Với chức
năng chuyên dùng để rút tiền, yêu cầu đặt ra với chủ thẻ là phải ký quỹ tiền vào tài khoản
hoặc được ngân hàng cấp tín dụng thấu chi. Số tiền rút ra mỗi lần sẽ được trừ dần vào số
tiền ký quỹ.
1.1.3.4 Phân loại theo phạm vi sử dụng
- Thẻ nội địa: là loại thẻ chỉ được sử dụng trong phạm vi một quốc gia và đồng tiền
giao dịch là đồng bản tệ của nước đó. Thông thường thẻ nội địa là những thẻ ghi nợ của
các ngân hàng thương mại, được phát hành, được sử dụng tại hệ thống máy ATM và
mạng lưới các đơn vị CSCNT trong nước. Tuy nhiên, thẻ này có nhược điểm là ngân
hàng phải thu hút một số lượng khá lớn những đơn vị chấp nhận thẻ và người sử dụng
thẻ. Nếu số lượng này mà ít thì việc kinh doanh thẻ trở nên không hiệu quả, mặt khác
việc sử dụng thẻ bị giới hạn trong phạm vi một quốc gia.
- Thẻ quốc tế: là loại thẻ không chỉ được sử dụng trong phạm vi quốc gia mà còn được
dùng trên toàn thế giới. Thẻ quốc tế được chấp nhận thanh toán trên toàn cầu và sử dụng
7
các loại ngoại tệ mạnh để thanh toán. Để phát hành thẻ quốc tế, tổ chức phát hành thẻ
phải là thành viên của tổ chức thẻ quốc tế, tuân thủ chặt chẽ các quy định trong việc phát
hành và thanh toán thẻ do tổ chức thẻ quốc tế đó ban hành. Khách hàng khi sử dụng thẻ
quốc tế phải chịu nhiều chi phí hơn so với thẻ nội địa, đặc biệt là chi phí liên quan đến
việc chuyển đổi ngoại tệ giữa các quốc gia hoạt động trong lãnh thổ của một quốc gia và
sử dụng đồng tiền của quốc gia đó.
Thuận lợi chủ yếu của thẻ quốc tế là ở chỗ các ngân hàng nhận được nhiều sự giúp
đỡ về nghiên cứu thị trường, xử lý và nâng cao những yếu tố kỹ thuật của thẻ từ phía
trung tâm thẻ với chi phí thấp hơn nhiều so với sự hoạt động. Ngoài ra, do được phát
hành qua một chương trình độc quyền, thẻ được nhiều người biết đến và dễ dàng được
chấp nhận rộng rãi ở hầu hết mọi nơi, mang các tiện ích cho khách hàng và là nguồn lợi
nhuận quan trọng của ngân hàng.
Tóm lại: Mặc dù được phân chia thành nhiều loại khác nhau nhưng các loại thẻ nói trên
đều có một đặc điểm chung nhất là dùng để rút tiền mặt hoặc thanh toán tiền hàng hoá
dịch vụ.
1.1.4 Quy trình tổng quát về tổ chức phát hành, thanh toán thẻ
1.1.4.1 Các thành phần tham gia: Hoạt động kinh doanh thẻ diễn ra theo một chu trình
khép kín, bao gồm nhiều chủ thể tham gia được cụ thể như sau:
Thứ nhất: Chủ thẻ (Cardholder)
Là người đứng tên trên thẻ được ngân hàng phát hành. Đây cũng là chủ tài khoản
có liên quan đến hoạt động của thẻ. Chủ thẻ có thể sử dụng thẻ để rút tiền mặt tại máy
ATM hoặc máy POS, hoặc khi sử dụng thẻ để thanh toán, chủ thẻ xuất trình cho các cơ
sở chấp nhận thẻ để thực hiện giao dịch thanh toán. Chủ thẻ có một mã số cá nhân để sử
dụng thẻ. Chủ thẻ bao gồm:
-
Chủ thẻ chính: Là cá nhân hoặc tổ chức đứng tên thỏa thuận về việc sử
dụng thẻ với tổ chức phát hành thẻ và có nghĩa vụ thực hiện thỏa thuận đó.
8
Chủ thẻ phụ: Là cá nhân được chủ thẻ chính cho phép sử dụng thẻ theo thỏa
thuận
về việc sử dụng thẻ giữa chủ thẻ chính và tổ chức phát hành thẻ. Chủ thẻ phụ chịu
trách nhiệm về việc sử dụng thẻ với chủ thẻ chính.
Thứ hai: Ngân hàng phát hành (Issuer)
Là ngân hàng phát hành thẻ và cung cấp dịch vụ của thẻ cho khách hàng. Ngân
hàng cũng chịu trách nhiệm trong việc xử lý các giao dịch, quản lý hoạt động của thẻ và
thực hiện việc thanh toán đối với chủ thẻ cho các giao dịch phát sinh.
Thứ ba: Ngân hàng đại lý (Ngân hàng thanh toán – Acquirer)
Là ngân hàng đứng ra thanh toán cho các cơ sở chấp nhận thẻ những giao dịch từ
phía khách hàng của ngân hàng với các cơ sở này. Khi thực hiện thanh toán, các cơ sở
chấp nhận thẻ xuất trình biên lai chứng từ về việc cung cấp hàng hóa dịch vụ cho khách
hàng. Đây cũng có thể là ngân hàng phát hành thẻ.
Thứ tư: Đơn vị chấp nhận thẻ (Merchant)
Là các đơn vị cung cấp hàng hóa dịch vụ có hợp đồng ký kết với ngân hàng về
việc chấp nhận thanh toán bằng thẻ. Các cơ sở này được ngân hàng cung cấp trang thiết
bị máy móc để có thể thực hiện các giao dịch thanh toán bằng thẻ.
Thứ năm: Trung tâm thẻ (Card center)
Là phòng quản lý thẻ trung ương, đại diện của ngân hàng trong quan hệ đối ngoại
trực tiếp về phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ với các tổ chức thẻ quốc tế và các ngân
hàng khác. Chịu trách nhiệm điều hành hoạt động phát hành, cấp phép, tra soát thanh
toán thẻ và quản lý rủi ro. Đồng thời là trung tâm điều hành, thanh toán thẻ giữa các chi
nhánh trong hệ thống của ngân hàng.
Thứ sáu: Tổ chức thẻ quốc tế (International card organizations)
Là đơn vị đứng đầu quản lý mọi hoạt động thanh toán thẻ trong mạng lưới của
mình. Đây là hiệp hội các tổ chức tài chính, tín dụng lớn có mạng lưới hoạt động rộng
khắp và đạt được sự nổi tiếng với thương hiệu và sản phẩm đa dạng như: tổ chức thẻ
Visa, tổ chức thẻ MasterCard, công ty thẻ American Express, công ty thẻ JCB, công ty
thẻ Diners Club, …. Tổ chức thẻ quốc tế đưa ra những quy định cơ bản về hoạt động phát
9
hành, sử dụng và thanh toán thẻ, đóng vai trò trung gian giữa các tổ chức và các công ty
thành viên trong việc điều chỉnh và cân đối các lượng tiền thanh toán giữa các công ty
thành viên.
1.1.4.2 Các thuật ngữ liên quan
- Mã số cá nhân (PIN – Personal Identificate Number): Đây là một dãy kí tự do chủ
thẻ quản lý và chỉ có chủ thẻ mới được biết. Mã số được sử dụng để thực hiện các giao
dịch rút tiền mặt từ các máy ATM. Mã số này cần được tuyệt đối giữ bí mật vì có thể bị
lợi dụng thẻ.
- Số dư tài khoản tiền gửi/tài khoản thẻ của khách hàng: là số tiền mà khách hàng
nộp
vào tài khoản mở tại ngân hàng và sẽ bị khấu trừ khi khách hàng rút tiền mặt hoặc khi sử
dụng thanh toán các giao dịch mua bán.
- Hạn mức tín dụng (Credit limit): là một số tiền nhất định ngân hàng quy định cấp
tín
dụng cho chủ thẻ tùy từng loại thẻ và từng đối tượng khách hàng.
-
Thời hạn hiệu lực: là thời gian chủ thẻ có thể sử dụng các hoạt động rút tiền
và thanh toán bằng thẻ, khi hết thời hạn này, chủ thẻ cần đến ngân hàng để gia hạn
thẻ.
1.1.4.3 Quy trình phát hành, thanh toán qua thẻ
Chủ sở
Ngân h
hàn
Bước 1: Khách hàng gửi đề nghị phát hành thẻ tới ngân hàng phát hành thẻ. Sau khi kiểm
tra thủ tục và các điều kiện cần thiết, nếu đủ điều kiện ngân hàng sẽ phát hành thẻ cho
- Xem thêm -