Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giải pháp hoàn thiện công tác quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay tại ngân h...

Tài liệu Giải pháp hoàn thiện công tác quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay tại ngân hàng TMCP Nam Việt

.PDF
112
74445
186

Mô tả:

1 GIỚI THIỆU 1. Đặt vấn đề Trong các lĩnh vực hoạt động của ngân hàng thì tín dụng chiếm tỷ trọng cao nhất, mang lại nhiều lợi nhuận nhất. Đồng thời tín dụng cũng là hoạt động kinh doanh phức tạp nhất so với các hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng thƣơng mại (NHTM), đem lại nhiều rủi ro nhất cho ngân hàng. Bên cạnh đó, công tác quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay có vai trò cực kỳ quan trọng đối với các ngân hàng nói riêng và cả hệ thống tài chính nói chung. Việc đánh giá, thẩm định và quản lý tốt các khoản cho vay, các khoản dự định giải ngân sẽ hạn chế những rủi ro tín dụng mà ngân hàng sẽ gặp phải, và tất yếu sẽ giảm bớt nợ xấu cho Ngân hàng. Vì thế, làm thế nào để quản trị rủi ro hoạt động cho vay có hiệu quả đang là một vấn đề mà các ngân hàng thƣơng mại rất quan tâm, nhất là trong tình hình kinh tế tài chính ngân hàng toàn cầu đầy biến động nhƣ hiện nay. Trong những năm vừa qua, tỷ lệ nợ xấu của các NHTM nói chung và Navibank nói riêng có dấu hiệu tăng cao vƣợt quá tỷ lệ cho phép theo quy định của Ngân hàng nhà nƣớc. Vậy đâu là nguyên nhân? Làm thế nào để nâng cao chất lƣợng quản trị các khoản vay trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng thƣơng mại cổ phần (TMCP) Nam Việt? Đây là một vấn đề đang đƣợc ban lãnh đạo Navibank đặc biệt quan tâm. Trong bối cảnh trên, là một trong những nhân viên làm việc tại ngân hàng TMCP Nam Việt, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Giải pháp hoàn thiện công tác quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng TMCP Nam Việt” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp. 2. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Trong những năm gần đây nền kinh tế Việt Nam đã có những bƣớc chuyển biến tích cực cả về tốc độ tăng trƣởng lẫn quy mô. Mặt khác chúng ta vừa mới gia nhập WTO tháng 11/2006, hoạt động giao thƣơng buôn bán giữa các vùng lãnh thổ trong nƣớc, khu vực và rộng hơn là giữa Việt Nam và các quốc gia trên thế giới không ngừng sôi động, thƣờng xuyên hơn để đáp ứng nhu cầu thanh toán trao đổi ngoại tệ 2 và luân chuyển vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu, các ngân hàng xuất hiện ngày càng nhiều nhằm thực hiện chức năng trung gian tài chính. Chính vì lẽ đó, ngân hàng có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp của đất nƣớc, bởi nó vừa là huyết mạch của nền kinh tế vừa là động lực tạo ra nhịp độ phát triển nhanh và bền vững. Các ngân hàng thƣơng mại cổ phần có hoạt động gần gũi nhất với nhân dân và nền kinh tế, nền kinh tế càng phát triển, hoạt động dịch vụ của ngân hàng cổ phần càng đi sâu vào tận cùng những ngõ ngách của nền kinh tế và đời sống con ngƣời, mọi công dân đều chịu tác động của ngân hàng, dù họ là khách hàng gửi tiền, một ngƣời vay hay đơn giản là một ngƣời đang làm việc cho một doanh nghiệp có vay vốn và sử dụng các nghiệp vụ ngân hàng. Tuy nhiên, trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng không đơn giản vì hiện nay có rất nhiều ngân hàng, tổ chức tín dụng của Nhà nƣớc, nƣớc ngoài đầu tƣ, các ngân hàng cổ phần của tƣ nhân đã tạo ra một môi trƣờng cạnh tranh khá gay gắt. Bên cạnh đó, việc xoá bỏ hoàn toàn hàng rào bảo hộ đối với ngành tài chính trong xu thế hội nhập tất yếu vào các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới đem đến những thách thức rất lớn cho hệ thống ngân hàng trong thời gian tới, thậm chí sẽ có không ít ngân hàng phải chấp nhận bị thâu tóm, sáp nhập hoặc “rút lui” khỏi thị trƣờng nếu không đủ sức cạnh tranh với hệ thống ngân hàng nƣớc ngoài. Riêng tại Thành Phố Hồ Chí Minh, một địa bàn kinh tế trọng điểm của đất nƣớc, với tiềm năng phát triển kinh tế rất lớn và đó chính là sự cần thiết, tất yếu phải phát triển dịch vụ ngân hàng để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội nơi đây. Do vậy mà rất nhiều ngân hàng thƣơng mại kể cả quốc doanh và cổ phần đặt trụ sở hoặc mở chi nhánh hoạt động ở địa bàn này. Trong một địa bàn tƣơng đối rộng về diện tích tuy nhiên mật độ ngân hàng dày đặc, có thể nói môi trƣờng cạnh tranh tại địa bàn Thành Phố Hồ Chí Minh là quyết liệt và không thua kém bất kỳ địa phƣơng nào trong cả nƣớc. Sự phát triển là một quy trình vận động không ngừng theo quy luật đào thải để có thể tồn tại và phát triển với nhiều thách thức, cạnh tranh, hội nhập...đòi hỏi mỗi ngân hàng cần phải có những “khoảng lặng” để tự đánh giá và tìm ra những mặt 3 mạnh để phát huy, các điểm yếu khó khăn cần khắc phục nhằm tự hoàn thiện. Chính vì vậy một việc làm hết sức quan trọng, cần thiết và phải làm thƣờng xuyên đó là phân tích tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng mình, trong đó hoạt động tín dụng là quan trọng nhất quyết định sự tồn tại và phát triển của các ngân hàng. Huy động nhiều vốn cho vay hay không là một vấn đề nhƣng sử dụng vốn đó có hiệu quả hay không lại là một vấn đề khác. Rủi ro hoạt động của ngân hàng là rất lớn, nó không chỉ ảnh hƣởng đến một ngân hàng mà cón phản ứng dây chuyền từ ngân hàng này đến ngân hàng khác, đến toàn bộ hệ thống ngân hàng của cả nƣớc, thậm chí nó còn ảnh hƣởng đến đời sống kinh tế xã hội của nƣớc đó mà còn lan sang các quốc gia khác. Vì vậy, không chỉ có vốn là có thể tuỳ tiện để khách hàng vay mà phải sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả và hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất có thể đƣợc. Nhận thức đƣợc tầm quan trọng đó, Ngân hàng Nhà nƣớc đã đƣa ra các quy định có tính định hƣớng cao cho các Ngân hàng thƣơng mại Quyết định 403/2005/QĐNHNN ngày 22/04/2005 về phân loại nợ, trích lập dự phòng của ngân hàng, Quyết định 457//QĐ-NHNN ngày 19/04/2005 về các tỷ lệ an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. Các quy định này đã đƣợc Ngân hàng Nhà nƣớc xây dựng dựa trên định hƣớng của những chuẩn mực và thông lê quốc tế, trong đó có dựa trên định hƣớng của những chuẩn mực và thông lệ quốc tế, trong đó vận dụng một số nguyên tắt của Ủy ban Basel tạo tiền đề cho hện thống Ngân hàng gia nhập thị trƣờng tài chính ngân hàng thế giới. Do đó, đây là đề tài dựa trên các quy định mới của Ngân hàng nhà nƣớc để phân tích, đánh giá đúng thực trạng công tác quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng TMCP Nam Việt nhằm tìn ra giải pháp hoàn thiện công tác công tác quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay tại ngân hàng cho hiệu quả hơn nhằm để theo sát chuẩn mực quốc tế chuẩn bị cho tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. 4 3. Mục tiêu, nội dung, phạm vi và phƣơng pháp nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu - Đánh giá thực trạng quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay tại Ngân Hàng TMCP Nam Việt, nêu ra những nguyên nhân của thực trạng trên. - Một số giải pháp để hoàn thiện công tác quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay tại Ngân Hàng TMCP Nam Việt. Nội dung nghiên cứu - Tổng quan về tín dụng và rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng thƣơng mại. - Hoạt động quản trị rủi ro trong cho vay tại tại Ngân Hàng TMCP Nam Việt - Thực trạng cho vay và công tác quản trị rủi ro các khoản vay tại ngân hàng TMCP Nam Việt. - Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay tại ngân hàng TMCP Nam Việt. Phạm vi nghiên cứu Hoạt động rủi ro trong hoạt động cho vay tại Ngân Hàng TMCP Nam Việt năm 2010, 2011, 2012. Phƣơng pháp nghiên cứu Phƣơng pháp thống kê, so sánh, phƣơng pháp phân tích tổng hợp để rút ra các đánh giá về thực trạng quản trị rủi ro trong cho vay tại Ngân hàng TMCP Nam Việt. 4. Tổng quan về lĩnh vực nghiên cứu Một số mô hình quản trị rủi ro tín dụng đƣợc sử dụng tại các ngân hàng Việt Nam hiện nay Mô hình quản lý rủi ro tín dụng tập trung - Mô hình này có sự tách biệt một cách độc lập giữa 3 chức năng: quản lý rủi ro, kinh doanh và tác nghiệp. Sự tách biệt giữa 3 chức năng nhằm mục tiêu hàng đầu là giảm thiểu rủi ro ở mức thấp nhất đồng thời phát huy đƣợc tối đa kỹ năng chuyên môn của từng vị trí cán bộ làm công tác tín dụng.  Điểm mạnh: 5 • Quản lý rủi ro một cách hệ thống trên quy mô toàn ngân hàng, đảm bảo tính cạnh tranh lâu dài. • Thiết lập và duy trì môi trƣờng quản lý rủi ro đồng bộ, phù hợp với quy trình quản lý gắn với hoạt động của các bộ phận kinh doanh nâng cao năng lực đo lƣờng giám sát rủi ro. • Xây dựng chính sách quản lý rủi ro thống nhất cho toàn hệ thống. • Thích hợp với ngân hàng quy mô lớn.  Điểm yếu: • Việc xây dựng và triển khai mô hình quản lý tập trung này đòi hỏi phải đầu tƣ nhiều công sức và thời gian. • Đội ngũ cán bộ phải có kiến thức cần thiết và biết áp dụng lý thuyết với thực tiễn. Mô hình quản lý rủi ro tín dụng phân tán - Mô hình này chƣa có sự tách bạch giữa chức năng quản lý rủi ro, kinh doanh và tác nghiệp. Trong đó, phòng tín dụng của ngân hàng thực hiện đầy đủ 3 chức năng và chịu trách nhiệm đối với mọi khâu chuẩn bị cho một khoản vay.  Điểm mạnh: • Gọn nhẹ. • Cơ cấu tổ chức đơn giản. • Thích hợp với ngân hàng quy mô nhỏ.  Điểm yếu: • Nhiều công việc tập trung hết một nơi, thiếu sự chuyên sâu. • Việc quản lý hoạt động tín dụng đều theo phƣơng thức từ xa dựa trên số liệu chi nhánh báo cáo lên hoặc quản lý gián tiếp thông qua chính sách tín dụng. 6 * Định hƣớng áp dụng mô hình quản lý rủi ro - Xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn của hoạt động tín dụng, theo khuyến cáo của ủy ban Basel và tuân thủ thông lệ quốc tế, căn cứ vào các điều kiện chung về pháp lý, thị trƣờng, công nghệ, con ngƣời, mô hình các NHTM VN khuyến nghị nên áp dụng mô hình quản lý rủi ro tập trung. - Tại Hội sở chính: tách bạch chức năng ra quyết định tín dụng với chức năng quản lý tín dụng trên cơ sở phân định trách nhiệm và chức năng rõ ràng giữa các bộ phận thẩm định, phê duyệt tín dụng, quản lý tín dụng, quản lý rủi ro tín dụng. - Tại chi nhánh: Tiến hành tách các bộ phận, chức năng bán hàng (tiếp xúc khách hàng, tiếp thị…), chức năng phân tích tín dụng (phân tích, thẩm định, dự báo, đánh giá khách hàng…) và chức năng tác nghiệp (xử lý hồ sơ, theo dõi, giám sát khoản vay, thu nợ, thu lãi…). - Với mô hình này, bộ phận quan hệ khách hàng chịu trách nhiệm tìm kiếm, phát triển và chăm sóc khách hàng. Bộ phận này sẽ tìm hiểu nhu cầu của khách hàng, hƣớng dẫn khách hàng hoàn thiện hồ sơ vay vốn, sau đó chuyển toàn bộ hồ sơ và các thông tin liên quan đến khách hàng cho bộ phận phân tích tín dụng. - Bộ phận phân tích tín dụng kiểm tra thông tin, thu thập các thông tin bổ sung qua các kênh thông tin lƣu trữ ngân hàng, hỏi tin qua CIC, tìm hiểu trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng… Trên cơ sở thông tin đó, bộ phận phân tích tín dụng thực hiện phân tích, đánh giá toàn bộ các nội dung từ tình hình chung về khách hàng, tình hình tài chính, phƣơng án, dự án vay vốn đến các nội dung về đảm bảo tiền vay. Bộ phận phân tích tín dụng trực tiếp báo cáo kết quả, phân tích đánh giá khách hàng lên ngƣời phê duyệt tín dụng. Kết quả phê duyệt tín dụng sau đó sẽ đƣợc chuyển cho bộ phận phân tích tín dụng để lƣu trữ thông tin đồng thời đƣợc chuyển cho bộ phận quan hệ khách hàng để thực hiện các khâu tiếp theo trong quy trình tín dụng. 7 Tổng quan về các đề tại có hiện nay đã đƣợc nghiên cứu - Nguyễn Hồng Diệu Hƣơng – Đại học Kinh Tế Quốc Dân, Nghiên cứu về Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân Hàng Techcombank – Chi Nhánh Đà nẵng. (năm 2012). Đề tài nghiên cứu các vấn đề sau:  Phân tích thực trạng, nhận dạng ra một số rủi ro tín dụng và đƣa ra một số giải pháp tăng cƣờng công tác quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Techcombank – Chi Nhánh Đà nẵng. - Nguyễn Hồng Thái – Đại học Kinh Tế Thành Phố Hồ Chí Minh, Nghiên cứu về Quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay tại Ngân Hàng Thƣơng Mại Cổ Phần Kỹ Thƣơng Việt Nam. (năm 2010). Đề tài nghiên cứu các vấn đề sau:  Hệ thống hóa các vấn đề cơ bản về rủi ro trong hoạt động cho vay và quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay tại các Ngân hàng thƣơng mại.  Đánh giá thực trạng hoạt động cho vay và quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng thƣơng mại cổ phần kỹ thƣơng Việt Nam.  Đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của công tác quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng thƣơng mại cổ phần kỹ thƣơng Việt Nam. - Lâm Ngọc Kiều – Đại Học Kinh Tế Hồ Chí Minh, Nghiên cứu Quản trị rủi ro trong hoạt động tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu Tƣ Phát Triển Thành Phố Hồ Chí Minh. (năm 2010). Đề tài nghiên cứu các vấn đề sau:  Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản trị rủi ro tín dụng và những bài học kinh nghiệm từ các Ngân hàng nƣớc ngoài.  Nhận dạng ra các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng và công tác quản trị rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tƣ và Phát Triển Thành Phố Hồ Chí Minh.  Trên cơ sở đó Phân tích thực trạng công tác quản trị rủi ro tín dụng, từ đó đƣa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản trị rủi ro 8 tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tƣ và Phát Triển Thành Phố Hồ Chí Minh. * Điểm khác của đề tài nghiên cứu Điểm khác của đề tài này: ứng dụng các lý thuyết Basel giải thích và đƣa ra một số giải pháp mới và đề cập sâu hơn về công tác quản trị rủi ro trong công tác cho vay tại Ngân Hàng TMCP Nam Việt nói chung và từ đó áp dụng vào quản trị rủi ro trong cho vay tại các Ngân hàng TMCP khác. 5. Kết cấu đề tài Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng thƣơng mại. Chƣơng 2: Thực trạng hoạt động cho vay và công tác quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng TMCP Nam Việt. Chƣơng 3: Một số giải pháp hoàn thiện công tác quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng TMCP Nam Việt. 9 CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI 1.1. Tín dụng và rủi ro trong hoạt động cho vay tại của ngân hàng thƣơng mại 1.1.1. Khái niệm và phân loại hoạt động cho vay 1.1.1.1. Khái niệm hoạt động cho vay Thuật ngữ “tín dụng” xuất phát từ chữ latinh là Credo (tin tƣởng – tín nhiệm). Nhƣng trong quan hệ tài chính hoặc cuộc sống, tuỳ theo góc độ nhìn nhận của mỗi ngƣời mà tín dụng đƣợc hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ, tín dụng là sự chuyển dịch quỹ cho vay từ ngƣời cho vay sang ngƣời đi vay. Xét trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả. Tín dụng ở nghĩa hẹp đƣợc hiểu nhƣ một số tiền cho vay mà các định chế tài chính cung cấp cho khách hàng. Tuy nhiên, xét ở góc độ tín dụng là một chức năng cơ bản của ngân hàng thì tín dụng đƣợc hiểu là “Cho vay”: - Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. (Luật các TCTD 47/2010/QH12) Từ khái niệm trên, bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở hoàn trả và có các đặc trƣng sau: - Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình thức là cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản, động sản). - Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, ngƣời cho vay khi chuyển giao tài sản cho ngƣời đi vay sử dụng phải dựa trên cơ sở lòng tin và phải tin rằng ngƣời đi vay sẽ trả đúng hạn. Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng. 10 - Bên đi vay phải hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay sau khi hết thời hạn sử dụng thỏa thuận - Thông thƣờng giá trị đƣợc hoàn trả lớn hơn giá trị lúc cho vay - phần lớn hơn này là lợi tức. - Ngân hàng tham gia quan hệ tín dụng với hai tƣ cách: Vừa là ngƣời đi vay vừa là ngƣời cho vay. 1.1.1.2. Phân loại hoạt động cho vay Tùy mục tiêu nghiên cứu, mục tiêu của quản trị mà ngƣời ta chia tín dụng ngân hàng thành các loại khác nhau. * Xét theo mục đích - Cho vay kinh doanh bất động sản: Gồm các khoản cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất động sản nhà cửa, đất đai, bất động sản trong lãnh vực công nghiệp, thƣơng mại và dịch vụ. - Cho vay công nghiệp và thƣơng mại: Là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lƣu động cho các doanh nghiệp trong lãnh vực công nghiệp, thƣơng mại và dịch vụ. - Cho vay nông nghiệp: Loại vay nhằm hỗ trợ nông dân trong sản xuất nhƣ cho vay để trang trải các chi phí sản xuất nhƣ phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, nhiên liệu. - Cho vay các định chế tài chính: Bao gồm cấp tín dụng cho các ngân hàng, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng và các công ty tài chính khác. - Cho vay cá nhân: Là loại để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nhƣ mua sắm các vật dụng đắt tiền và các khoản cho vay để trang trải các chi phí thông thƣờng của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng. - Cho thuê: Cho thuê các định chế tài chính bao gồm hai loại cho thuê vận hành và cho thuê tài chính. Tài sản cho thuê bao gồm bất động sản và động sản, trong đó chủ yếu là máy móc thiết bị. * Xét theo thời hạn - Cho vay ngắn hạn: Là loại vay có thời hạn đến 12 tháng. 11 - Cho vay trung hạn: Là loại vay có thời hạn trên 12 tháng đến 5 năm - Cho vay dài hạn: Là loại vay có thời hạn trên 5 năm và thời hạn tối đa có thể lên đến 20-30 năm tùy thuộc vào dự án và giấy phép đầu tƣ. * Xét theo tài sản đảm bảo - Cho vay không đảm bảo: là loại vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của ngƣời thứ ba, việc cấp tín dụng chủ yếu dựa vào mức độ tín nhiệm và uy tín của khách hàng; năng lực tài chính của khách hàng, phƣơng án vay hiệu quả và khả thi. - Cho vay có đảm bảo: Là loại vay dựa trên cơ sở các tài sản đảm bảo nhƣ thế chấp, cầm cố bằng tài sản của khách hàng; hoặc phải có sự bảo lãnh cầm cố, thế chấp bằng tài sản của ngƣời thứ ba; hay cho vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay. * Xét theo xuất xứ tín dụng - Cho vay trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho ngƣời có nhu cầu, đồng thời ngƣời đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng. - Cho vay gián tiếp: Là khoản vay đƣợc thực hiện thông qua việc mua lại các khế ƣớc hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán. 1.1.2. Khái niệm rủi ro trong hoạt động cho vay 1.1.2.1. Rủi ro và rủi ro trong kinh doanh Theo cách nghĩ truyền thống: Rủi ro là những thiệt hại, mất mát, nguy hiểm hoặc các yếu tố liên quan đến nguy hiểm, khó khăn hoặc điều không chắc chắn có thể xảy ra cho con ngƣời. Có thể nói với quan điểm này, rủi ro là những điều không may mắn, không tốt, bất ngờ xảy ra gây thiệt hại, tổn thất. Theo trường phái trung hoà: Rủi ro là giá trị và kết quả của hiện thời chƣa biết đến. Rủi ro là sự bất trắc, bất ngờ xảy ra gây thiệt hại, mất mát, nguy hiểm và có thể lƣờng đƣợc. Trong lĩnh vực kinh doanh, rủi ro đƣợc hiểu là khả năng giảm sút về tài sản hay sự giảm sút lợi nhuận thực tế với lợi nhuận dự kiến, hoặc là những bất trắc ngoài ý muốn xảy ra trong quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, tác động xấu đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Một 12 cách khác, rủi ro trong kinh doanh là khả năng xảy ra các biến cố không lƣờng trƣớc, khi xảy ra sẽ làm cho kết quả thực tế khác xa kết quả mong muốn, dự kiến. Do đó, chấp nhận có rủi ro trong kinh doanh và từ đó tìm ra giải pháp hạn chế rủi ro là yêu cầu đòi hỏi chính đáng của mỗi doanh nghiệp. Đối với các NHTM, rủi ro là những biến cố không mong đợi có thể xảy ra gây mất mát, thiệt hại về tài sản, thu nhập trong quá trình hoạt động. Các NHTM cần đánh giá cơ hội kinh doanh dựa trên mối quan hệ rủi ro – lợi ích nhằm tìm ra những cơ hội đạt đƣợc lợi ích xứng đáng với mức rủi ro chấp nhận. Các NHTM sẽ hoạt động tốt nếu mức rủi ro mà các NHTM gánh chịu là hợp lý và kiểm soát đƣợc, đồng thời nằm trong phạm vi khả năng các nguồn lực tài chính của NHTM. Thành phần của rủi ro: Rủi ro bao gồm các thành phần sau  Mối nguy hiểm: là các điều kiện tạo ra hoặc làm tăng các khả năng rủi ro, gồm Nguy hiểm vốn có: chất hóa học, chất phóng xạ, cơ học, năng lƣợng....Nguy hiểm do con ngƣời: ý thức cá nhân, sai lầm của con ngƣời, tác động của môi trƣờng.  Nguồn gây ra rủi ro: có 07 nguồn chính là - Rủi ro kinh tế vĩ mô nhƣ: Suy thoái kinh tế - sức mua của cá nhân giảm dẫn đến doanh thu của doanh nghiệp bị giảm; Thâm hụt ngân sách chính phủ cao hơn GDP; Lạm phát; Mất khả năng thanh toán của Chính phủ do tỷ lệ nợ ngắn hạn cao hơn mức dự trữ ngoại tệ; Dự trữ ngoại tệ thấp hơn kim ngạch nhập khẩu; Nợ nƣớc ngoài cao hơn GDP. - Rủi ro chính trị: Chính sách phát triển kinh tế - xã hội, chính sách về thuế, hạn ngạch và các giới hạn thƣơng mại khác; Chính sách tài chính, lƣu thông tiền tệ, kiểm soát ngoại hối, lãi suất; Chính sách lao động và tuyển dụng lao động; Chính sách môi trƣờng, sức khỏe; Quốc hữu hóa và sung công... - Rủi ro pháp lý: các rủi ro liên quan đến pháp lý, kiện tụng làm hao tổn sức ngƣời và tài sản nhƣ Vi phạm hợp đồng kinh tế hoặc đầu tƣ; Tranh 13 chấp hàng hóa, nhãn hiệu và thƣơng hiệu; Bồi thƣờng khiếu nại đối với khách hàng; Thay đổi luật pháp liên quan đến kinh doanh nhƣ: quy định về nhãn hiệu hàng hóa, môi trƣờng và lao động... - Rủi ro xã hội: Sự thay đổi các chuẩn mực giá trị, hành vi của con ngƣời; Cấu trúc xã hội thay đổi; Trình độ dân trí... - Rủi ro hoạt động (vi mô): Tuyển dụng và sa thải lao động dẫn đến những rủi ro pháp lý...Thải chất độc hại trong quá trình sản xuất gây ô nhiễm môi trƣờng, làm tổn hại sức khỏe cộng đồng. - Rủi ro do ý thức con ngƣời: Nhận thức của mỗi ngƣời về nguồn rủi ro khác nhau và có thể không thấy đƣợc rủi ro; Sự bất cẩn của con ngƣời dẫn đến những rủi ro về hỏa hoạn hay tai nạn gây chết ngƣời; Phƣơng pháp xử lý rủi ro chƣa thấu đáo, bài bản... - Rủi ro do môi trƣờng tự nhiên nhƣ: thiên tai, động đất, bão, lụt ...  Nguy cơ rủi ro gây ra: - Rủi ro tài sản: là khả năng tổn thất về tài sản vật chất, tài sản tài chính hay tài sản vô hình (thanh danh, uy tín, quyền tác giả ...). - Rủi ro trách nhiệm pháp lý: là những tổn thất có thể xảy ra có liên quan đến vấn đề pháp lý (tranh chấp, kiện tụng). - Rủi ro nguồn nhân lực: là những khả năng tổn thất liên quan đến tính mạng con ngƣời của một tổ chức, trong đó có thể kể đến khách hàng, nhà cung cấp, chủ nợ, cổ đông và ngƣời lao động. 1.1.2.2. Rủi ro trong hoạt động cho vay Có nhiều quan niệm về rủi ro trong hoạt động cho vay (RRTCV) mà chúng ta có thể dẫn ra là:  Rủi ro trong hoạt động cho vay theo định nghĩa của Uỷ ban Basel: “Rủi ro trong hoạt động cho vay là khả năng mà khách hàng vay hoặc bên đối tác không thực hiện đƣợc các nghĩa vụ của mình theo những điều khoản đã thoả thuận”; cũng theo Uỷ ban này, một định nghĩa khác có thể nêu ra là “Rủi ro thất thoát đối với một ngân hàng là sự vỡ nợ của ngƣời giao ƣớc trong hợp 14 đồng”, trong đó sự vỡ nợ đƣợc xác định là bất kỳ sự vi phạm nghiêm trọng nào đối với nghĩa vụ hợp đồng khi hoàn trả gốc và/hoặc lãi”.  Theo quyết định 493/QĐ-NHNN, của Thống đốc NHNN, tại khoản 1, điều 2 đề cập khái niệm “Rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng của TCTD là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức cho vay do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”  Theo Timothy W.Koch tác giả quyển sách Quản trị ngân hàng do nhà xuất bản Dryden – Đại học tổng hợp Nam Carolina xuất bản năm 1995: Một khi ngân hàng nắm giữ tài sản sinh lợi, rủi ro xảy ra khi khách hàng sai hẹn - có nghĩa là khách hàng không thanh toán vốn gốc và lãi theo thỏa thuận. Rủi ro tín dụng là sự thay đổi tiềm ẩn của thu nhập thuần và thị giá của vốn xuất phát từ việc khách hàng không thanh toán hay thanh toán trễ hạn  Theo Thomas P.Fitch tác giả Từ điển thuật ngữ Ngân hàng do nhà xuất bản Barron ấn hành năm 1997: Rủi ro tín dụng là loại rủi ro xảy ra khi ngƣời vay không thanh toán đƣợc nợ theo thỏa thuận hợp đồng dẫn đến sai hẹn trong nghĩa vụ trả nợ. Cùng với rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng là một trong những rủi ro chủ yếu trong hoạt động cho vay của ngân hàng.  Theo Hennie van Greuning - Sonja B rajovic Bratanovic – chuyên viên nghiên cứu chính sách tài chính – Ngân hàng thế giới: Rủi ro tín dụng đƣợc định nghĩa là nguy cơ mà ngƣời đi vay không thể chi trả tiền lãi, hoặc hoàn trả vốn gốc so với thời hạn đã ấn định trong hợp đồng tín dụng. Đây là thuộc tính vốn có của hoạt động ngân hàng. Rủi ro tín dụng tức là việc chi trả bị trì hoãn, hoặc tồi tệ hơn là không chi trả đƣợc toàn bộ. Điều này gây ra sự cố đối với dòng chu chuyển tiền tệ, và gây ảnh hƣởng tới khả năng thanh khoản của ngân hàng. Có thể có nhiều cách khác nhau để định nghĩa về rủi ro trong hoạt động cho vay, song các quan niệm về rủi ro trong hoạt động cho vay đều hội tụ với nhau về bản chất đó là: Rủi ro trong hoạt động cho vay là khả năng (xác xuất) xảy ra 15 những thiệt hại về kinh tế mà NHTM phải gánh chịu do khách hàng vay vốn thanh toán nợ không đúng hạn hoặc không hoàn trả được nợ vay (gồm gốc và/hoặc lãi). Rủi ro trong cho vay gắn liền với chính hoạt động cho vay của NHTM. Nguồn thu nhập từ hoạt động cho vay của NHTM phụ thuộc vào tình hình sử dụng vốn vay của ngƣời vay. Rủi ro mà ngƣời đi vay tham gia cũng chính là rủi ro mà NHTM phải gánh chịu. Vì vậy, có thể nói, chất lƣợng khoản vay sẽ quyết định hiệu quả của hoạt động cho vay và hiệu quả kinh doanh của NHTM. Rủi ro trong hoạt động cho vay có thể gây tổn thất về tài chính cho NHTM đó là làm giảm thu nhập ròng và giảm giá trị thị trƣờng của vốn; trong trƣờng hợp nghiêm trọng sẽ dẫn tới thua lỗ, nếu ở mức độ cao hơn có thể dẫn đến phá sản ngân hàng. Tuy nhiên, đứng trên góc độ quản lý, rủi ro trong cho vay là điều không thể tránh khỏi, luôn tồn tại song hành cùng hoạt động kinh doanh và chỉ có thể đề phòng, hạn chế chứ không thể loại trừ. 1.1.2.3. Phân biệt rủi ro và tổn thất trong hoạt động cho vay NHTM Cần phải có sự phân biệt giữa hai thuật ngữ đƣợc đề cập trong các khái niệm về Rủi ro trong hoạt động cho vay đó là rủi ro và tổn thất. Rủi ro trong hoạt động cho vay là khả năng khách hàng không trả đƣợc nợ, vì vậy cần nhận thức rõ khả năng này có thể xảy ra hoặc không xảy ra. Khi rủi ro trong hoạt động cho vay xảy ra, khách hàng thực sự không trả đƣợc nợ đúng hạn, ngân hàng không thu hồi đƣợc nợ thì đƣợc hiểu là tổn thất. Trên thực tế, sẽ rất dễ bị nhầm lẫn và hiểu đồng nhất giữa giá trị tổn thất với khái niệm rủi ro trong hoạt động cho vay. Sự nhầm lẫn này sẽ tác động bất lợi đến quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay, trong đó ảnh hƣởng lớn nhất đến tính chủ động trong các biện pháp quản lý rủi ro. Đơn cử, xuất phát từ quan niệm chỉ khi khoản vay phát sinh quá hạn mới có rủi ro và việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro dựa trên cơ sở những khoản nợ quá hạn, chứ không đánh giá trích lập dự phòng rủi ro trong hoạt động cho vay trên cơ sở mức độ xác xuất xảy ra nợ quá hạn, sẽ dẫn đến tình trạng: 16 Thứ nhất, những khoản cho vay mà theo xác xuất thực sự có rủi ro sẽ không đƣợc trích lập; Thứ hai, làm mất tính chủ động trong quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay, mức độ đáp ứng của nguồn bù đắp rủi ro sẽ rất hạn chế, trong những trƣờng hợp có cú sốc thì ngân hàng sẽ rất khó khăn trong việc chống đỡ rủi ro; Thứ ba, nó làm cho ngân hàng không thể hiểu và đánh giá đúng mức độ rủi ro của mình, mặc dù trên thực tế có những ngân hàng có nợ quá hạn rất thấp, nhƣng danh mục cho vay lại rủi ro rất lớn vì tập trung quá nhiều dƣ nợ vào nhóm khách hàng hay ngành rủi ro phá sản cao. Đây chính là luận cứ xây dựng chính sách phân loại nợ, chủ động trích lập qủy dự phòng và sử dụng quĩ này trong quá trình quản trị rủi ro trong cho vay. 1.1.3. Phân loại rủi ro trong hoạt động cho vay Có nhiều cách phân loại rủi ro trong cho vay, việc phân loại rủi ro trong hoạt động cho vay tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu, phân tích. Đối với hệ thống NHTM thì việc phân loại rủi ro trong cho vay có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc thiết lập chính sách, qui trình, thủ tục và cả mô hình tổ chức quản trị và điều hành nhằm bảo đảm nhận biết đầy đủ các yếu tố gây ra rủi ro và phân biệt trách nhiệm rõ ràng giữa các bộ phận, giữa các khâu trong toàn bộ quá trình tác nghiệp thẩm định, cấp cho vay giám sát thu hồi nợ và xử lý khoản nợ nếu nó có dấu hiệu không bình thƣờng. Thực tế cho thấy sự phân chia trách nhiệm càng rõ ràng, càng cụ thể, sẽ giúp cho quá trình quản rị rủi ro trong cho vay có hiệu quả. 1.1.3.1. Phân loại theo đối tƣợng sử dụng vốn vay Là rủi ro xảy ra khi cho các khách hàng là cá nhân vay vốn. Thông thƣờng số lƣợng khách hàng sẽ rất nhiều, tuy nhiên mức độ rủi ro của từng khoản vay đơn lẻ sẽ thấp, mức độ ảnh hƣởng của việc mất khả năng thanh toán của từng khoản vay là nhỏ; loại hình giao dịch, cơ cấu giao dịch dễ quản lý. 1.1.3.2. Phân loại theo đối tƣợng sử dụng vốn vay - Rủi ro khách hàng cá thể: 17 Đây là rủi ro khi cho khách hàng là công ty, tổ chức kinh tế vay vốn. Tùy theo qui mô của công ty, tổ chức kinh tế là lớn hay nhỏ thì mức độ ảnh hƣởng của rủi ro các khoản vay vào đối tƣợng này sẽ đƣợc đánh giá ở mức vừa hay lớn, tác động của nó đến khả năng thanh toán khoản nợ là vừa hay cao. - Rủi ro khách hàng công ty, tổ chức kinh tế: Đây là rủi ro khi cho khách hàng là công ty, tổ chức kinh tế vay vốn. Tùy theo qui mô của công ty, tổ chức kinh tế là lớn hay nhỏ thì mức độ ảnh hƣởng của rủi ro các khoản vay vào đối tƣợng này sẽ đƣợc đánh giá ở mức vừa hay lớn, tác động của nó đến khả năng thanh toán khoản nợ là vừa hay cao. - Rủi ro quốc gia hay khu vực địa lý: Những ngân hàng hoạt động phạm vi toàn cầu có sự phân chia theo lãnh thổ quốc gia, nếu trong phạm vi một quốc gia phân chia rủi ro trong cho vay tập trung theo khu vực địa lý, ví dụ nhƣ mức độ rủi ro khu vực Miền Bắc, Miền Trung, Miền Nam. 1.1.3.3. - Phân loại theo giai đoạn phát sinh Rủi ro trong thẩm định: Là rủi ro mà TCTD đánh giá sai khách hàng. Do hiện tƣợng thiếu thông tin dẫn đến “thông tin không cân xứng” làm cho TCTD thƣờng chấp nhận cho các khách hàng có khả năng trả nợ tồi vay vốn dẫn đến rủi ro không thu hồi đƣợc vốn sau khi cho vay. Hơn nữa, do thiếu thông tin và tin tƣởng vào tài sản đảm bảo, bảo lãnh, bảo hiểm từ phía khách hàng dẫn đến đánh giá sai giá trị các khoản thế chấp, bảo lãnh bảo hiểm gây ra rủi ro không thu hồi đƣợc nợ khi khách hàng không trả đƣợc nợ. - Rủi ro khi cho vay: Là rủi ro mà khi giải ngân vốn sai mục đích làm cho khoản vay không phát huy hiệu quả. Rủi ro này có thể phát sinh trong quá trình đƣa ra quyết định cho vay khi thiếu thông tin hoặc có sự thoái hoá đạo đức của cán bộ cho vay để cho khách hàng cố ý sử dụng vốn sai mục đích ngay từ đầu làm cho cơ cấu khoản 18 vay và mục đích vay không tƣơng thích dẫn đến rủi ro không trả đƣợc nợ của ngƣời vay. - Rủi ro trong quản lý, thu hồi nợ: Là rủi ro phát sinh do quá trình giám sát thu hồi nợ không theo dõi đƣợc dòng tiền của khách hàng để khách hàng sử dụng vốn quay vòng vào việc khác không thu đƣợc nợ đúng kỳ hạn, hoặc không thu đƣợc nợ. 1.1.4. Chỉ tiêu cơ bản đo lƣờng rủi ro trong hoạt động cho vay Để đo lƣờng rủi ro trong hoạt động cho vay của một TCTD, ngƣời ta thƣờng dùng hệ thống các chỉ số : xác xuất bị rủi ro, tỷ lệ nợ quá hạn, tỷ lệ nợ xấu, tỷ lệ nợ lãi treo và tỷ lệ miễn giảm lãi vay. - Xác suất bị rủi ro = Số món bị rủi ro trong kỳ/Tổng số món cho vay trong kỳ (hoặc bằng giá trị các món bị rủi ro trong kỳ/tổng giá trị các món cho vay trong kỳ). - Tỷ lệ nợ quá hạn = Giá trị các khoản nợ quá hạn trong kỳ/Tổng dư nợ bình quân trong kỳ. - Tỷ lệ nợ xấu = Giá trị các khoản nợ xấu trong kỳ/Tổng dư nợ bình quân trong kỳ. - Tỷ lệ lãi treo = Lãi treo phát sinh/Tổng thu nhập từ cho vay. - Tỷ lệ miễn giảm lãi = Lãi miễn giảm/Tổng thu nhập từ cho vay. Nhìn vào các chỉ số này có thể thấy mức độ rủi ro trong danh mục khoản vay của một TCTD hoặc của cả một hệ thống tài chính. Vì vậy, Chính phủ các nƣớc thƣờng quy định cụ thể về mức độ rủi ro chấp nhận đƣợc của một TCTD thông qua việc khống chế giá trị các chỉ tiêu đo lƣờng rủi ro này. Để đạt đƣợc mục tiêu duy trì các chỉ số đo lƣờng rủi ro theo đúng quy định Chính phủ, các TCTD phải thiết lập một hệ thống đo lƣờng rủi ro của riêng họ theo quan điểm quản trị rủi ro hiện đại. 1.1.5. Các nguyên nhân rủi ro trong hoạt động cho vay Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong cho vay, chúng ta có thể phân chia ở những nhóm nguyên nhân chủ yếu sau: 19 1.1.5.1. Những nguyên nhân bất khả kháng (nguyên nhân khác từ bên ngoài) Những nguyên nhân bất khả kháng tác động đến khách hàng vay vốn làm cho họ bị suy giảm hoặc mất khả năng thanh toán cho ngân hàng, nhƣ: Thiên tai, chiến tranh, hoặc những thay đổi về chính sách vĩ mô (chính sách xuất nhập khẩu, thuế quan..) nằm ngoài tầm kiểm soát của khách hàng và ngân hàng. 1.1.5.2. Nguyên nhân thuộc về chủ quan của ngƣời vay (khách hàng) Trình độ yếu kém của ngƣời vay trong dự đoán các vấn đề kinh doanh, yếu kém trong quản lý, chủ định lừa đảo cán bộ ngân hàng, ... là nguyên nhân gây ra rủi ro trong hoạt động cho vay. Nhiều ngƣời vay sẵn sàng mạo hiểm với kỳ vọng thu đƣợc lợi nhuận cao, để đạt đƣợc mục đích của mình họ sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn ứng phó với ngân hàng, nhƣ cung cấp thông tin sai sự thật, mua chuộc...Nhiều khách hàng vay vốn không tính toán kỹ lƣỡng, thích mở rộng đầu tƣ, hoặc không có khả năng tính toán kỹ những bất trắc có thể xảy ra, không có khả năng thích ứng và khắc phục những khó khăn trong kinh doanh. Trƣờng hợp còn lại là khách hàng vay vốn kinh doanh có lãi nhƣng vẫn không trả nợ đúng hạn, họ chây ỳ với hy vọng có thể đƣợc xoá nợ, quỵt nợ, sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt. 1.1.5.3. Nguyên nhân thuộc về ngân hàng Ngoài những nguyên nhân thuộc về chủ quan của phía đối tác (khách hàng), những nguyên nhân chủ quan thuộc về ngân hàng đƣợc Uỷ ban Basel (2000) đã thống kê cho thấy, rủi ro trong hoạt động cho vay thƣờng xảy ra ở 2 lĩnh vực chủ yếu: ( i ) mức độ tập trung, ( ii ) các vấn đề về quy trình cấp cho vay.  Mức độ tập trung có thể coi là nguyên nhân quan trọng nhất trong vấn đề Rủi ro trong hoạt động cho vay. Rủi ro tập trung cho vay tồn tại khi mức độ rủi ro trong hoạt động cho vay của một nội dung trong danh mục cho vay trở nên tƣơng đối lớn so với mức vốn hoặc tài sản của Ngân hàng. Rủi ro tập trung cho vay có thể đƣợc phân thành 2 loại: Rủi ro tập trung cho vay thông thƣờng và rủi ro tập trung cho vay do các yếu tố rủi ro chung hay có liên hệ với nhau. Rủi ro tập trung cho vay thông thƣờng xảy 20 ra khi cho vay đƣợc tập trung quá nhiều vào một khách hàng, nhóm khách hàng, hoặc ngành/lĩnh vực, chẳng hạn lĩnh vực bất động sản. Trong khi đó, rủi ro tập trung cho vay do sự liên hệ qua lại của các yếu tố rủi ro lại liên quan nhiều đến các yếu tố đặc thù, mà chỉ có thể phát hiện thông qua phân tích. Ví dụ cho loại rủi ro này là cuộc khủng hoảng tài chính ở Châu Á năm 1997. Trong cuộc khủng hoảng này, sự liên hệ rủi ro thị trƣờng và Rủi ro trong hoạt động cho vay, cũng nhƣ giữa rủi ro này với rủi ro thanh khoản, đã tạo ra các khoản lỗ/mất vốn rộng khắp (hiệu ứng domino).  Các vấn đề trong quy trình cấp cho vay cũng là một nguyên nhân gây ra rủi ro trong hoạt động cho vay, trong đó chủ yếu liên quan đến quá trình thẩm định và theo dõi cho vay. Rất nhiều Ngân hàng thấy rằng rất khó thực hiện một quá trình đánh giá cho vay kỹ càng bởi áp lực cạnh tranh trong Ngân hàng ngày càng tăng. Do áp lực này mà nhiều Ngân hàng có xu hƣớng dựa vào một số chỉ tiêu đơn giản để cấp cho vay. Bên cạnh đó, việc không có hệ thống kiểm định và đánh giá các kỹ thuật cho vay mới cũng đã gây ra nhiều rủi ro. Chính vì thế, một trong những nguyên tắc theo thông lệ tốt nhất của lĩnh vực Ngân hàng là phải áp dụng một số bƣớc bắt buộc đối với các sản phẩm cho vay mới. Các nguyên nhân khác liên quan đến qui trình cho vay gồm: Thiếu đánh giá lại chất lƣợng cho vay; Không theo dõi, giám sát thƣờng xuyên khách hàng hoặc tài sản bảo đảm; Áp dụng lãi suất không dựa trên rủi ro; Không tính đến chu kỳ kinh doanh của nền kinh tế, chu kỳ sống của sản phẩm hàng hoá, nhất là đối với các Ngân hàng có mức độ tập trung cao vào lĩnh vực bất động sản. Đây là sự yếu kém trong quản lý danh mục cho vay; Không dự kiến phƣơng án trong trƣờng hợp xấu nhất, làm cho Ngân hàng không có sự chuẩn bị kỹ càng để đối phó với rủi ro.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng