Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với hộ sản xuất tại ngân hàng Nông ngh...

Tài liệu Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với hộ sản xuất tại ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh Từ Sơn

.PDF
69
163
149

Mô tả:

CHƢƠNG 1. LÍ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƢỢNG CHO VAY HỘ SẢN XUẤT CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI 1.1. Tổng quan về hộ sản xuất 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của hộ sản xuất a. Khái niệm Hộ sản xuất (HSX) ra đời và phát triển cùng với sự hình thành, tiến bộ của nền văn minh lúa nước. Hộ sản xuất đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế hộ gia đình nói chung và nền kinh tế đất nước nói riêng. Theo quy định của Bộ luật Dân sự (Điều 106) năm 2005: “Hộ gia đình mà các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định là chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự thuộc các lĩnh vực này”. Trên góc độ ngân hàng: "Hộ sản xuất" là một thuật ngữ được dùng trong hoạt động cung ứng vốn tín dụng cho hộ gia đình để làm kinh tế chung của cả hộ. Ngày nay, hộ sản xuất đang trở thành một nhân tố quan trọng của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và là sự tồn tại tất yếu trong quá trình xây dựng một nền kinh tế đa thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, hộ sản xuất là một lực lượng sản xuất vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế của đất nước. Hộ sản xuất hoạt động trong nhiều ngành nghề nhưng hiện nay phần lớn hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn. Các hộ này tiến hành sản xuất kinh doanh đa dạng kết hợp trồng trọt với chăn nuôi và kinh doanh ngành nghề phụ. Đặc điểm sản xuất kinh doanh nhiều ngành nghề nói trên đã góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các hộ sản xuất ở nước ta. b. Đăc điểm Đặc điểm 1: Kinh tế hộ nông thôn nước ta đang chuyển từ kinh tế tự cấp, tự túc khép kín lên dần nền kinh tế hàng hóa. Nhằm tiếp cận với sự phát triển của thị trường, kinh tế hộ nông thôn đang chuyển từ nghề nông thuần túy sang nhiều lĩnh vực kinh tế khác. Dưới sự tác động của các quy luật kinh tế thị trường trong quá trình chuyển hóa tất yếu sẽ dẫn đến cạnh tranh, hệ quả là dẫn đến sự phân chia giàu nghèo trong nông thôn. Từ đó vấn đề đặt ra đối với quản lý và điều hành phía Nhà nước là phải làm sao cho phép kinh tế hộ phát triển mà vẫn đảm bảo công bằng xã hội, tăng số hộ giàu, giảm hộ nghèo, tạo điều kiện để hộ nghèo bớt khó khăn và vươn lên khá giả. Đặc điểm 2: Quy mô và cơ sở vật chất kỹ thuật của các hộ chênh lệch nhau khá lớn giữa các vùng. Ngay cả trong một số vùng cũng có sự chênh lệch nhau giữa quy 1 mô và diện tích đất đai, vốn và cơ sở vật chất kỹ thuật, lao động và trình độ hiểu biết giữa các hộ do điều kiện khó khăn và thuận lợi khác nhau giữa các vùng. Một tất yếu khác của sự phát triển kinh tế hộ sản xuất là nảy sinh quá trình tích tụ và tập trung về ruộng đất, vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật càng ngày càng tăng, giảm bớt tính chất sản xuất phân tán, manh mún lạc hậu của kinh tế tiểu nông. Đặc điểm 3: Trong quá trình chuyển hóa kinh tế hộ sản xuấ sẽ xuất hiện nhiều hình thức kinh tế khác nhau như: Hộ nhận khoán trong đó các hộ là các thành viên của các tổ chức kinh tế đó. Một loại hình kinh tế hộ khác xuất hiện đó là các hộ nhận nhận thầu. Trong quá trình nhận thầu nhìn chung phần lớn kinh tế các hộ nhận thầu phát triển nhanh, thu nhập cao rõ rệt, nhưng bên cạnh đó còn có gặp rủi ro, thất bại. 1.1.2. Phân loại hộ sản xuất Quyết định số 180/QĐ/HĐQT ngày 15 tháng 12 năm 1998 của Hội đồng quản trị Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam v/v phân loại hộ sản xuất:  Hộ chuyên sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp có tính chất tự sản, tự tiêu do cá nhân làm chủ hộ, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh của mình.  Hộ cá thể, tư nhân làm kinh tế hộ gia đình theo luật doanh nghiệp tư nhân nghị định 29 – ngày 29/3/1998.  Hộ là thành viên nhận khoán của các tổ chức kinh tế hợp tác, các doanh nghiệp Nhà nước.  Các cá nhân là nhóm kinh doanh theo nghị định 66/ HĐBT ngày 2/3/1992. Lĩnh vực hoạt động chủ yêu của các hộ sản xuất nói trên là các ngành nông, lâm, ngư, diêm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp ở nông thôn, thị trấn, thị xã ven đô và khi nói đến hộ sản xuất người ta thường nghĩ đến hộ nông dân là chủ yếu vì hộ nông dân chiếm phần lớn dân số cả nước và chiếm đa số lực lượng lao động trên toàn lãnh thổ. 1.1.3. Vai trò của hộ sản xuất đối với nền kinh tế Hộ sản xuất góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao động, giải quyết việc làm ở nông thôn . Việc làm là một trong những vấn đề cấp bách đối với toàn xã hội nói chung và đặc biệt là nông thôn hiện nay. Nước ta có trên 70% dân số sống ở nông thôn. Với một đội ngũ lao động dồi dào, hộ sản xuất đã được nhà nước chú trọng mở rộng song mới chỉ giải quyết được việc làm cho một số lượng lao động nhỏ. Lao động thủ công và lao 2 Thang Long University Library động nông nhàn còn nhiều. Việc sử dụng khai thác số lao động này là vấn đề cốt lõi cần được quan tâm giải quyết. Từ khi được công nhận hộ gia đình là 1 đơn vị kinh tế tự chủ, đồng thời với việc nhà nước giao đất, giao rừng cho nông - lâm nghiệp, đồng muối trong diêm nghiệp, ngư cụ trong ngư nghiệp và việc cổ phần hoá trong doanh nghiệp, hợp tác xã đã làm cơ sở cho mỗi hộ gia đình sử dụng hợp lý và có hiệu quả nhất nguồn lao động sẵn có của mình. Đồng thời chính sách này đã tạo đà cho một số hộ sản xuất, kinh doanh trong nông thôn tự vươn lên mở rộng sản xuất thành các mô hình kinh tế trang trại, tổ hợp tác xã thu hút sức lao động, tạo công ăn việc làm cho lực lượng lao động dư thừa ở nông thôn. Hộ sản xuất có khả năng thích ứng với cơ chế thị trường thúc đẩy sản xuất hàng hoá. Ngày nay, hộ sản xuất đang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự tự do cạnh tranh trong sản xuất hàng hoá, là đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ, các hộ sản xuất phải quyết định mục tiêu sản xuất kinh doanh của mình là sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? để trực tiếp quan hệ với thị trường. Để đạt được điều này các hộ sản xuất đều phải không ngừng nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu và một số biện pháp khác để kích thích cầu, từ đó mở rộng sản xuất đồng thời đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất. Với quy mô nhỏ, bộ máy quản lý gọn nhẹ, năng động, hộ sản xuất có thể dễ dàng loại bỏ những dự án sản xuất, những sản phẩm không còn khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường để sản xuất loại sản phẩm thị trường cần mà không sợ ảnh hưởng đến kế hoạch chi tiêu do cấp trên đề ra. Như vậy với khả năng nhạy bén trước nhu cầu thị trường, hộ sản xuất đã góp phần đáp ứng đầy đủ nhu cầu ngày càng cao của thị trường tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển cao hơn. Mặt khác, là chủ thể kinh tế tự do tham gia trên thị trường, hòa nhập với thị trường, thích ứng với quy luật trên thị trường, do đó hộ sản xuất đã từng bước tự cải tiến, thay đổi cho phù hợp với cơ chế thị trường. Để theo đuổi mục đích lợi nhuận, cac hộ sản xuất phải làm quen và dần dần thực hiện chế độ hạch toán kinh tế để hoạt động sản xuất có hiệu quả, đưa hộ sản xuất đến một hình thức phát triển cao hơn. Từ sự phân tích trên, kinh tế hộ là thành phần kinh tế không thể thiếu được trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá xây dựng đất nước. Kinh tế hộ phát triển góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong cả nước nói chung, kinh tế nông thôn nói riêng. Hộ sản xuất tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng nông nghiệp trên thị trường. Vì vậy họ có mối quan hệ mật thiết với ngân hàng nông nghiệp và đó là thị 3 trường rộng lớn có nhiều tiềm năng để mở rộng đầu tư tín dụng mở ra nhiều vùng chuyên canh cho năng xuất và hiệu quả sản xuất kinh doanh cao. Kinh tế hộ đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Là động lực khai thác các tiềm năng, tận dụng các nguồn lực vốn, lao động, tài nguyên, đất đai đưa vào sản xuất làm tăng sản phẩm cho xã hội. Hiệu quả đó gắn liền với sản xuất kinh doanh, tiết kiệm được chi phí, chuyển hướng sản xuất, tạo được quỹ hàng hoá cho tiêu dùng và xuất khẩu, tăng thu cho ngân sách nhà nước. Xét về lĩnh vực tài chính tiền tệ thì kinh tế hộ tạo điều kiện mở rộng thị trường vốn, thu hút nhiều nguồn đầu tư. Cùng với các chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước, tạo điều kiện cho kinh tế hộ phát triển đã góp phần đảm bảo lương thực quốc gia và tạo được nhiều việc làm cho người lao động, góp phần ổn định an ninh trật tự xã hội, nâng cao trình độ dân trí, sức khoẻ và đời sống của người dân. Thực hiện mục tiêu “ Dân giầu, nước mạnh xã hội công bằng văn minh ”. Kinh tế hộ được thừa nhận là đơn vị kinh tế tự chủ đã tạo ra bước phát triển mạnh mẽ, sôi động, sử dụng có hiệu quả hơn đất đai, lao động, tiền vốn, công nghệ và lợi thế sinh thái từng vùng. Kinh tế hộ nông thôn và một bộ phận kinh tế trang trại đang trở thành lực lượng sản xuất chủ yếu về lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản, sản xuất các ngành nghề thủ công phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. 1.2. Tổng quan về ngân hàng thƣơng mại và và hoạt động cho vay của ngân hàng thƣơng mại 1.2.1. Ngân hàng thương mại và đặc điểm của ngân hàng thương mại a. Khái niệm ngân hàng thương mại Theo Luật Ngân hàng Đan Mạch năm 1930: “Những nhà băng thiết yếu bao gồm những nghiệp vụ nhận tiền gửi, buôn bán vàng bạc, hành nghề thương mại và các giá trị địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện các nghiệp vụ chuyển ngân, đứng ra bảo hiểm…” Theo Luật Ngân hàng Pháp năm 1941:“NHTM là những xí nghiệp hay cơ sở hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ và các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính”. Ở Việt Nam, Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 (Luật số 47/2010/QH12) đã định nghĩa: “NHTM là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo qui định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận”. 4 Thang Long University Library Từ những khái niệm trên, NHTM là một TCTD thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh doanh khác có liên quan, được thành lập theo quy định của pháp luật và hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận. Các hoạt động chủ yếu của NHTM là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền đó để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. b. Đặc điểm Thứ nhất, NHTM hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ vì mục tiêu lợi nhuận. Thứ hai, hoạt động kinh doanh của NHTM được phân vào nhóm hoạt động kinh doanh có mức độ rủi ro cao. Thứ ba, sự tồn tại của NHTM phụ thuộc nhiều vào sự tin tưởng của khách hàng. Thứ tư, các NHTM chịu ảnh hưởng dây chuyền với nhau. Nhìn chung, bản chất của NHTM là một tổ chức kinh tế đặc biệt, có vai trò quan trọng không chỉ với riêng doanh nghiệp mà còn có vai trò đặc biệt đối với sự phát triển của đất nước. 1.2.2. Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại 1.2.2.1. Hoạt động huy động vốn Hoạt động huy động vốn là hoạt động thường xuyên của ngân hàng thương mại. Một ngân hàng thương mại bất kì nào cũng bắt đầu hoạt động của mình bằng việc huy động nguồn vốn. Đối tượng huy động của ngân hàng thương mại là nguồn tiền nhàn rỗi trong các tổ chức kinh tế, dân cư; vốn vay của các tổ chức tín dụng khác, ngân hàng trung ương, vay trên thị trường vốn (phát hành các giấy tờ có giá). Nguồn vốn quan trọng nhất và chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại là tiền gửi của khách hàng. Các ngân hàng thương mại nhận tiền gửi của các cá nhân, các tổ chức kinh tế xã hội và cả nguồn tiền của các ngân hàng khác. Khi những người có tiền chưa sử dụng đến họ có thể đem ra đầu tư hoặc gửi ngân hàng để nhận tiền lãi. Thông thường họ gửi tiền vào ngân hàng vì đây là cách đơn giản, ít tốn kém chi phí để tìm kiếm cơ hội đầu tư mà vẫn có lãi và ít rủi ro nhất. Ngoài ra người gửi tiền vào ngân hàng cũng mong muốn được sử dụng các dịch vụ của ngân hàng như chuyển tiền cho người thân ở nơi khác, thanh toán hộ các hoá đơn phát sinh, bảo quản các tài sản có giá trị lớn... Khi gửi tiền vào ngân hàng, người gửi tiền có thể vay ngân hàng một khoản tiền mà không cần thế chấp vì họ đã có một số tiền gửi nhất định ở ngân hàng, coi như một khoản đảm bảo. 5 Còn ngân hàng có thể muốn tìm kiếm thêm thu nhập từ lệ phí nhận tiền gửi, tuy nhiên lý do chính ngân hàng nhận tiền gửi để tạo nguồn cho vay. Từ đó, ngân hàng có thể đầu tư, kinh doanh tìm kiếm được những khoản thu nhập lớn hơn. Hoạt động nhận tiền gửi của ngân hàng có ý nghĩa to lớn với người gửi tiền, nền kinh tế cũng như bản thân ngân hàng. Thông qua hoạt động này mà ngân hàng có thể tập hợp được các khoản tiền nhàn rỗi, nhỏ bé, phân tán tạm thời chưa sử dụng với các thời hạn hết sức khác nhau thành nguồn tiền lớn tài trợ cho nền kinh tế, hoặc cho các cá nhân có nhu cầu sử dụng. Điều khó khăn nhất mà ngân hàng phải thực hiện là sử dụng các khoản tiền gửi có thời hạn rất khác nhau để cho vay những món có thời hạn xác định. Vì thế mà ngân hàng phải quản lí tốt thời hạn của các nguồn vốn của mình thì mới duy trì được hoạt động có hiệu quả, tránh được những rủi ro về khả năng thanh toán. Việc tập hợp được những nguồn tiền nhàn rỗi trong dân chúng để đưa vào kinh doanh đã góp phần tiết kiệm và sử dụng có hiệu quả nguồn lực của nền kinh tế. Ngoài ra hoạt động nhận tiền gửi của ngân hàng cũng góp phần tiết kiệm chi phí lưu thông tiền tệ. Đặc biệt trong nền kinh tế phát triển nếu dân chúng có thói quen gửi tiền vào ngân hàng để sử dụng các dịch vụ của ngân hàng thì điều này sẽ góp phần giúp chính phủ quản lí được thu nhập của người dân. Một trong những nguồn vốn không kém phần quan trọng là nguồn vốn phát hành kì phiếu, trái phiếu. Việc phát hành kì phiếu hay trái phiếu phụ thuộc vào quy mô vốn cần huy động, thời gian huy động vốn, cơ cấu nợ và tài sản của ngân hàng. Các hoạt động huy động nguồn vốn trên đây hình thành nên tài sản nợ của ngân hàng và ngân hàng phải có trách nhiệm chi trả đối với tất cả các nguồn vốn huy động được theo yêu cầu của khách hàng. Quy mô và cơ cấu nguồn vốn quyết định đến hoạt động của ngân hàng. Do đó quản lí nguồn vốn phù hợp và sử dụng vốn có hiệu quả là một vấn đề mang tính chiến lược đối với mỗi ngân hàng . 1.2.2.2. Hoạt động sử dụng vốn Khi đã huy động được vốn rồi, nắm trong tay một số tiền nhất định thì các NHTM phải làm như thế nào để hiệu quả hoá những nguồn này, nghĩa là tìm cách để những khoản tiền đó được đầu tư đúng nơi, đúng chỗ, có hiệu quả, an toàn, đem lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng. Bên cạnh đó còn để bù đắp những chi phí tiền gửi, chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh, chi phí quản lý, chi phí trích lập dự phòng rủi ro thì ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng. Hoạt động sử dụng vốn bao gồm: cho vay, chiết khấu, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng, cho thuê tài chính. Cho vay là một nghiệp vụ nằm trong hoạt động sử dụng vốn nhưng luôn là một nghiệp vụ quan trọng chiếm tỷ trọng cao nhất cũng như đem lại lợi nhuận nhiều nhất cho các NHTM. 6 Thang Long University Library  Cho vay: là hoạt động mang lại thu nhập chính cho ngân hàng. Tuy nhiên, cho vay cũng là hoạt động tiềm ẩn rủi ro cao và thường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng chi phí rủi ro của ngân hàng. Cho vay phải đảm bảo nguyên tắc: Tiền vay phải hoàn trả đúng hạn đầy đủ cả gốc và lãi. Đây là cơ sở để các NHTM tồn tại và phát triển.  Cho vay tiêu dùng: Mặc dù gần đây mức độ cạnh tranh về tín dụng tiêu dùng ngày càng gay gắt nhưng người tiêu dùng vẫn được coi là nguồn vốn chủ yếu của ngân hàng và cũng là một trong số những nguồn thu quan trọng nhất.  Cho vay kinh doanh: là sản phẩm tín dụng nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ trong nước.  Cho vay tài trợ dự án: là khoản cho vay tài trợ cho việc đầu tư nhà xưởng, máy móc, thiết bị…phục vụ cho việc mở rộng, đầu tư mới phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. Nếu được ngân hàng đồng ý tài trợ, doanh nghiệp có thể vay số vốn lên đến 70-85% chi phí đầu tư dự án (có thể không giới hạn quy mô dự án) với thời hạn cho vay linh hoạt, có thể kéo dài đến 15 năm. Về tài sản đảm bảo, doanh nghịêp có thể sử dụng chính hợp đồng đầu ra của dự án để đảm bảo cho các nghĩa vụ bảo lãnh tín dụng phát sinh.  Chiết khấu: là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn của ngân hàng, việc mua có kỳ hạn hoặc mua có bảo lưu quyền truy đòi các công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác của người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán.  Bao thanh toán: là hình thức tài trợ ngắn hạn của ngân hàng dành cho khách hàng doanh nghiệp, tổ chức. Là hình thức cấp tín dụng cho bên bán hàng hoặc bên mua hàng thông qua việc mua lại có bảo lưu quyền truy đòi các khoản phải thu hoặc các khoản phải trả phát sinh từ việc mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ.  Bảo lãnh ngân hàng: là hình thức cấp tín dụng, theo đó NHTM cam kết với bên nhận bảo lãnh về việc NHTM sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện được hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho NHTM theo thỏa thuận.  Cho thuê tài chính: là hình thức tài trợ tín dụng cho doanh nghiệp thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản 7 khác. Doanh nghiệp được sử dụng tài sản và thanh toán dần tiền thuê trong suốt thời gian đã được thỏa thuận trong hợp đồng thuê. Các hoạt động khác Các hoạt động khác của ngân hàng bao gồm:  Nghiệp vụ đầu tư ( Kinh doanh chứng khoán, nghiệp vụ đầu tư khác)  Kinh doanh ngoại tệ  Kinh doanh vàng bạc, đá quý  Dịch vụ ủy thác  Dịch vụ thông tin tư vấn 1.2.3. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại 1.2.3.1. Khái niệm cho vay của ngân hàng thương mại Theo Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 (Luật số: 47/2010/QH12 ): “Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.”. Cho vay là quyền của NHTM. Vì vậy, NHTM có quyền yêu cầu khách hàng vay phải tuân thủ những điều kiện mang tính pháp lý nhằm đảm bảo việc trả nợ khi đến hạn. 1.2.3.2. Đặc điểm cho vay của ngân hàng thương mại Theo như khái niệm trên có thể thấy hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại bao gồm 3 đặc điểm, cụ thể là: Thứ nhất, cho vay là sự cung cấp một lượng giá trị trên cơ sở lòng tin, điều này được hiểu là một người cho vay tin tưởng người đi vay sẽ sử dụng vốn vay có hiệu quả, đúng mục đích và có khả năng trả được gốc và lãi đúng hạn cho ngân hàng. Chỉ khi ngân hàng tin tưởng vào khách hàng vay vốn thì hoạt động cho vay mới được thực hiện. Thứ hai, vốn được sử dụng một cách tạm thời nghĩa là có thời hạn. Việc xác định thời hạn dựa vào quá trình luân chuyển vốn của đối tượng vay tức là thời hạn cho vay phải phù hợp với chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng đi vay. Sự phù hợp giữa thời hạn vay và chu kỳ sản xuất kinh doanh tạo điều kiện để người vay có thể trả cả nợ gốc và lãi đúng thời hạn cho ngân hàng. Thứ ba, cho vay là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị nên nguyên tắc là phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi, chỉ là chuyển quyền sử dụng chứ không phải là chuyển quyền sở hữu. Sở dĩ có nguyên tắc này vì vốn cho vay của ngân hàng chủ yếu là vốn huy động từ cá nhân, tổ chức có vốn huy động nhàn rỗi nên sau một thời gian ngân 8 Thang Long University Library hàng phải trả cho người gửi, mặt khác ngân hàng phải mất chi phí để có được nguồn vốn đó nên ngoài phần vốn gốc người vay vốn phải trả lãi cho ngân hàng. 1.2.3.3. Phân loại cho vay Có nhiều tiêu thức phân loại cho vay, ứng với mỗi tiêu thức có thể phân ra nhiều loại cho vay.  Dựa theo mục đích sử dụng tiền vay  Cho vay tiêu dùng: Mục đích của loại cho vay này là người đi vay phải sử dụng tiền vay vào việc tiêu dùng, mua sắm tài sản cố định nhằm mục đích phục vụ lợi ích cá nhân: mua nhà, mua xe,....Điều này đã giúp cho việc tiêu thụ hàng hóa, sản phẩm trở lên thuận lợi hơn, do vậy nó thúc đẩy sản xuất phát triển.  Cho vay để kinh doanh: Mục đích của loại cho vay này là ngân hàng cho các doanh nghiệp vay để phục vụ hoạt động kinh doanh của mình, nhằm mở rộng sản xuất hay đáp ứng một nhu cầu nào đó về tiền của doanh nghiệp.  Dựa theo thời hạn cho vay  Cho vay ngắn hạn: Thời gian cho vay tối đa đến 12 tháng, thường cho vay để bù đắp sự thiếu hụt vốn như vốn lưu động, các doanh nghiệp sản xuất theo mùa vụ, phục vụ nhu cầu chi tiêu ngắn hạn, nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của nhà nước, doanh nghiệp, hộ sản xuất.  Cho vay trung hạn: Thời gian cho vay từ 12 tháng đến tối đa là 60 tháng, thường cho vay để mua trang thiết bị, xây dựng, cải tiến kĩ thuật, mua công nghệ, xây dựng dự án với quy mô trung bình và thời gian thu hồi vốn nhanh.  Cho vay dài hạn: Thời gian cho vay từ 60 tháng trở lên, thường cho vay để mua sắm, xây dựng tài sản cố định, nhằm thực hiện dự án nhất định.  Dựa theo hình thức đảm bảo của các khoản vay  Cho vay có bảo đảm: Đây là những khoản cho vay mà bên cạnh việc cho khách hàng vay vốn, ngân hàng còn nắm giữ tài sản của người vay với mục đích xử lý tài sản đó để thu hồi vốn vay khi người đi vay vi phạm hợp đồng tín dụng.  Cho vay không có bảo đảm: Là khoản cho vay mà ngân hàng không nắm giữ tài sản của người đi vay để xử lý nhằm thu hồi nợ mà thay vào đó là điều kiện ràng buộc khác khi ký hợp đồng tín dụng. Những điều kiện này có thể là: người đi vay không được giao dịch với ngân hàng nào khác, hoạt 9 động kinh doanh của người đi vay phải được ngân hàng quản lý. Có như vậy ngân hàng mới quản lý được tình hình tài chính của người đi vay. Thông thường chỉ có những khách hàng có quan hệ lâu năm với ngân hàng hoặc những khách hàng có uy tín, hay những khách hàng mà ngân hàng có tham gia góp vốn vào thì mới được cho vay không có đảm bảo.  Dựa theo hình thức hình thành khoản vay  Cho vay trực tiếp: Phần lớn cho vay của ngân hàng là cho vay trực tiếp. Đây là các khoản cho vay khi khách hàng trực tiếp đến ngân hàng và xin vay vốn. Ngân hàng trực tiếp chuyển giao tiền cho khách hàng sử dụng trên cơ sở những điều kiện mà hai bên thoả thuận. Khi khách hàng có tài sản thế chấp, có uy tín cao mà không cần phải thông qua trung gian nào thì họ thường vay trực tiếp ngân hàng.  Cho vay gián tiếp: Là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. ngân hàng cho vay qua các tổ, đội, hội, nhóm, như nhóm sản xuất hội nông dân, hội cựu chiến binh, hội phụ nữ... Các tổ chức này thường xuyên liên kết các thành viên theo một mục đích riêng, song chủ yếu đều hỗ trợ lẫn nhau, bảo vệ quyền lợi cho mỗi thành viên. Vì vậy việc phát triển kinh tế, làm giàu, xoá đói giảm nghèo luôn được các trung gian rất quan tâm.  Dựa theo hình thức cấp tiền vay  Hạn mức thấu chi: Cho vay thấu chi là hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho khách hàng bằng cách cho phép khách hàng chi tiêu vượt 1 số tiền nhất định mà ngân hàng cấp cho trong tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng, đáp ứng nhu cầu cần tiền nóng của khách hàng. Vì vậy lãi suất thường cao và tính theo ngày hoặc tháng.  Hạn mức tín dụng: Cho vay theo hạn mức tín dụng là hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho khách hàng bằng cách khách hàng chỉ cần làm 1 bộ hồ sơ trong 1 kỳ để vay nhiều khoản vay mà tổng mức vay tối đa (hạn mức tín dụng) và lãi suất đã được bên toản thuận.  Cho vay từng lần: Áp dụng với khách hàng có không có nhu cầu vay vốn thường xuyên hoặc vay có tính chất thời vụ, giải ngân một lần toàn bộ hạn mức tín dụng và định kỳ hạn trả nợ cụ thể cho khoản cho vay, người vay thường trả nợ một lần khi đáo hạn.  Cho vay khác: Ngoài các hình thức cấp tiền vay trên thì ngân hàng có thể cho vay theo các hình thức khác mà pháp luật không cấm và được quy định 10 Thang Long University Library tại Luật NHNN: cho vay luân chuyển vốn, cho vay qua phát hành và sử dụng thẻ hay cho vay hợp vốn,… Việc phân loại cho vay dựa trên các đặc điểm cụ thể như trên sẽ giúp cho ngân hàng dễ dàng quản lý và cho vay với từng đối tượng đạt hiệu quả hơn. 1.3. Hoạt động cho vay của ngân hàng thƣơng mại đối với hộ sản xuất 1.3.1. Khái niệm và đặc điểm cho vay đối với hộ sản xuất 1.3.1.1. Khái niệm hoạt động cho vay đối với hộ sản xuất Ngân hàng là tổ chức đi vay để cho vay. Hoạt động cho vay của ngân hàng là việc ngân hàng dùng số vốn huy động từ các tổ chức, cá nhân khác trong một khoảng thời gian nhất định. Ngân hàng đã thực hiện công tác chuyển vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn. Đây cũng chính là hoạt động tạo ra nguồn thu lớn nhất cho ngân hàng. Có thể nói, hoạt động cho vay của ngân hàng đã tận dụng tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế và từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM trong quá trình cho vay hộ sản xuất, ngày 05 tháng 03 năm 2007, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 31/2007/QĐ – TTg về tín dụng hộ sản xuất làm quy định chung cũng như tạo điều kiện tiền đề để hoạt động cho vay đối với hộ sản xuất phát triển. Theo đó, “ Hoạt động cho vay đối với hộ sản xuất là việc sử dụng các nguồn tài chính do ngân hàng huy động để cho vay phát triển sản xuất, kinh doanh, góp phần thực hiện chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn, tăng trưởng kinh tế đồng đều giữa các vùng trong cả nước”. 1.3.1.2. Đặc điểm của hoạt động cho vay đối với hộ sản xuất Hoạt động cho vay là quá trình có sự kiểm soát chặt chẽ của ngân hàng. Mỗi ngân hàng phải có chính sách kiểm soát nhất định đối với đối tượng khách hàng của mình về hoạt động kinh doanh và sử dụng vốn. Hoạt động cho vay được coi là tài sản lớn nhất trong khoản mục tín dụng, mang lại lợi nhuận cao nhất cho ngân hàng nhưng cũng chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Ngân hàng cung cấp hoạt động cho vay đối với mọi thành phần kinh tế trong phạm vi rộng. Hoạt động cho vay đối với hộ sản xuất cũng có một số đặc điểm riêng như sau: Thời hạn cho vay đối với hộ sản xuất chủ yếu là ngắn hạn và thƣờng vay để đầu tƣ vào lĩnh vực nông nghiệp nên giá trị khoản vay nhỏ lẻ. Hộ sản xuất thƣờng bị ảnh hƣởng bởi nhiều yếu tố: Điều kiện thời tiết, thiên tai, sự biến động về giá cả… Nhất là thiên tai, có hưởng lớn đến quá trình sản xuất kinh doanh của các hộ. Khi thiên tai xảy đến, hộ sản xuất sẽ phải đối mặt với nhiều vấn đề như: Mất mùa, không thu hoạch được cây trồng, kinh doanh bị gián đoạn… 11 Điều này khiến cho hộ sản xuất không có đủ thu nhập để trả nợ cho ngân hàng. Do đó, hoạt động cho vay đối với hộ sản xuất thường ẩn chứa rủi ro cao. Trình độ học vấn và chuyên môn còn hạn chế. Sản xuất kinh doanh thường ở mức tự phát, dự án sản xuất kinh doanh còn đơn giản. Điều đó khiến việc cho vay hộ sản xuất rất khó khăn. Nhất là khâu thẩm định cho vay. Các hộ sản xuất thường không hiểu rõ pháp luật và pháp lý khi đi vay. Vì vậy tình trạng trả lãi và gốc thường xuyên quá hạn đã gây thiệt hại cho ngân hàng. 1.4. Chất lƣợng cho vay của ngân hàng thƣơng mại 1.4.1. Khái niệm chất lượng cho vay của ngân hàng thương mại Trong hoạt động của ngân hàng thì cho vay là hoạt động chủ yếu đem lại thu nhập chính cho ngân hàng, cho vay còn có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội. Vì vậy, vấn đề chất lượng cho vay luôn được quan tâm thích đáng, nhưng thực chất chất lượng cho vay là gì? Một khoản vay của ngân hàng được coi là có chất lượng tốt khi nó mang lại lợi ích kinh tế cho cả ngân hàng và khách hàng. Đối với khách hàng: Vốn vay đưa vào quá trình sản xuất kinh doanh tạo ra một số tiền lớn đủ để trang trải chi phí, trả được gốc và lãi cho ngân hàng và có lợi nhuận, góp phần vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế. Đối với ngân hàng: Vốn cho khách hàng vay phải đảm bảo mức độ an toàn và khả năng sinh lời của một khoản cho vay. Quan hệ cho vay có sự tham gia của hai chủ thể ngân hàng và khách hàng, mối quan hệ này được đặt trong sự vận động chung của nền kinh tế xã hội. Vì thế sẽ thật phiến diện khi xem xét chất lượng cho vay của ngân hàng chỉ từ góc độ của ngân hàng hay khách hàng. Việc xem xét chất lượng cho vay phải có sự đánh giá từ nhiều góc độ khác nhau như: từ phía ngân hàng, khách hàng và nền kinh tế.  Xét từ góc độ ngân hàng: chất lượng cho vay thể hiện ở mức độ an toàn và khả năng sinh lời của ngân hàng do hoạt động này mang lại. Khi cho vay, điều mà ngân hàng quan tâm là khoản vay đó phải được đảm bảo an toàn, sử dụng đúng mục đích, phù hợp với chính sách cho vay của ngân hàng, được hoàn trả cả gốc và lãi đúng hạn, đem lại lợi nhuận cho ngân hàng với chi phí nghiệp vụ thấp, tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường.  Xét từ góc độ khách hàng: Một khoản đi vay khách hàng đánh giá là tốt khi nó thỏa mãn được nhu cầu của họ. Mức độ thỏa mãn của khách hàng thể hiện ở chỗ khoản tín dụng đó được cung ứng một cách đầy đủ, kịp thời đáp ứng như cầu vốn của họ với lãi suất, kỳ hạn, phương thức giải ngân, thu nợ hợp lý, các thủ tục vay vốn được tiến hành nhanh gọn, tiết kiệm thời gian và chi phí. 12 Thang Long University Library  Xét từ góc độ nền kinh tế - xã hội: Chất lượng cho vay là khả năng đáp ứng những mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong lĩnh vực mà khoản tín dụng ngân hàng tham gia hoạt động. Chất lượng các khoản cho vay tốt đồng nghĩa với việc sản xuất kinh doanh có hiệu quả, sản phẩm cung ứng với chất lượng tốt và giá thành hợp lý, đáp ứng nhu cầu trong nước, một phần cho xuất khẩu và có sức cạnh tranh trên thị trường góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm cho người lao động, ngoài ra nó còn thể hiện tính an toàn cao của hoạt động ngân hàng, nâng cao khả năng thanh toán, chi trả và hạn chế được rủi ro. Như vậy chất lượng cho vay cao là thỏa mãn được đồng thời cả ba mục tiêu của ngân hàng, của khách hàng và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Trong khi ba mục tiêu này lại có mặt mâu thuẫn với nhau: ngân hàng muốn đạt được lợi nhuận cao nhất từ các khoản vốn vay vì thế họ muốn khoản cho vay đó có lãi suất cao mà lại được hoàn trả gốc và lãi đúng hạn; còn với khách hàng tiền lãi là một khoản chi phí, muốn đạt lợi nhuận cao họ phải tối thiểu hóa chi phí, nên họ mong muốn có được một khoản vốn vay với mức lãi suất thấp; mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đòi hỏi hoạt động cho vay của ngân hàng phải giải quyết được công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế công cộng, bảo vệ môi trường hướng tới việc phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững. Vì thế hoạt động cho vay tốt là phải dung hòa được lợi ích của ngân hàng, khách hàng và nền kinh tế - xã hội, có như vậy ngân hàng mới hoạt động và phát triển bền vững. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng cho vay của ngân hàng thương mại Ngân hàng là tổ chức kinh doanh tiền tệ, trong đó ngân hàng sử dụng số vốn huy động được từ nền kinh tế để cho vay đối với khách hàng. Trong các hoạt động của ngân hàng thì cho vay là hoạt động mang lại thu nhập lớn nhất cho ngân hàng, tuy nhiên đây cũng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Vì vậy, ngân hàng luôn tìm cách khắc phục, hạn chế những rủi ro mà hoạt động cho vay gây ra, nâng cao chất lượng cho vay để mang lại sự ổn định đảm bảo cho mục tiêu an toàn và sinh lợi của ngân hàng thương mại. Hơn nữa, ngân hàng nhà nước kiểm soát hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại thông qua tỷ lệ dự trữ bắt buộc và chính sách lãi suất đã làm ảnh hưởng tới mức cung tiền tệ. Sự tăng trưởng của hoạt động cho vay là điều kiện cần thiết cho sự phát triển vững chắc của nền kinh tế, hoạt động cho vay có hiệu quả sẽ làm mức cung ứng tiền luôn được điều chỉnh cho phù hợp với mức cầu tiền tệ trong nền kinh tế. Điều này góp phần quan trọng vào sự phát triển của nền kinh tế, kiềm chế lạm phát, giá cả, tạo công ăn việc làm cho người lao động. 13 Như vậy, nâng cao chất lượng hoạt động cho vay là vấn đề sống còn đối với hoạt động của ngân hàng. Nâng cao chất lượng cho vay là nhu cầu bức thiết, nó không chỉ có ý nghĩa đối với ngân hàng thương mại mà còn có ý nghĩa với các chủ thể kinh tế và đối với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng cho vay tạo cơ sở vững chắc cho sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế góp phần vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nâng cao chất lượng cho vay còn tạo lòng tin tưởng của khách hàng vào ngân hàng; điều này chính là cơ sở để thu hút khách hàng khiến lượng khách hàng vay vốn ngân hàng tăng lên đáng kể. 1.4.2. Chỉ tiêu định tính Đối với ngân hàng:  Mức độ tuân thủ quy định của Nhà nước về hoạt động cho vay của ngân hàng.  Mức độ đáp ứng nhu cầu vay vốn của HSX  Khả năng mở rộng quan hệ với khách hàng là HSX  Mức độ chuyên nghiệp của cán bộ ngân hàng Đối với HSX  Mức độ cải thiện tình hình SXKD sau khi sử dụng vốn vay tại ngân hàng  Mức độ thỏa mãn của HSX khi vay vốn tại ngân hàng Đối với nền kinh tế  Đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội  Làm giảm tỷ lệ thất nghiệp, tạo thêm công ăn việc làm tại địa bàn 1.4.3. Chỉ tiêu định lượng  Doanh số cho vay hộ sản xuất Doanh số cho vay hộ sản xuất là chỉ tiêu phán ánh tổng số tiền ngân hàng cho hộ sản xuất vay trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm. Doanh số cho vay hộ sản xuất càng lớn thì quy mô cho vay đối với hộ sản xuất càng lớn. Doanh số cho vay hộ sản xuất qua các năm tăng cho thấy hoạt động cho vay đối với hộ sản xuất được mở rộng. Doanh số cho vay hộ sản xuất tăng có thể do số lượng hộ sản xuất tham gia vay vốn tăng hoặc mức tín dụng đối với mỗi hộ sản xuất tăng. Bên cạnh đó còn sử dụng chỉ tiêu tương đối là tỷ trọng doanh số cho vay hộ sản xuất trong tổng doanh số cho vay của ngân hàng để phản ánh vị trí quan trọng của cho vay hộ sản xuất trong hoạt động cho vay của ngân hàng. 14 Thang Long University Library DS cho vay HSX Tỷ trọng doanh số cho vay HSX = *100 (%) Tổng doanh số cho vay  Chỉ tiêu sử dụng vốn Là chỉ tiêu phản ánh chất lượng cho vay, cho phép đánh giá tính hiệu quả trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng. Tổng dư nợ cho vay HSX Hệ số sử dụng vốn = * 100 (%) Tổng nguồn vốn huy động Hệ số này phản ánh kết quả sử dụng nguồn vốn huy động của ngân hàng để cho vay. Nếu hệ số này quá cao thì ngân hàng phải chú ý đến khả năng thanh toán vì nếu ngân hàng cho vay nhiều mà khách hàng đến rút tiền ồ ạt ở một thời điểm sẽ ảnh hưởng đến khả năng thanh toán. Còn nếu hệ số này quá thấp ngân hàng cần tăng cường cho vay hoặc giảm huy động vốn và ngân hàng phải trả lãi cho khoản vốn huy động đó. Có như vậy ngân hàng mới bù đắp chi phí và lợi nhuận.  Chỉ tiêu doanh số thu nợ HSX Doanh số thu nợ là tổng số tiền mà ngân hàng thu được từ HSX, đồng thời nó cũng đánh giá được khả năng thu hồi vốn từ các khoản vay của ngân hàng. Hệ số thu nợ phản ánh khả năng thu nợ của ngân hàng. Nó cho ta biết được trong một thời kỳ nào đó với doanh số cho vay nhất định, ngân hàng sẽ thu được bao nhiêu đồng vốn. Doanh số thu nợ HSX Hệ số thu nợ HSX = Doanh số cho vay HSX Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ công tác thu hồi nợ HSX của ngân hàng càng tốt và có hiệu quả, thái độ trả nợ của HSX cao, vốn sử dụng đúng mục đích và đem lại hiệu quả. Ngược lại, nếu chỉ tiêu này thấp phản ánh ngân hàng chưa làm tốt công tác thu hồi nợ.  Chỉ tiêu dư nợ cho vay đối với HSX Dư nợ cho vay đối với HSX cho biết lượng vốn mà HSX còn nợ tại một thời điểm cụ thể của ngân hàng. Dư nợ HSX chỉ là một phần trong tổng dư nợ của ngân hàng, để phản ánh chất lượng cho vay của HSX thì người ta còn quan tâm đến tỷ lệ dư nợ HSX trên tổng dư nợ của ngân hàng. Tổng dư nợ phản ánh quy mô của ngân hàng, tổng dư nợ thấp phản ánh chất lượng cho vay thấp, ngân hàng không thu hút được khách hàng vay vốn. Mặt khác, tổng dư nợ cao thì chưa chắc chất lượng cho vay đã tốt 15 vì dư nợ còn cẩn chứa nhiều rủi ro. Do vậy, phải xem xét tổng dư nợ trong mối quan hệ với việc phân tích các yếu tố khách quan lẫn chủ quan đã ảnh hưởng đến chất lượng cho vay của ngân hàng, với việc kết hợp các chỉ tiêu như nợ quá hạn, lợi nhuận do hoạt động cho vay mang lại để đánh giá đúng đắn, chính xác nhất chất lượng của cho vay. Dư nợ cho vay HSX Tỷ lệ dư nợ cho vay HSX = *100 (%) Tổng dư nợ Tỷ lệ dư nợ HSX trên tổng dư nợ mà lớn thì tức là doanh số cho vay HSX chiếm tỷ trọng cao trong cho vay của ngân hàng. Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn Nợ quá hạn là một phần hay toàn bộ khoản nợ của HSX đã đến thời gian thanh toán mà HSX chưa thanh toán được. Nợ quá hạn được chia làm 5 nhóm:  Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn Là các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày. Các khoản nợ trong hạn mà tổ chức tín dụng đánh giá là có đủ khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn  Nhóm 2: Nợ cần chú ý Là các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày. Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại.  Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn Là các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày. Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại.  Nhóm 4: Nợ nghi ngờ Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày. Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại.  Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày. Các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý và các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã được cơ cấu lại. Các khoản nợ quá hạn là khoản nợ từ nhóm 2 đến nhóm 5. Nợ quá hạn HSX Tỷ lệ nợ quá hạn = *100 (%) Tổng dư nợ HSX 16 Thang Long University Library Chỉ tiêu này cho thấy tình hình nợ quá hạn tại ngân hàng, đồng thời phản ánh khả năng quản lý tín dụng của ngân hàng trong khâu cho vay, đôn đốc thu hồi nợ của ngân hàng đối với các khoản vay. Đây là chỉ tiêu được dùng để đánh giá chất lượng cho vay HSX cũng như rủi ro cho vay của ngân hàng. Tỷ lệ nợ quá hạn càng cao thể hiện chất lượng cho vay của ngân hàng càng kém và ngược lại. Tỷ lệ nợ xấu cho vay của HSX = Tổng nợ xấu đối với HSX *100 (%) Tổng dư nợ cho vay HSX Tỷ lệ nợ xấu càng cao thì các NHTM cần phải khắc phục và xử lý một cách có hiệu quả, ngoài ra còn còn phải củng cố lại công tác quản lý và đánh giá cho vay để hạn chế và tránh rủi ro. Tỷ lệ này càng nhỏ càng tốt và bằng 0 là tốt nhất.  Doanh số thu nợ trên dư nợ bình quân Doanh số thu nợ trong năm Vòng quay vốn cho vay trong năm = Dư nợ bình quân trong năm Chỉ tiêu này đo lường tốc độ luân chuyển vốn, thời gian thu hồi nợ nhanh hay chậm. Chỉ tiêu này càng lớn thì càng tốt, chứng tỏ nguồn vốn của ngân hàng đã luân chuyển nhanh, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh. Như vậy, phản ánh tình hình tổ chức quản lý tốt, đạt hiệu quả cao. 1.5. Các nhân tố ảnh hƣởng đến chất lƣợng cho vay của ngân hàng thƣơng 1.5.1. Yếu tố chủ quan 1.5.1.1. Từ phía ngân hàng Chất lƣợng nhân sự Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong quản lý vốn tín dụng nói riêng cũng như trong hoạt động của ngân hàng nói chung. Việc tuyển chọn sự có đạo đức nghề nghiệp tốt, có tinh thần trách nhiệm, tâm huyết với nghề, giỏi chuyên môn, am hiểu và có kiến thức phong phú về thị trường đặc biệt trong lĩnh vực tham gia đầu tư vốn, nắm vững những văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động tín dụng, có năng lực phân tích và xử lý dự án xin vay, đánh giá tài sản thế chấp, giám sát số tiền cho vay ngay từ khi cho vay đến khi thu hồi được nợ hoặc xử lý xong món nợ theo quy định của ngân hàng …sẽ giúp cho ngân hàng có thể ngăn ngừa được những sai phạm có thể xảy ra khi thực hiện chu kỳ khép kín của một khoản tín dụng. Tuy nhiên đối với những cán bộ không được đào tạo đầy đủ, không am hiểu về ngành kinh doanh mà mình đang tài trợ, trong khi ngân hàng không có đủ các số liệu thống kê, các chỉ tiêu để phân tích, so sánh, đánh giá vài trò vị trí của HSX, khả năng thị trường hiện tại và 17 tương lai, chu kỳ, vòng đời sản phẩm… dẫn đến việc xác định sai hiệu quả của dự án cho vay làm tăng rủi ro tín dụng của ngân hàng. Chiến lƣợc kinh doanh Mỗi ngân hàng đều cần có một chiến lược kinh doanh đúng đắn, hợp lý và chính xác cho mỗi nhóm khách hàng mục tiêu. Từ đó, xây dựng nên các chính sách hỗ trợ, ưu đãi phù hợp với từng đối tượng khách hàng. Ngoài ra, xây dựng chiến lược kinh doanh đúng đắn sẽ giúp ngân hàng xác định rõ được các mục tiêu và định hướng phát triển chắc chắn, giúp khai thác triệt để năng lực của ngân hàng và giúp cho ngân hàng thích ứng được với những biến động của thị trường. Chính sách tín dụng Chính sách tín dụng của một ngân hàng là kim chỉ nan cho hoạt động tín dụng của ngân hàng đó. Bên cạnh việc phải phù hợp với đường lối phát triển của nhà nước thì chính sách tín dụng còn phải đảm bảo kết hợp hài hoà quyền lợi của người gửi tiền, người đi vay và quyền lợi của chính bản thân ngân hàng Chính sách tín dụng phải tạo ra sự công bằng, không những phải đảm bảo an toàn cho hoạt động của ngân hàng mà còn phải đảm bảo đủ sức hấp dẫn đối với khách hàng. Một chính sách tín dụng đồng bộ, thống nhất và đầy đủ, đúng đắn sẽ xác định phương hướng đúng đắn cho cán bộ tín dụng. Ngược lại, một chính sách tín dụng không đầy đủ, đúng đắn và thống nhất sẽ tạo ra định hướng lệch lạc cho hoạt động tín dụng, dẫn đến việc cấp tín dụng không đúng đối tượng tạo kẽ hở cho người sử dụng vốn không đem lại hiệu quả kinh tế, dẫn đến rủi ro tín dụng. Quy trình thủ tục cho vay Quy trình thủ tục cho vay cần được xây dựng một cách chặt chẽ, minh bạch và rõ ràng về thủ tục, giấy tờ. Để nhất quán, rành mạch cho hoạt động cho vay nhằm ngăn ngừa rủi ro. Tuy nhiên, quy trình cho vay cần ngắn gọn nhưng vẫn phải đảm bảo an toàn tránh tạo ra sơ hở, làm mất đi những phương án đầu tư hiệu quả. Quy mô nguồn vốn Những ngân hàng có thế mạnh về nguồn vốn sẽ có khả năng tiếp cận những khoàn vay có quy mô lớn và ngược lại. Vì vậy, các ngân hàng cần phải liên tục bổ sung vốn không chỉ để đủ vốn theo yêu cầu của NHNN mà còn tạo điều kiện để có thể tiếp cận những khoản vay có quy mô lớn và hiệu quả cao. Tính đa dạng trong hình thức cho vay Ngân hàng cần đa dạng các hình thức cho vay như vậy sẽ có nhiều sản phẩm cho khách hàng lựa chọn, đồng thời cũng tạo lên lợi thế cạnh tranh cho chính ngân hàng. Một ngân hàng đa dạng được hình thức cho vay sẽ thu hút được nhiều loại khách hàng 18 Thang Long University Library hơn, nếu chất lượng cho vay tốt còn giúp cho ngân hàng có thêm uy tín trên thị trường. Ngược lại, nếu ngân hàng không chịu đa dạng hình thức cho vay mà chỉ đơn điệu có vài sản phẩm mà không chịu đổi mới sẽ khó có thể thu hút thêm khách hàng, không có khả năng mở rộng quy mô và phát triển dẫn đến tụt hậu. Công tác thẩm định cho vay Muốn xem xét dự án có đủ độ tin cậy để có thể cho vay được hay không, ngân hàng cần tiến hành thẩm định dự án đầu tư. Thẩm định dự án đầu tư là việc tổ chức, xem xét một cách khách quan, khoa học và toàn diện các nội dung cơ bản có ảnh hưởng đến công cuộc đầu tư để ra quyết định đầu tư và cho phép đầu tư. Mục đích của việc thẩm định dự án đầu tư là nhằm giúp ngân hàng rút ra kết luận chính xác về tính khả thi, hiệu quả kinh tế, khả năng trả nợ và những rủi ro có thể xảy ra của dự án để đưa ra quyết định cho vay hoặc từ chối cho vay. Qua công tác thẩm định, ngân hàng sẽ phát hiện, bổ sung thêm những giải pháp nhằm nâng cao tính khả thi của dự án đồng thời làm cơ sở để xác định số tiền cho vay, thời gian cho vay, mức thu nợ hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Công tác tổ chức của ngân hàng Công tác tổ chức không chỉ tác động tới chất lượng khoản vay mà còn tác động tới mọi hoạt động của ngân hàng. Nếu công tác tổ chức không khoa học sẽ làm ảnh hưởng tới thời gian ra quyết định đối với món vay, không đáp ứng kịp thời các yêu cầu của khách hàng, không theo dõi sát sao được công việc. Sự phân công công việc nếu không hợp lý, khoa học sẽ dẫn đến sự không rõ ràng, chồng chéo khiến cho các cán bộ ngân hàng ỷ lại, thiếu trách nhiệm đối với công việc của mình. Công tác tổ chức ở đây cũng đề cập tới vấn đề giao việc đúng người, đúng việc. Mỗi một cán bộ cần được giao cho công việc phù hợp để có thể phát huy hết khả năng và giữa các bộ phận cần có sự phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ để công việc tiến hành nhanh chóng, chính xác. Nếu được tổ chức tốt, các công việc đối với một món vay sẽ được thực hiện tuần tự, chặt chẽ, vừa đảm bảo về mặt thời gian vừa không có sự sơ hở nên sẽ làm cho chất lượng của món vay được nâng cao. Thông tin cho vay Những thông tin chính xác về khách hàng sẽ giúp ích rất nhiều cho ngân hàng trong những công việc có liên quan đến việc cho vay, theo dõi và quản lý tiền vay. Thông tin càng chính xác, kịp thời, đầy đủ và toàn diện thì công tác cho vay của ngân hàng càng được thực hiện tốt và các rủi ro sẽ được hạn chế ở mức thấp nhất có thể, 19 chất lượng cho vay được nâng cao hơn. Tuy nhiên nến thiếu thông tin cho vay hoặc thông tin cho vay không chính xác, kịp thời, chưa có danh sách phân loại HSX, chưa có sự phân tích đánh giá HSX một cách khách quan, đúng đắn sẽ dẫn đến rủi ro cho vay cao làm giảm chất lượng cho vay của ngân hàng. Kiểm soát nội bộ Đây là hoạt động quan trọng trong khâu kiểm tra chất lượng cán bộ và nhân viên ngân hàng. Khi hoạt động này được kiểm soát chặt chẽ và đúng theo nguyên tắc cũng như thể chế của ngân hàng thì sẽ giúp tránh được những sai sót của các cán bộ ngân hàng cũng như đưa ra những biện pháp xử lý nhanh nhất mà không gây tổn thất cho ngân hàng. 1.5.1.2. Từ phía khách hàng Năng lực tài chính Năng lực tài chính của một HSX là nguồn lực tài chính của bản thân HSX, khả năng tạo tiền,tổ chức lưu chuyển tiền hợp lý, đảm bảo khả năng thanh toán thể hiện ở quy mô vốn, chất lượng tài sản và khả năng sinh lời…đủ để đảm bảo và duy trì hoạt động kinh doanh được tiến hành bình thường. Vì vậy, nếu HSX có năng lực tài chính mạnh sẽ được xếp hạng tín dụng cao và tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn vốn của ngân hàng. Năng lực quản lý Trong HSX, vai trò của mỗi một nhân sự thuộc và đảm nhiệm ở một tầng hoạt động đều rất quan trọng. Nhưng trong đó, điều cần nhấn mạnh là vai trò của đội ngũ quản lí đòi hỏi họ không thể chỉ cần có trình độ chuyên môn là đủ. Họ phải có năng lực quản lí hệ thống, quản lí và quản trị rủi ro. Với vai trò quan trọng như vậy, nâng cao năng lực của đội ngũ quản lí là điều không thể thiếu. Chỉ có nâng cao năng lực, bồi dưỡng năng lực cho đội ngũ quản lí theo những chuẩn mực quốc tế, mới có thể khơi gợi và phát huy khả năng đề xuất, quản lí của nhân lực. Qua đó, giúp cho HSX có những chiến lược kinh doanh đúng đắn và hiệu quả kinh doanh cao. Phƣơng án sản xuất kinh doanh khả thi Để có thể vay được vốn ngân hàng thì các HSX cần có những phương án sản xuất kinh doanh khả thi, có hiệu quả. Đây là điều kiện cần để HSX có thể hoạt động kinh doanh có lãi, từ đó có khả năng trả nợ cả gốc và lãi cho ngân hàng. Uy tín, đạo đức kinh doanh của HSX Đạo đức kinh doanh của HSX có một vai trò quan trọng trong việc thẩm định để cho vay. Thể hiện việc thực hiện đúng đủ và chính xác các thông tin mà HSX công bố 20 Thang Long University Library
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng