Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng tại nhtmcp á châu trong điều kiện cạnh tran...

Tài liệu Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng tại nhtmcp á châu trong điều kiện cạnh tranh trên thị trường vốn việt nam

.PDF
183
34
90

Mô tả:

TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 1. SỰ CẦN THIẾT Là một chủ thể trong nền kinh tế, các NHTM hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận. Bên cạnh đó, do đặc thù kinh doanh tiền tệ, rất nhạy cảm với các vấn đề rủi ro thanh khoản, nên an toàn trong hoạt động kinh doanh là vấn đề sống còn và là đặc thù của ngành ngân hàng. Đối với các NHTM, tín dụng là hoạt động đem lại nguồn thu nhập chủ yếu cho ngân hàng, đồng thời cũng là hoạt động tiềm ẩn rủi ro lớn, gây mất vốn ở mức độ cao, sẽ dẫn tới mất an toàn cho ngân hàng. Do vậy, hiệu quả tín dụng là nội dung đặc biệt quan trọng được quan tâm trong hoạt động của NHTM ở mọi nơi, mọi lúc. Đối với nước ta, hiệu quả tín dụng ngân hàng quan trọng và phức tạp hơn nhiều các nước phát triển. Thống kê hiện tại cho thấy, thu nhập lãi tín dụng là nguồn thu chủ yếu của các ngân hàng, có ngân hàng nguồn thu này lên tới trên 90% thu nhập. Trong khi đó, rủi ro tín dụng tiềm ẩn ở mọi góc cạnh. Bản thân hệ thống NHTM còn non yếu, qui mô tài chính hạn hẹp; trình độ quản lý, công nghệ đều hạn chế; vấn đề kiểm soát trong hệ thống nhiều bất cập; nhưng lại đặt các mục tiêu tăng trưởng mạnh, cạnh tranh bằng mọi giá để mở rộng qui mô, phạm vi, thị phần… Về môi trường vĩ mô, thời gian gần đây, do tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu, cộng các yếu kém trong nước đã dẫn tới các biến động lớn về lạm phát, đầu tư, tăng trưởng kinh tế, kéo theo điều chỉnh nhanh, mạnh về chính sách tiền tệ tín dụng của NHNN, cộng các biện pháp xiết chặt quản lý tín dụng, quản lý an toàn hệ thống, tái cơ cấu các TCTD… đã và đang có tác động rất lớn đối với hoạt động NHTM nói chung, lĩnh vực tín dụng, đặc biệt là hiệu quả tín dụng nói riêng. Bản thân ngành ngân hàng và từng NHTM đều đã nỗ lực nghiên cứu tăng cường quản lý tín dụng, trong đó có việc liên tục hoàn thiện cơ chế, chính sách; đổi mới qui trình, mô hình hoạt động; áp dụng công nghệ hiện đại vào đánh giá, thẩm định, quản lý khách hàng…, nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu khách hàng, hạn chế rủi ro tín dụng do các nguyên nhân chủ quan từ cán bộ của NHTM gây ra; tăng cường tính nhất quán trong xem xét đánh giá tín dụng. Không nằm ngoài xu hướng phát triển chung, NHTMCP Á Châu cũng đã trải qua tất cả những vấn đề trên. Nổi lên là một NHTMCP trẻ, có hệ thống quản trị tiên tiến, hiện đại, trong đó có hệ thống quản trị rủi ro tín dụng với hệ thống xếp hạng tín 1 dụng tiên phong và các kết quả kinh doanh rất ấn tượng những năm trước đây, song ngân hàng cũng đối mặt với sự suy giảm chất lượng tín dụng nhanh chóng do tác động của môi trường kinh doanh những năm gần đây. Không dừng ở đó, qui mô tín dụng đã thu hẹp thực sự; lợi nhuận cũng không được bảo tồn. Những khó khăn này gắn liền với những biến động trong môi trường kinh tế vĩ mô, những điều chỉnh chính sách của NHNN và vấn đề tái cơ cấu các các TCTD thời gian qua. Các nội dung này chưa được phân tích một cách bài bản, cụ thể. Thêm vào đó, các nội dung quản trị NHTM hiện đại, trong đó phải kể đến các vấn đề về khoảng trống kỳ hạn, cơ cấu đồng tiền; về các chế độ lãi suất… đang được đặc biệt quan tâm, do là vấn đề có tác động lớn tới chi phí huy động, rủi ro tín dụng, nhưng hầu như chưa được đề cập trong các nghiên cứu về hiệu quả tín dụng. Chính vì vậy, Nghiên cứu sinh đã lựa chọn chủ đề: “Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng tại NHTMCP Á Châu trong điều kiện cạnh tranh trên thị trường vốn Việt Nam” để nghiên cứu cho luận án tiến sĩ. Mục đích nghiên cứu của luận án là làm rõ các đặc thù môi trường kinh doanh, đặc thù kinh doanh của NHTMCP Á Châu, hệ thống quản lý tín dụng và hiệu quả tín dụng tại NHTMCP Á Châu thời gian qua, đối chiếu với thông lệ và thực trạng đối thủ cạnh tranh, đề xuất hệ thống giải pháp để nâng cao hiệu quả tín dụng tại NHTMCP Á Châu giai đoạn tới. 2. MỘT SỐ CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN Do là vấn đề trọng tâm trong hoạt động ngân hàng, nhất là đối với NHTM Việt Nam, nên có rất nhiều nghiên cứu đã được thực hiện trong và ngoài nước về chủ đề này. Nghiên cứu trên thế giới về thẩm định tín dụng, rủi ro tín dụng, quản trị tín dụng, nợ xấu là vấn đề thường xuyên, phổ biến. Gần đây nhiều nghiên cứu xoay quanh các vấn đề gắn với khủng hoảng dưới chuẩn của Mỹ, các nội dung điều tiết mới để hạn chế nợ dưới chuẩn và rủi ro tín dụng, … Nghiên cứu trong nước khá đa dạng, nhưng việc cập nhật các biến động kinh tế xã hội trong nước, những tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu và những vấn đề quản trị NHTM hiện đại có liên quan tới hiệu quả tín dụng còn hạn chế. 2.1 Một số nghiên cứu ngoài nước có liên quan tới hiệu quả tín dụng Nghiên cứu về thẩm định tín dụng, rủi ro tín dụng, quản trị rủi ro tín dụng, nợ xấu: Những nghiên cứu này đã tập trung làm rõ bản chất hoạt động tín dụng, các đặc thù 2 của hoạt động tín dụng, rủi ro tín dụng, các nguyên nhân, việc đo lường rủi ro tín dụng và các nội dung quản trị, điều hành nhằm hạn chế rủi ro tín dụng NHTM (“Nghiên cứu về các đặc trưng của hoạt động cho vay và rủi ro tín dụng”, Jimenez, G và Saurina, 2002; “Nghiên cứu về quản lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng”, Bessis,J 1998; Nghiên cứu “Các nguyên tắc quản lý rủi ro tín dụng”, Ủy ban giám sát BASEL, 2000; “Cẩm nang chính sách kiểm tra giám sát trong quản lý rủi ro tín dụng”, Bảo hiểm tiền gửi Mỹ - FDIC; “Quản lý rủi ro tín dụng”, Hiệp hội các chuyên gia rủi ro toàn cầu – GARP…; “Giới thiệu mô hình rủi ro tín dụng”, Luhm, Christain, Ludger Overbeck và Christoph Wanger, 2002; “Rủi ro tín dụng: định giá, đo lường và quản lý”, NXB Đạihọc Princeton, 2003…) Bên cạnh đó, một số nghiên cứu tập trung vào tác động, sự nguy hại của rủi ro tín dụng, không chỉ đối với việc thu hồi vốn, mà còn chỉ ra những tiềm ẩn rủi ro khủng hoảng (“Rủi ro tín dụng – nguyên nhân dẫn tới khủng hoảng ngân hàng, Pavla Vodava; “Nợ xấu ở Đông âu: các nhân tố quyết định và tác động tới nền kinh tế, IMF, 2013; “Nghiên cứu về nợ xấu và các tác động bất ổn vĩ mô, IMF, 2011); Nghiên cứu về các hệ lụy khác của vấn đề của nợ xấu bên cạnh các tác động tới kinh tế, Ngân hàng trung ương Châu âu - ECB, 2013… Nợ xấu tiềm ẩn nguy cơ mất vốn, mất cân đối dòng tiền, có thể dẫn tới các rủi ro thanh khoản, nên cũng là vấn đề được nghiên cứu khá phổ biến trên thế giới. Do tác động của nợ dưới chuẩn, khủng hoảng tài chính toàn cầu, nợ xấu của hệ thống tài chính đã gia tăng nhanh chóng và việc xử lý nợ xấu, lành mạnh hóa hệ thống NHTM đang là những vấn đề trọng tâm của các nước. Các nghiên cứu về nguyên nhân dẫn tới nợ xấu (Keeton, Willian và Morris, 1987; nghiên cứu nợ xấu của Mỹ (Sinkey, Joseph.f và Greeen walt, 1991; nghiên cứu nợ xấu tại Tây ban nha (Salas Vincene và Saurina, 2002); nghiên cứu quan hệ giữa nợ xấu và hoạt động của ngân hàng (Kwan và Eisenbeis, 1994; Hughes và Moon, 1995; Reesti 1995); nghiên cứu khả năng nợ xấu cao dẫn tới việc thu hẹp hoạt động ngân hàng tại Ấn độ sau khủng hoảng tài chính 1997, ảnh hưởng tới qui mô, thị phần và hiệu quả hoạt động trong tương lai của ngân hàng (nghiên cứu Agung et.al.2001). Các nghiên cứu liên quan tới hiệu quả tín dụng gắn với cho vay dưới chuẩn, dẫn tới khủng hoảng tài chính Mỹ, châm ngòi cho khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007: 3 Kể từ khủng hoảng, rất nhiều nghiên cứu về nợ dưới chuẩn của Mỹ đã được thực hiện. “Báo cáo về khủng hoàng tài chính”, Ủy ban quốc gia Mỹ, 2011; “Báo cáo về cho vay duwis chuẩn” Bộ phận phát triển nhà ở và đô thị Mỹ, 2012; “Cho vay trả góp không có trách nhiệm đã mở cửa cho những rủi ro”, Goolsbee, Austan, 2007; “tại sao những người cho vay dưới chuẩn lại gặp khó khăn, vướng mắc”, Peterr Coy, 2007; “Sự bùng nổ và sụp đổ của cho vay dưới chuẩn”, Ngân hàng dự trữ liên bang Dallas, 2007… Những nghiên cứu này đã làm rõ bản chât của cho vay dưới chuẩn, thực chất liên quan tới chất lượng tín dụng của người vay và các hệ lụy đi kèm. Những người vay dưới chuẩn và những khoản tín dụng dưới chuẩn thực chất là những người đi vay và khoản nợ có điểm số tín nhiệm thấp, không đạt chuẩn, do đó tiềm ẩn nguy cơ không trả được nợ rất cao. Điều đó cũng có nghĩa, khả năng thu hồi vốn đối với nhóm này thấp, hiệu quả tín dụng không đảm bảo. Nghiên cứu, ban hành các nguyên tắc quản lý rủi ro tín dụng: Sau khủng hoảng nợ dưới chuẩn của Mỹ, để ngăn chặn tình trạng này tái diễn, tăng cường hiệu quả tín dụng, thể hiện ở việc tối đa hóa tỷ lẹ thu hồi, FDIC đã nghiên cứu và ban hành 17 nguyên tắc quản lý RRTD cơ bản. Bên cạnh đó, các nghiên cứu về mô hình kiểm chứng mức độ chịu đựng rủi ro tín dụng của các NHTM cũng đã được thực hiện (Stress test of credit risk). Những nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào việc thực hiện kiểm tra mức độ chịu đựng của hệ thống NHTM trong các kịch bản kinh tế vĩ mô khác nhau, kéo theo chất lượng tín dụng ở một mức nhất định và khả năng chịu đựng của NHTM ứng với chất lượng tín dụng đó – bao gồm cả qui mô nợ xấu và khả năng mất vốn (“Mô hình kiểm chứng mức độ chịu đựng rủi ro tín dụng đối với hệ thống NHTM Brazil”, Banco Central Do Brasil, 2010; “Kiểm chứng mức độ chịu đựng rủi ro tín dụng “, Ngân hàng thế giới, 2013). 2.2 Một số nghiên cứu trong nước có liên quan - Các nghiên cứu về hiệu quả tín dụng NHTM: Một số nghiên cứu điển hình là “Các giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng của NHTM Việt nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế”, Trần Thị Xuân Hương, 2004; “Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHTMCP ngoài quốc doanh Việt Nam”, Nguyễn Tiên Phong, 2008; “Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng tại NHTMCP Xuất nhập khẩu 4 Việt Nam”, Vũ Hoài Nam, 2006; “Nâng cao hiệu quả tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Hà nội tại NHTMCP Quốc tế Việt nam”, Nguyễn Thị Ngọc Thanh, 2004… Các nghiên cứu này chưa cập nhật môi trường kinh doanh ngân hàng trong các năm gần đây. Hơn nữa, những nghiên cứu này cũng chưa tập trung thích đáng tới các nội dung quản trị NHTM hiện đại có tác động đáng kể tới hiệu quả tín dụng ngân hàng. - Một số nghiên cứu về chất lượng tín dụng: “Nâng cao chất lượng tín dụng tại NHTMCP Ngoại thương Việt Nam trong quá trình hội nhập”, Nguyễn Thị Thu Đông, 2012; “ Những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng tín dụng của NHTM Việt nam”, Trần Thị Hồng Hạnh, 1996… Những nghiên cứu này đặt trọng tâm ở việc làm rõ khái niệm, bản chất, các chỉ tiêu đo lường chất lượng tín dụng, thực trạng chất lượng tín dụng của các phạm vi nghiên cứu và đề xuất hệ thống giải pháp ở góc độ qui mô hoạt động, hệ thống thông tin, chính sách đầu tư, tiềm lực nguồn vốn… - Một số nghiên cứu về hiệu quả sử dụng vốn: “Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các NHTM trên địa bàn Hà nội trong tiến trình hội nhập kinh tế”, Đàm Hồng Phương, 2009; “Giải pháp đa dạng hóa các hình thức huy động và sử dụng vốn của NHTMCP Công thương Việt nam”, Nguyễn Văn Thạnh, 2001; … Nghiên cứu về hiệu quả huy động và sử dụng vốn có tính tới việc cân đối giữa huy động và sử dụng vốn. Tuy vậy, nghiên cứu này được thực hiện cho những năm 1990, không cập nhật với những thay đổi trong nền kinh tế thời gian qua. - Các nghiên cứu về rủi ro tín dụng, quản trị rủi ro tín dụng “Những giải pháp chủ yếu hạn chế rủi ro tín dụng NHTM”, Nguyễn Hữu Thủy; “Các biện pháp của NHTM nhằm hạn chế rủi ro trong cho vay đối với các doanh nghiệp”, Lê Thị Hiệp Thương; “Luận cứ khoa học về xác định mô hình quản lý rủi ro tín dụng tại hệ thống NHTM Việt Nam”, Lê Thị Huyền Diệu, 2010; “Giải pháp nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng của NHTMCP Công Thương”, Phạm Xuân Hòe; “Khung quản trị rủi ro tín dụng đối với các NHTM Việt Nam”, TS. Phạm Huy Hùng, 2008… 5 Những nghiên cứu này đặt trọng tâm vào rủi ro tín dụng, quyết định hiệu quả tín dụng, nhưng không hoàn toàn đồng nghĩa với hiệu quả tín dụng. - Các nghiên cứu về vấn đề an toàn trong cho vay, bảo đảm tiền vay “Đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng của các NHTM trên địa bàn thành phố Hồ chí Minh”, Lê Tấn Phước… “Hoàn thiện phương pháp xếp hạng tín nhiệm các doanh nghiệp vay vốn tại NHTM Việt nam”, Trần Thị Kỳ; “Xây dựng mô hình xếp hạng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế chuyển đổi”, Nguyễn Trọng Hòa, 2009; “Phương pháp xếp hạng tín dụng nội bộ”, TS. Phạm Huy Hùng… Đây là công cụ hiện đại, được triển khai vào hỗ trợ việc thẩm định, đánh giá khách hàng trên cơ sở ứng dụng các phần mềm CNTT vào kinh doanh NHTM. Việc nghiên cứu, ứng dụng công cụ này không chỉ tạo thêm một kênh đánh giá, thẩm định khách hàng cho NHTM, mà vấn đề quan trọng là có thể đánh giá nhanh, thuận tiện cho khách hàng; đánh giá một cách khách quan và nhất quán trong toàn hệ thống. Các nội dung nghiên cứu chính tập trung vào hệ thống các tiêu chí đánh giá; trọng số cho mỗi tiêu chí và nguồn thông tin đầu vào, vấn đề cập nhật thông tin, làm sạch thông tin… - Các nghiên cứu về xử lý nợ xấu: Ở góc độ hẹp hơn, một số nghiên cứu tập trung vào việc sử lý nợ xấu: “Nghiên cứu nợ xấu tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam” (Nguyễn Tuấn Anh, 2004; Bùi Thị Thu Lan, 2005; Vũ Hữu Biên, 2010); “Nghiên cứu nợ xấu tại NHTMCP Ngoại thương Việt nam” (Nguyễn Thành Đô, 2005; Cù Hoài Thanh, 2010;); “Nghiên cứu nợ xấu tại ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam” (Nguyễn Huy Hoàng, 2007; Nguyễn quốc Việt, 2008). Như vậy, có thể nói cho tới nay, nghiên cứu về hiệu quả tín dụng, chất lượng tín dụng, các vấn đề rủi ro tín dụng, an toàn tín dụng đã được thực hiện ở nhiều góc độ khác nhau, thời gian khác nhau. Tuy vậy, phần lớn các nghiên cứu này tập trung vào hiệu quả tín dụng và các vấn đề có liên quan trong thời gian trước đây. Chỉ một vài nghiên cứu cập nhật đến năm 2012. Nghiên cứu về hiệu quả tín dụng đặt trong bối cảnh mở cửa, với nhiều cơ hội phát triển kinh tế nói chung, khu vực tài chính – ngân hàng nói riêng, nhưng đồng thời chịu sự tác động trực tiếp của khủng hoảng 6 tài chính toàn cầu 2008 và những điều chỉnh nhanh, mạnh về cơ chế, chính sách vĩ mô (điển hình là chính sách tín dụng, chính sách lãi suất, chính sách quản lý vàng, ngoại hối…) nhằm ổn định kinh tế, hướng tới phát triển bền vững, kéo theo những rủi ro lớn đối với khu vực kinh doanh tiền tệ… chưa được thực hiện một cách bài bản. Thêm vào đó, các nội dung về quản trị NHTM hiện đại, trong đó có quản trị rủi ro tín dụng từ góc độ cân đối tài sản nợ - tài sản có về qui mô, cơ cấu kỳ hạn, cơ cấu đồng tiền, cơ cấu lãi suất… còn rất hạn chế. Trong khi đó đây lại là những rủi ro có tác động lớn tới chi phí, lợi nhuận và cả vấn đề thanh khoản của ngân hàng thời gian qua. NHTMCP Á Châu là ngân hàng chịu tác động lớn của việc điều chỉnh cơ chế, chính sách thời gian qua và thực tế hiệu quả tín dụng của ngân hàng này đã bị suy giảm đáng kể. Trong bối cảnh đó, việc lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng tại NHTMCP Á Châu trong điều kiện cạnh tranh trên thị trường vốn Việt Nam” là cấp thiết, với mục đích sẽ cập nhật các vấn đề kinh tế - xã hội gần đây nhất có tác động tới hiệu quả tín dụng, đồng thời bao phủ các khía cạnh quản trị NHTM hiện đại có tác động đáng kể tới hiệu quả tín dụng, đặc biệt trong trường hợp NHTMCP Á Châu, với sự cố lớn trong huy động và cho vay vàng thời gian qua, cũng như tập trung chủ yếu vào khối khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ. 3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Mục đích nghiên cứu là đề xuất hệ thống giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng tại NHTMCP Á Châu trong điều kiện canh tranh trên thị trường vốn Việt nam. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để giải quyết mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án là: · Tổng hợp, làm rõ các vấn đề lý luận về nâng cao hiệu quả tín dụng NHTM trong điều kiện canh tranh trên thị trường vốn Việt nam. · Tổng hợp kinh nghiệm trong và ngoài nước liên quan tới nâng cao hiệu quả tín dụng NHTM. · Phân tích thực trạng hiệu quả tín dụng tại NHTMCP Á Châu trong điều kiện thị trường vốn Việt nam giai đoạn 2007 -2013, xác định cụ thể những mặt được, chưa được và nguyên nhân. 7 · Đề xuất quan điểm, hệ thống giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng tại NHTMCP Á Châu trong bối cảnh thị trường vốn Việt nam giai đoạn tới. 4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu: luận án xác định đối tượng nghiên cứu là hiệu quả tín dụng NHTM trong điều kiện canh tranh trên thị trường vốn Việt nam. Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu các vấn đề lý luận trong và ngoài nước về hiệu quả tín dụng NHTM trong điều kiện canh tranh trên thị trường vốn; nghiên cứu thực trạng hiệu quả tín dụng của NHTM Á Châu trong điều kiện thị trường vốn Việt Nam giai đoạn 2007 – 2013, so sánh với các đối thủ cạnh tranh chính trên thị trường; Đề xuất giải pháp đến năm 2020. 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, xem xét sự vật, hiện tượng trong trạng thái luôn phát triển, mở rộng ứng với các điều kiện, môi trường có liên quan. Phương pháp thống kê so sánh: Sử dụng hệ thống thông tin dữ liệu về hoạt đọng của ngân hàng, về môi trường kinh doanh, từ đó áp dụng các biện pháp phân tích theo chuỗi thời gian, phân tích cơ cấu, phân tích tương quan để rút ra các nhận định có tính chất định lượng về vấn đề nghiên cứu. Phương pháp phân tích, tổng hợp: Trên cơ sở thông tin, dữ liệu về đối tượng nghiên cứu, các tài liệu thứ cấp hiện có của đối tượng nghiên cứu, tiến hành phân tích định tính, tổng hợp, khái quát các vấn đề nghiên cứu. 6. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN Luận án đã tổng hợp làm rõ các vấn đề cơ bản về hiệu quả tín dụng NHTM trong điều kiện cạnh tranh trên thị trường vốn Việt Nam, đặc biệt tập trung làm rõ nội hàm của hiệu quả tín dụng trên cơ sở phân tích khái niệm hiệu quả trong kinh doanh, hệ thống các tiêu chí đo lường, từ đó tập trung vào các nhân tố có tác đông tới hiệu quả tín dụng; Tổng hợp kinh nghiệm nâng cao hiệu quả tín dụng NHTM ở một số nước trên thế giới, một số NHTM lớn của Việt Nam, điển hình là kinh nghiệm tăng cường công tác quản trị NHTM thông qua việc khuyến khích các NHTM niêm yết trên sàn, mở cửa thị trường khu vực tài chính – ngân hàng và chuẩn hóa nghiệp vụ 8 tín dụng của Trung quốc; kinh nghiệm về nợ dưới chuẩn của Mỹ và tác động tiêu cực của hệ thống chám điểm tự động, cùng 17 nguyên tắc cơ bản trong quản lý rủi ro tín dụng của FDIC; kinh nghiệm điều chỉnh linh hoạt cơ chế, chính sách tín dụng và tập trung hóa quản lý, điều hành… của Vietinbank; Phân tích chi tiết thực trạng hiệu quả tín dụng của NHTMCP Á Châu điều kiện thị trường vốn Việt nam giai đoạn 2007 – 2013, cung cấp một bức tranh toàn diện về hiệu quả tín dụng của NHTMCP Á Châu cả ở góc độ tác động của môi trường kinh doanh; hệ thống quản trị và công tác điều hành, tác nghiệp tại ngân hàng trong môi trường kinh doanh có nhiều biến động thời gian qua; chỉ rõ các mặt đạt được, hạn chế và nguyên nhân, từ đó đề xuất năm nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng tại NHTMCP Á Châu giai đoạn đến 2020, vượt qua tình trạng khó khăn của nền kinh tế đang đi kèm với nhu cầu tín dụng giảm, chất lượng tín dụng xấu đi. 7. KẾT CẤU LUẬN ÁN Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án được kết cấu gồm 3 chương, chi tiết như sau: Chương 1: HIỆU QUẢ TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG ĐIỀU KIỆN CẠNH TRANH TRÊN THỊ TRƯỜNG VỐN - LÝ LUẬN CƠ BẢN VÀ KINH NGHIỆM Chương 2: THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG TMCP Á CHÂU TRONG ĐIỀU KIỆN CẠNH TRANH TRÊN THỊ TRƯỜNG VỐN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2007 – 2013 Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG TMCP Á CHÂU TRONG ĐIỀU KIỆN CẠNH TRANH TRÊN THỊ TRƯỜNG VỐN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ NAY TỚI NĂM 2020 9 CHƯƠNG 1: HIỆU QUẢ TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG ĐIỀU KIỆN CẠNH TRANH TRÊN THỊ TRƯỜNG VỐN - LÝ LUẬN CƠ BẢN VÀ KINH NGHIỆM 1.1. Tổng quan về tín dụng ngân hàng thương mại trong điều kiện cạnh tranh trên thị trường vốn. 1.1.1. Các nghiệp vụ tín dụng của NHTM 1.1.1.1. Khái niệm tín dụng NHTM Quan hệ tín dụng đã hình thành và ra đời từ rất lâu, thậm chí mối quan hệ tín dụng thô sơ nhất được phát sinh ngay từ sau khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã. Khi chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất xuất hiện, cũng là đồng thời xuất hiện quan hệ trao đổi hàng hóa. Thời kỳ này, tín dụng được thực hiện dưới hình thức vay mượn bằng hiện vật - hàng hóa. Trong nền kinh tế hàng hoá, tại một thời điểm, luôn có một số người tạm thời thừa vốn, có vốn tạm thời nhàn rỗi và có nhu cầu cho vay, trong khi cũng có một số người tạm thời thiếu vốn, có nhu cầu đi vay. Hiện tượng này làm nảy sinh mối quan hệ kinh tế mà nội dung của nó là vốn được dịch chuyển từ nơi tạm thời thừa sang nơi thiếu với điều kiện hoàn trả và có thêm một phần dôi ra, được biết đến là lợi tức, lãi (đối với người chuyển dịch vốn tạm thời nhàn rỗi) và chi phí của việc sử dụng vốn (đối với người tạm thời thiếu vốn, sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi của người tạm thời có vốn nhàn rỗi). Đây chính là quan hệ tín dụng. Như vậy tín dụng là quan hệ vay mượn giữa các chủ thể dựa trên nguyên tắc hoàn trả kèm theo lợi tức, nó để thoả mãn nhu cầu của cả hai bên, là một quan hệ bình đẳng, cả hai bên cùng có lợi và mang tính thoả thuận. Nghiên cứu bản chất tín dụng của Mark cho rằng, tín dụng là sự chuyển nhượng quyền sử dụng một lượng giá trị (dưới hình thái tiền tệ hay hiện vật ) trong một thời hạn nhất định từ người sở hữu sang người sử dụng và được hoàn trả khi đến hạn với một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu. Khoản dôi ra này được gọi là lợi tức tín dụng. Khác với các quan hệ kinh tế khác, sự chuyển nhượng trong quan hệ tín dụng chỉ là sự chuyển nhượng quyền sử dụng tư bản trong một thời nhất định mà không hề có sự chuyển nhượng quyền sở hữu giữa người đi vay và người cho vay. 10 Thực chất, tín dụng là biểu hiện mối quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tín dụng nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu vốn tạm thời cho quá trình tái sản xuất và đời sống, theo nguyên tắc hoàn trả [6,7]. Tín dụng là một phạm trù kinh tế và nó cũng là sản phẩm của nền kinh tế hàng hóa. Tín dụng ra đời, tồn tại qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội. Quá trình sản xuất và lưu thông ngày càng phát triển, thì đòi hỏi về vốn của các chủ thể trong nền kinh tế ngày càng lớn, đa dạng và phức tạp. Bởi vậy tín dụng ngân hàng đã ra đời, phát triển và ngày càng trở thành nguồn cung cấp tín dụng chủ yếu cho nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng là mối quan hệ vay mượn giữa ngân hàng với tất cả các cá nhân, tổ chức và các doanh nghiệp khác trong xã hội. Nó không phải là quan hệ dịch chuyển vốn trực tiếp từ nơi tạm thời thừa sang nơi tạm thời thiếu mà là quan hệ dịch chuyển vốn gián tiếp thông qua một tổ chức trung gian, đó là ngân hàng. Tín dụng ngân hàng cũng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng, đó là quan hệ vay mượn có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định, là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn và là quan hệ bình đẳng cả hai bên cùng có lợi. Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân hàng – một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ - với một bên là các tổ chức, cá nhân trong xã hội, trong đó ngân hàng vừa là người đi vay, vừa là người cho vay. Bản chất của tín dụng ngân hàng là sự vận động của vốn tiền tệ thông qua các ngân hàng. Ngân hàng bằng các nghiệp vụ và các hình thức huy động vốn khác nhau huy động lượng tiền nhàn rỗi trong lưu thông, tạo thành nguồn vốn lớn. Đồng thời, ngân hàng sử dụng chính nguồn vốn này để đem cho vay. Vì vậy, NHTM còn được gọi là trung gian tài chính – tiền tệ trong các nền kinh tế, là cầu nối giữa người có vốn và người cần vốn. [4,7, 20,21,22] Nói đến tín dụng ngân hàng là đề cập đến cả “đi vay” lẫn “cho vay”. Tuy nhiên, trên thực tế, do tính chất phức tạp của hoạt động ngân hàng mà hoạt động nhận tiền gửi và hoạt động cho vay laị được tách riêng. Hoạt động nhận tiền gửi là hoạt động “huy động vốn”. Bộ phận tín dụng phụ trách mảng cho vay. Điều 20 luật các tổ chức tín dụng qui định “Hoạt động tín dụng là việc các TCTD sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng” và “Cấp tín dụng là việc TCTD thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên 11 tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác”.[9] Trong phạm vi của luận án, tín dụng chủ yếu được xem xét ở khía cạnh NHTM cung cấp tín dụng cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội dưới hình thức cho vay. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng bị chi phối, ràng buộc chặt chẽ bởi hoạt động huy động vốn. Vì vậy, huy động vốn cũng sẽ được phân tích, đánh giá ở những khía cạnh phù hợp. 1.1.1.2. Vai trò tín dụng ngân hàng: · Tín dụng là công cụ thúc đẩy quá trình tái sản xuất mở rộng Vai trò quan trọng của tín dụng là đáp ứng vốn có hiệu quả và kịp thời để duy trì quá trình tái sản xuất, đồng thời góp phần đầu tư phát triển kinh tế. Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thực tế luôn có sự chênh lệch về thời gian cũng như về khối lượng giữa lượng tiền cần thiết để dự trữ vật tư hàng hoá cho quá trình sản xuất kinh doanh tiếp theo với lượng tiền thu được từ việc tiêu thụ hàng hoá của chu kỳ sản kinh doanh trước đó. Điều này dẫn tới việc luân chuyển tiền tệ của doanh nghiệp lúc thừa lúc thiếu. Ngay cả việc thu chi ngân sách nhà nước cũng thường xuyên có sự chênh lệch giữa thời gian thu chi. Vì vậy khi nguồn vốn doanh nghiệp tạm thời dư thừa cùng với các nguồn tiết kiệm nhàn rỗi từ dân cư, nguồn kết dư từ ngân sách nhà nước….đã được NHTM tận dụng huy động và sử dụng vốn huy động đó để đầu tư cho các doanh nhiệp khác đang trong tình trạng thiếu vốn, cá nhân có nhu cầu tiêu dùng tạm thời vượt quá thu nhập của họ và cho yêu cầu chi tiêu của ngân sách Nhà nước trong lúc chưa có nguồn thu ngân sách kịp thời….Như vậy tín dụng ngân hàng đã góp phần điều hoà vốn một cách có hiệu quả trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế. · Tín dụng góp phần thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn, mở rộng đầu tư kinh doanh; Tín dụng thúc đẩy quá trình tập trung vốn. Các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ rất nhiều các chủ thể khác nhau với qui mô khác nhau sẽ được NHTM tập trung lại qua việc huy động và trở thành lượng vốn lớn. Thông qua việc các ngân hàng thương mại tập trung vốn và ưu tiên cho vay một lượng vốn rất lớn cho các ngành kinh tế trọng điểm, mũi nhọn góp phần nâng cao sức mạnh cạnh tranh cho nền kinh 12 tế, nâng cao giá trị sản phẩm, tăng GDP, sản xuất ra những hàng hoá chiến lược tăng cường hội nhập quốc tế. · Tín dụng là công cụ thúc đẩy chế độ hạch toán kinh doanh, tăng cường việc quản lý tài chính, tăng tích luỹ đối với doanh nghiệp. Các tổ chức kinh tế khi vay vốn họ phải cân nhắc về hiệu quả vốn vay mang lại- họ chỉ vay vốn khi biết rằng có lãi. Mặt khác khi ngân hàng cho vay, trước đó, họ phải thực hiện công việc phân tích tín dụng: phân tích các khả năng tài chính, năng lực tài chính…qua các báo cáo tài chính. Điều này buộc các doanh nghiệp phải tăng cường hạch toán kinh tế, quản lý tài chính và tích luỹ vốn để có thể hoàn trả vốn cho ngân hàng. · Tín dụng ngân hàng thực hiện vai trò trung gian trong chuyển đổi kỳ hạn, rủi ro, đáp ứng các nhu cầu đa dạng của nền kinh tế. Tín dụng trực tiếp, ở những góc độ nhất định, đã đáp ứng được các nhu cầu tạm thời thừa, thiếu vốn của các chủ thể trong nền kinh tế. Tuy vậy, quan hệ tín dụng trực tiếp gặp nhiều giới hạn về quy mô, thời gian, không gian, sự ăn khớp về các nhu cầu này giữa hai chủ thể cụ thể… Thêm vào đó rủi ro do khó kiểm soát người vay cũng hạn chế việc cho vay và có thể đẩy lãi suất lên cao. Các trung gian tài chính với khả năng chuyên môn hoá trong các hoạt động của mình có khả năng thực hiệ vai trò cầu nối hiệu quả, không chỉ giải quyết được những hạn chế về qui mô, thời gian, không gian…, mà còn quản lý rủi ro thận trọng, giúp người cho vay chuyển được rủi ro, có động lực tiết kiệm và tham gia nhiều hơn vào hoạt động cung nguồn vốn, giúp người vay tiếp cận được các nguồn vốn theo nhu cầu với chi phí hợp lý hơn, khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. · Tín dụng ngân hàng là công cụ của Nhà nước để điều tiết khối lượng đầu tư giữa các ngành trong nền kinh tế. Một trong những chức năng quan trọng của NHTM là tạo phương tiện thanh toán. Khi các ngân hàng cho vay (hay tạo tín dụng) các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán. Ngược lại khi các NHTM thu hẹp tín dụng lượng cung ứng tiền sẽ giảm xuống. Do đó tín dụng ngân hàng được Nhà nước sử dụng như là một công cụ để điều tiết khối lượng tiền tệ lưu thông thông qua việc thực hiện các chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước. 13 · Tín dụng ngân hàng là cầu nối giữa nền kinh tế trong nước với nước ngoài thúc đẩy quá trình mở rộng, tăng cường mối quan hệ hợp tác kinh tế trong khu vực và trên thế giới. 1.1.1.3. Đặc trưng của tín dụng ngân hàng: · Tín dụng ngân hàng là sản phẩm dịch vụ vô hình. Khách hàng sử dụng tín dụng ngân hàng cùng với qúa trình cung ứng dịch vụ của ngân hàng. Thời hạn sử dụng dịch vụ gắn liền với thời gian cung cấp dịch vụ của ngân hàng. Ngân hàng chỉ thu được đầy đủ chi phí và lãi từ khoản tín dụng khi khách hàng kết thúc việc sử dụng sản phẩm tín dụng của ngân hàng. · Tín dụng ngân hàng thực hiện cho vay dưới hình thức tiền tệ. Ngân hàng cung cấp tín dụng dưới hình thái tiền tệ, đáp ứng nhu cầu của mọi đối tượng cần vốn trong nền kinh tế. · Tín dụng ngân hàng được thực hiện chủ yếu bằng nguồn vốn huy động Ngân hàng hoạt động với tính chất là trung gian tài chính trong nền kinh tế, đi vay, huy động của các thành phần trong xã hội, để cho vay. Nguồn vốn tự có của ngân hàng chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng tài sản của ngân hàng và chủ yếu để phát triển hạ tầng vật chất, kỹ thuật của chính ngân hàng. · Tín dụng ngân hàng đa dạng về qui mô Tín dụng ngân hàng có thể thoả mãn một cách tối đa nhu cầu về vốn của các tác nhân và thể nhân khác trong nền kinh tế vì nó có thể huy động nguồn vốn bằng tiền nhàn rỗi trong xã hội dưới nhiều hình thức và khối lượng lớn. · Tín dụng ngân hàng có thời hạn cho vay phong phú Ngân hàng có thể cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, do ngân hàng có khả năng chuyển kỳ hạn của các nguồn vốn khác nhau, tạo nguồn cho vay với thời hạn khác nhau. 1.1.1.4. Phân loại tín dụng ngân hàng : Tín dụng ngân hàng được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau. * Phân loại tín dụng ngân hàng theo hình thức tài trợ: a/ Cho vay : Cho vay là hình thức tín dụng trong đó ngân hàng sẽ giao một khoản tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong một khoảng thời gian xác định. Cho vay là hình thức phổ biến và truyền thống trong 14 nghiệp vụ tín dụng, mang lại nhiều lợi nhuận nhất so với các nghiệp vụ khác trong hoạt động ngân hàng. Cho vay lại được chia nhỏ thành: - Thấu chi: Đây là nghiệp vụ cho vay trong đó ngân hàng cho phép khách hàng (người vay) được phép chi trội (vượt ) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định, trong một khoảng thời gian xác định . Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. Đây là một hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, có thể cấp cho cả các cá nhân và doanh nghiệp trong các khoảng thời gian khác nhau. Tuy nhiên hình thức này chỉ được áp dụng cho những khách hàng có độ tin cậy, thu nhập đều đặn với chu kỳ ngắn. - Cho vay trực tiếp từng lần: trong cho vay từng lần, khách hàng và ngân hàng phải thực hiện toàn bộ các thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng co mỗi lần vay. Cho vay trực tiếp từng lần là một hình thức cho vay chủ yếu và tương đối phổ biến của NHTM. Đối tượng áp dụng là những khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có đủ điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi, cho vay hạn mức. - Cho vay luân chuyển: Cho vay luân chuyển là nghiệp vụ cho vay dựa trên sự luân chuyển của hàng hoá. Trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp mua hàng hoá có thể thiếu vốn, cần vay vốn từ ngân hàng và hoàn trả khi doanh nghiệp bán được hàng. Cho vay luân chuyển thường được áp dụng với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có chu kỳ tiêu thụ đều đặn, ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên đối với ngân hàng. - Cho vay theo hạn mức tín dụng: Cho vay theo hạn mức tín dụng là nghiệp vụ cho vay trong đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng một hạn mức tín dụng được duy trì trong một khoảng thời gian nhất định. Nếu hạn mức tín dụng được tính cho cả kỳ, thì doanh nghiệp có thể vay làm nhiều lần nhưng số dư nợ tại bất kỳ thời điểm nào trong kỳ cũng không được vượt quá hạn mức tín dụng. Nếu hạn mức tín dụng tính tại cuối kỳ, thì dư nợ trong kỳ có thể lớn hơn hạn mức nhưng đến cuối kỳ thì dư nợ không được vượt quá hạn mức. Cho vay theo hạn mức tín dụng được sử dụng cho các khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh, có uy tín đối với ngân hàng. 15 - Cho vay gián tiếp: Cho vay gián tiếp là hình thức cho vay thông qua các trung gian. Cho vay gián tiếp được áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán…do đó cho vay qua trung gian sẽ có thể tiết kiệm được chi phí cho vay. - Cho vay trả góp: Cho vay trả góp là hình thức tín dụng trong đó khách hàng được phép hoàn trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Hình thức cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay có giá trị lớn, kỳ trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng hoá lâu bền như mua ô tô, mua nhà. b/ Chiết khấu thương phiếu, giấy tờ có giá: Thương phiếu, giấy tờ có giá được hình thành trong quá trình mua bán chịu giữa người mua và người bán, hoặc hình thành từ các giao dịch vay mượn của các chủ thể trong nền kinh tế. Người bán hay người thụ hưởng thương phiếu, GTCG có thể giữ thương phiếu, GTCG đến hạn và nhận thanh toán từ người mua hay người phải trả; hoặc đem chiết khấu trước hạn tại ngân hàng. Chiết khấu là hình thức tín dụng trong đó ngân hàng sẽ ứng trước tiền cho người thụ hưởng thương phiếu, GTCG tương ứng với giá trị thương phiếu, GTCG trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn. Đến hạn ngân hàng có quyền đòi tiền từ người mua (người phải trả), hoặc có quyền truy đòi đối với các bên có ký tên trên thương phiếu nếu người phải trả không thực hiện nghĩa vụ thanh toán. c/ Bảo lãnh: Bảo lãnh của ngân hàng là việc ngân hàng sẽ cam kết dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện thay cho khách hàng của mình các nghĩa vụ tài chính khi khách hàng không thực hiện các nghĩa vụ như cam kết với đối tác. d/ Cho thuê ( thuê- mua tài sản ): Cho thuê là việc các ngân hàng thương mại bỏ tiền mua các tài sản theo yêu cầu của khách hàng để cho khách hàng thuê theo những thoả thuận nhất định. Cho thuê có hai hình thức chủ yếu là cho thuê nghiệp vụ và cho thuê tài chính. Việc cho thuê nghiệp vụ đáp ứng nhu cầu thuê trong thời gian ngắn còn cho thuê tài chính đáp ứng cho các nhu cầu sử dụng lâu dài và người đi thuê có quyền mua lại tài sản khi hết hợp đồng thuê. Trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại thì hoạt động cho thuê chủ yếu là cho thuê tài chính. Luận văn đặt trọng tâm vào hình thức cho vay trong hoạt động tín dụng NHTM. 16 * Phân loại tín dụng ngân hàng theo sự bảo đảm tín dụng: a/ Tín dụng không có tài sản bảo đảm (tín chấp). Tín dụng không có tài sản bảo đảm, như tên gọi, là loại tín dụng không có tài sản cầm cố, thế chấp hay bảo lãnh của bên thứ ba, là loại tín dụng dựa trên uy tín của bản thân khách hàng. Hình thức tín dụng này chỉ được cấp cho các khách hàng có quan hệ tốt với ngân hàng, khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính lành mạnh, vững chắc, luôn thực hiện đầy đủ, kịp thời các nghĩa vụ tài chính đã phát sinh với ngân hàng. b/ Tín dụng có tài sản bảo đảm: Đối với loại tín dụng này khi khách hàng vay vốn phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc có bảo lãnh của bên thứ ba. Tín dụng có bảo đảm yêu cầu ngân hàng và khách hàng của mình phải ký hợp đồng bảo đảm tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm tra, đánh giá tài sản bảo đảm về các nội dung như quyền sở hữu, giá trị thị trường, khả năng bán tài sản, khả năng tài chính của bên bảo lãnh… để có thể giám sát và bảo quản tài sản bảo đảm, thanh lý tài sản khi khách hàng không trả nợ. * Phân loại tín dụng ngân hàng theo độ rủi ro: Tín dụng ngân hàng phân theo độ rủi ro thường bao gồm các khoản tín dụng có độ an toàn cao, khá, trung bình và thấp. Tùy theo pháp luật của từng nước, từng thời kỳ, thậm chí là khẩu vị rủi ro của từng ngân hàng, các tiêu chí cụ thể về mức độ rủi ro là cao, thấp, trung bình… sẽ khác nhau. Thông thường, việc phân loại tín dụng theo mức độ rủi ro gồm: a/ Tín dụng có độ an toàn cao hay lành mạnh: là các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao, khách hàng có quan hệ tín dụng tốt với ngân hàng, không có các dấu hiệu cho thấy khoản tín dụng sẽ diễn ra không theo các điều khoản tín dụng đã cam kết. b/ Tín dụng có vấn đề: thường là các khoản tín dụng vẫn trong thời gian hiệu lực, nhưng có dấu hiệu cho thấy các điều khoản tín dụng cam kết có thể không được thực hiện, vì dụ ngành hàng của khách hàng có xu hướng tăng trưởng chậm lại, khách hàng chậm tiêu thụ hàng hoá, trì hoãn nộp các báo cáo tài chính, gặp thiên tai, rủi ro… c/ Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: đây là các khoản nợ đã quá hạn nhưng cón tiềm năng thu hồi được nếu có các giải pháp thích hợp từ phía khách hàng hoặc/và phía ngân hàng; có tài sản đảm bảo giá trị lớn… 17 d/ Nợ quá hạn khó đòi: là các khoản nợ quá hạn đã lâu, khả năng trả nợ kém, các khoản thế chấp có giá trị nhỏ, mất giá.. * Phân loại tín dụng ngân hàng theo kỳ hạn tín dụng: - Theo kỳ hạn, tín dụng ngân hàng thường được phân thành 3 loại sau: a/ Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm, thường được sử dụng vào nghiệp vụ thanh toán, cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của các doanh nghiệp hay cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng của cá nhân. Thời gian và kỳ thu nợ trong cho vay ngắn hạn được xác định phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng. b/ Tín dụng trung hạn: có thời hạn từ 1 đến 5 năm, được dùng để cho vay vốn phục vụ nhu cầu mua sắm tài sản cố định, cải tiến đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các công trình nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh. Ngân hàng còn cấp tín dụng trung hạn đối với người tiêu dùng nhằm thoả mãn các yêu cầu mua sắm một số hàng tiêu dùng lâu bền như nhà cửa, ô tô, các phương tiện khác… c/ Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, được sử dụng để cung cấp vốn cho xây dựng cơ bản, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn, sử dụng lâu dài… Thời hạn cho vay và kỳ thu nợ trong cho vay trung hạn, dài hạn được xác định phù hợp với thời hạn thu hồi của vốn đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và tính chất nguồn vốn cho vay của tổ chức tín dụng. Ngoài ra còn có tín dụng không xác định kỳ hạn. Tín dụng không xác định kỳ hạn là khoản tín dụng được ứng dụng đối với khoản vay không xác định rõ thời hạn trả nợ. * Phân loại tín dụng ngân hàng căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay Theo tiêu chí này, tín dụng ngân hàng chia thành 2 loại: a/ Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: là loại tín dụng được cung cấp cho các doanh nghiệp để họ tiến hành sản xuất và kinh doanh. b/ Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng được cấp phát cho cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. Loại tín dụng này thường được dùng để mua sắm nhà cửa, xe cộ, các thiết bị gia đình... Tín dụng tiêu dùng ngày càng có xu hướng tăng lên. 18 1.1.2. Thị trường vốn và vai trò của thị trường vốn đối với các NHTM 1.1.2.1. Khái quát thị trường vốn Theo từ điển Wikipedia, the free encyclopedia [24], thị trường vốn nghĩa rộng nhất bao gồm một loạt các kênh mà qua đó các khoản tiết kiệm của cộng đồng được dẫn vào cho các doanh nghiệp công nghiệp và thương mại, khu vực công cộng. Ở góc độ này, thị trường vốn còn được hiểu là cầu nối tiết kiệm với đầu tư giữa các nhà cung cấp vốn có tổ chức, các cá nhân, hộ gia đình với những người sử dụng vốn là doanh nghiệp, chính phủ và thể nhân. Theo nghĩa rộng này, thị trường vốn bao gồm tất cả các kênh dẫn vốn trực tiếp (thị trường chứng khoán, trong đó có thị trường cố phiếu, thị trường trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp) và thị trường dẫn vốn gián tiếp thông qua trung gian tài chính. Ở góc độ hẹp hơn, thị trường vốn được hiểu là thị trường của các giao dịch tài chính dài hạn, thường là trên 12 tháng. Thị trường vốn khi đó bao gồm thị trường chứng khoán và thị trường tín dụng trung dài hạn. Với khái niệm này, thì thị trường vốn được phân biệt với thị trường tiền tệ - thị trường cho các giao dịch tài chính ngắn hạn, dưới 12 tháng. Thị trường vốn cũng được hiểu là nơi giao dịch mua – bán và chuyển nhượng các loại vốn trung và dài hạn, thể hiện bằng các công cụ chuyển tải vốn, giữa các chủ thể trong phạm vi không gian và thời gian xác định. Trên thực tế, thị trường vốn được hiểu là thị trường giao dịch các công cụ công cụ tài chính có kỳ hạn từ 12 tháng, với mức độ rủi ro tương đối cao, gồm cổ phiếu và các công cụ nợ trung hạn, dài hạn. Ở khái niệm hẹp và chặt chẽ nhất này, thì tín dụng ngân hàng thông thường không được phân loại như là một giao dịch thị trường vốn, ngay cả khi khoản vay được kéo hơn một năm do chúng có sự khác biệt đáng kể về tính lỏng, mức độ quản lý cũng như rủi ro đi kèm. Một khoản vay ngân hàng thông thường sẽ không có tính chất chứng khoán hóa. Các khoản cho vay thông thường cũng thường chịu sự quản lý thận trọng chặt chẽ của cả NHTM và các cơ quan QLNN. Bên cạnh đó, đối tượng vay tín dụng ngân hàng thông thường nói riêng và đối tượng thực hiện các giao dịch ngân hàng, về cơ bản, cũng rất đa dạng, từ cá nhân, hộ gia đình, các doanh nghiệp siêu vi mô, các DNVVN tới các doanh 19 nghiệp lớn, trong khi đối tượng tham gia thị trường vốn chủ yếu là doanh nghiệp lớn, các nhà đầu tư có tổ chức và các nhà đầu tư bán lẻ có trình độ, chuyên môn, qui mô và thế mạnh về tài chính. Cho tới nay, hầu hết các nền kinh tế đều phát triển rất nhiều các kênh dẫn vốn khác nhau, thỏa mãn đặc thù và nhu cầu đa dạng của các chủ thể kinh tế. Tuy nhiên, nhìn lại lịch sử phát triển, thì thị trường các giao dịch tài chính ngắn hạn, thị trường tín dụng ngân hàng có xu thế giữ vai trò chủ đạo trong truyền dẫn vốn ở giai đoạn đầu phát triển của mỗi quốc gia. Một phần xuất phát từ nhu cầu, năng lực của các chủ thể trong nền kinh tế còn thấp, qui mô sản xuất kinh doanh còn khiêm tốn và khả năng kiểm soát, quản lý của bộ máy nhà nước cũng còn sơ khai. Cùng với quá trình phát triển, đặc biệt là sự phát triển của khoa học công nghệ, thị trường các giao dịch tài chính dài hạn, thị trường vốn theo nghĩa hẹp đã phát triển như một tất yếu khách quan, bổ trợ và cùng thị trường các giao dịch ngắn hạn đáp ứng các nhau cầu vốn rất khác nhau của nền kinh tế. Khi thị trường các giao dịch tài chính dài hạn phát triển đến một qui mô nhất định, thì sự tách bạch giữa thị trường tài chính dài hạn với thị trường tiền tệ là rất rõ ràng. Các chủ thể tham gia thị trường tài chính cũng có sự khác biệt lớn. Thị trường tiền tệ - giao dịch tài chính ngắn hạn - tập trung chủ yếu khách hàng bán lẻ. Các doanh nghiệp lớn, chính phủ tham gia với tính chất cung các khoản tiết kiệm ngắn hạn, tiền gửi thanh toán để thực hiện các dịch vụ thanh toán và các khoản vay tạm thời. NHTM là thể chế tài chính chi phối trên thị trường này. Ngược lại, đối với thị trường vốn theo nghĩa hẹp, thể chế tài chính gồm nhiều loại, như các công ty chứng khoán, quỹ lương hưu và các quỹ tương hỗ, các tổ chức xếp hạng… Khách hàng ở đây chủ yếu là các doanh nghiệp lớn, tập đoàn kinh tế, chính phủ, các cá nhân giàu có. Hệ thống các NHTM tham gia vào thị trường giao dịch tài chính dài hạn ở cả hai góc độ các nhà đầu tư, các nhà phát hành. Bên cạnh đó, họ còn có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các dịch vụ tài chính, môi giới, dịch vụ tư vấn phát hành, dịch vụ lưu ký… Trong phạm vi luận án, khái niệm thị trường vốn được sử dụng là khái niệm rộng nhất, có nghĩa thị trường vốn là cầu nối tiết kiệm với đầu tư, gồm cả thị trường trực tiếp, gián tiếp. Phạm vi đó phù hợp với đặc thù kinh tế xã hội và sự phát triển của khu vực tài chính nước ta. Hiện tại, mặc dù thị trường giao dịch tài chính dài hạn 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan