Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở huyện hoài đức, tỉ...

Tài liệu đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở huyện hoài đức, tỉnh hà tây hiện nay luận văn ths. triết học 60.22.85

.PDF
118
5
70

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ NGUYỄN TRỌNG LONG Đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây hiện nay LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI, 2007 Mục lục Mở đầu ................................................................................................................ 3 Chương 1: Hệ thống chính trị và hệ thống chính trị cấp huyện. ....................10 1.1. Khái niệm hệ thống chính trị và hệ thống chính trị cấp huyện ..................10 1.1.1. Quan niệm chung về hệ thống chính trị ..............................................10 1.1.2. Quan niệm về hệ thống chính trị cấp huyện .......................................14 1.2. Đặc điểm, vai trò của hệ thống chính trị cấp huyện...................................19 1.2.1. Đặc điểm hệ thống chính trị cấp huyện ..............................................19 1.2.2. Vai trò của hệ thống chính trị cấp huyện ............................................22 1.3. Hiệu quả hoạt động và yêu cầu đổi mới hệ thống chính trị cấp huyện .......24 1.3.1. Hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cấp huyện ........................24 1.3.2. Yêu cầu đổi mới hệ thống chính trị cấp huyện ...................................33 Chương 2. Thực trạng đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở huyện Hoài Đức .............................................................41 2.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội của huyện Hoài Đức có liên quan tới quá trình đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị .........41 2.2. Đặc điểm của hệ thống chính trị huyện Hoài Đức. ....................................44 2.3. Quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở huyện Hoài Đức ...........................47 2.3.1. Đổi mới hệ thống chính trị cấp huyện ở Hoài Đức thời kỳ 1986 - 1991 ..47 2.3.2. Đổi mới hệ thống chính trị cấp huyện ở Hoài Đức thời kỳ 1991 - 2001 .53 2.3.3. Đổi mới hệ thống chính trị cấp huyện ở Hoài Đức thời kỳ 2001 dến nay .....................................................................................................64 2.3.4. Những vấn đề đặt ra đối với việc đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị huyện Hoài Đức .....................................75 2.3.5. Một số bài học kinh nghiệm ...............................................................78 1 Chương 3: Quan điểm, phương hướng và những giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở huyện Hoài Đức. ..............................................................................81 3.1. Quan điểm và phương hướng đổi mới hệ thống chính trị ........................ . 81 3.1.1. Quan điểm đổi mới hệ thống chính trị ................................................81 3.1.2. Những phương hướng cơ bản nhằm đổi mới hệ thống chính trị .........85 3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị huyện Hoài Đức hiện nay. ...............................89 3.2.1. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ....................89 3.2.2. Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của chính quyền .................................................................................94 3.2.3. Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể .......................................................................................96 3.2.4. Giải pháp trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ .......................... 100 2.2.5. Thực hiện quy chế dân chủ, tăng cường sự kiểm tra giám sát của nhân dân ................................................................................................... 103 Kết luận............................................................................................................ 106 Danh mục tài liệu tham khảo .......................................................................... 108 Phụ lục ............................................................................................................. 112 2 Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) của Đảng xác định: Đối với nước ta, đổi mới đang là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn. Qua 20 năm đổi mới, với sự nỗ lực phấn đấu cao độ của toàn Đảng, toàn dân, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử tạo cho đất nước ta những thời cơ và vận hội mới. Trong thời kỳ phát triển mới, bên cạnh những cơ hội, thuận lợi, đất nước ta còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức khó lường. Tình hình đó đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực vượt bậc, chủ động nắm bắt thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, đưa sự nghiệp cách mạng tiếp tục vững bước tiến lên trên con đường xã hội chủ nghĩa: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới, đòi hỏi toàn bộ hệ thống chính trị ở nước ta phải được kiện toàn, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động. Trong những năm qua, hệ thống chính trị ở nước ta đã có những đổi mới đáng kể: Đảng đã được củng cố cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức; vai trò lãnh đạo của Đảng trong xã hội ngày càng tăng; Nhà nước tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện theo hướng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân, vì dân; Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội từng bước đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, đem lại hiệu quả thiết thực; quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa, tư tưởng được phát huy… Tuy vậy hệ thống chính trị ở nước ta còn bộc lộ nhiều nhược điểm: Năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà nước, hiệu quả hoạt động của các đoàn thể chính trị - xã hội chưa nâng lên kịp với đòi hỏi của tình hình nhiệm vụ mới. Bộ máy Đảng, Nhà nước, đoàn thể chậm được 3 sắp xếp lại cho tinh giản và nâng cao chất lượng, còn nhiều biểu hiện quan liêu, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Công tác tuyển chọn, bồi dưỡng, thay thế, trẻ hóa, chuẩn bị cán bộ kế cận còn lúng túng, chậm trễ. Năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị chưa tương xứng với yêu cầu của nhiệm vụ. Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, tha hóa về phẩm chất đạo đức, sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở Đảng chưa cao. Trong các cấp của hệ thống chính trị có thể thấy vị trí của hệ thống chính trị cấp huyện là rất quan trọng bởi cấp huyện là cấp gần với cơ sở nhất, là cầu nối đưa chủ trương, đường lối chính sách của Đảng vào thực tiễn, trong những năm qua hệ thống chính trị đã có những đóng góp rất quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, tuy vậy bên cạnh những đóng góp đó vẫn còn nhiều mặt yếu kém, bất cập trong hoạt động của hệ thống chính trị cấp huyện, trong công tác lãnh đạo, quản lý, tổ chức. Tình trạng quan liêu, tham nhũng, mất đoàn kết nội bộ còn diễn ra ở nhiều nơi. “Chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong hệ thống chính trị chưa được xác định rành mạch, trách nhiệm không rõ; nội dung và phương thức hoạt động chậm đổi mới, còn nhiều biểu hiện của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp” [17, tr.166]. Vì vậy, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị đang là vấn đề bức thiết đối với nước ta trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay. Hoài Đức là một huyện đồng bằng của tỉnh Hà Tây, liền kề với thủ đô Hà Nội và Thành phố Hà Đông, do vậy Hoài Đức có một vị trí quan trọng về kinh tế - xã hội cũng như quốc phòng - an ninh, tuy vậy hiện nay Hoài Đức chưa có được sự phát triển tương xứng với tiềm năng vốn có. Vì vậy, việc đi sâu nghiên cứu về vấn đề đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cấp huyện ở Hoài Đức có ý nghĩa quan trọng bởi nó tác động tới mọi hoạt động đời 4 sống xã hội ở địa phương, tới sự phát triển bền vững không chỉ của huyện Hoài Đức mà còn của tỉnh Hà Tây. Vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài luận văn của mình là: “Đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở huyện Hoài Đức, Tỉnh Hà Tây hiện nay”. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hiện nay có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều bài viết về hệ thống chính trị ở các góc độ và khía cạnh khác nhau có tính chất lý luận chung. Tiêu biểu như: Đề tài KX.10.02 “Các quan điểm và nguyên tắc đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta giai đoạn 2005 - 2020”, do PGS.TS Trần Đình Hoan làm chủ nhiệm đã được nghiệm thu cấp nhà nước. Đề tài dã dựa trên cơ sở tổng kết lý luận và thực tiễn 20 năm đổi mới đất nước, đã bước đầu phân tích và đánh giá tương quan giữa cải cách kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn vừa qua; phân tích sự cần thiết khách quan phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn phát triển tiếp theo của đất nước; xác định rõ các mục tiêu cơ bản cần hướng tới, bảo đảm định hướng đúng đắn cho quá trình đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị; xây dựng và xác định được một hệ thống các quan điểm và nguyên tắc đổi mới hệ thống chính trị nước ta trong tình hình mới; xác định được phương hướng, giải pháp chủ yếu để tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn phát triển tiếp theo của đất nước. Làm rõ thêm quan điểm của Đại hội IX: xem công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt; xác định những phương hướng cơ bản nhằm xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà nước. Đề tài KX - 05 “Hệ thống chính trị trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta” là công trình nghiên cứu một cách tổng quát, đã nêu một cách khái quát thực trạng, những đặc trưng, quan điểm và nguyên tắc cơ bản về xây dựng hệ thống chính trị ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 5 Nghiên cứu về hệ thống chính trị cấp cơ sở, cũng đã có một số công trình nghiên cứu, một số luận văn, luận án cũng như một số bài viết được đăng trên các tạp chí, tiêu biểu là cuốn sách: “Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay” do GS.TS Hoàng Chí Bảo làm chủ biên, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005. Kết quả của đề tài đã làm sáng tỏ và góp phần đưa nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX về “Đổi mới, nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn” vào cuộc sống. Công trình “Cộng đồng làng xã Việt Nam hiện nay” do TS Nguyễn Văn Sáu và GS Hồ Văn Thông đồng chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, công trình được nghiên cứu ở nhiều tỉnh thành trong cả nước đã làm sáng tỏ những quan điểm, chủ trương chính sách, giải pháp của Đảng và Nhà nước ta về nông nghiệp nông thôn nói chung và về hệ thống chính trị cấp cơ sở ở nông thôn nói riêng. “Mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền và các đoàn thể cấp xã ở nước ta hiện nay”, do PGS. TS Dương Xuân Ngọc (chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 1998. “Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” do PGS. TS. Dương Xuân Ngọc (chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000. Một số luận văn, luận án: “Đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn ngoại thành Hà Nội (cấp xã) trong giai đoạn hiện nay” (Lưu Minh Trị - luận án PTS Triết học, Hà Nội 1993); “Đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị cấp cơ sở ở nông thôn qua khảo sát thực tế tỉnh Tuyên Quang”(Đặng Thị Hiền luận văn Thạc sĩ triết học, Hà Nội 1993); “Những đặc điểm cơ bản của hệ thống chính trị đảm bảo tốt dân chủ cơ sở(nghiên cứu từ thực tiễn xã An Đông - huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình” (Hoàng Đức Sơn - luận văn Thạc sĩ Chính trị học, Hà Nội 2000); “Đổi mới hệ thống chính trị cấp cơ sở vùng dân tộc Chăm tỉnh Ninh Thuận trong giai đoạn hiện nay” (Nguyễn Đức Ngọc - luận văn Thạc sĩ Triết học, Hà Nội 2002). Một số bài viết tiêu biểu trên các tạp chí: “Quan điểm và giải 6 pháp để củng cố và tăng cường hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn hiện nay”(PGS.TS Hoàng Chí Bảo - Tạp chí Dân vận số Xuân 2002), “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của chính quyền cơ sở”(Lê Hữu Nghĩa - Tạp chí Cộng sản, số 19 - 2001)… “ Củng cố kiện toàn tổ chức cơ sở Đảng ở nông thôn trong thời kỳ phát triển mới của đất nước” (PGS. TS Dương Xuân Ngọc - Tạp chí Thông tin lý luận, 11 - 1998), “Kết quả thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở - Vấn đề đặt ra và giải pháp” (PGS. TS Dương Xuân Ngọc - Tạp chí Thông tin lý luận, 9 - 2000), “Một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả quy chế dân chủ ở xã” (PGS. TS Dương Xuân Ngọc - Tạp chí Tổ chức Nhà nước, 8 - 2001)… ở Hà Tây, chưa có một công trình nghiên cứu nào về hệ thống chính trị cấp huyện và cho tới nay chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu về vấn đề đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở một huyện cụ thể như Hoài Đức, do vậy đề tài mà tác giả lựa chọn không trùng lặp với bất cứ một công trình, luận văn, luận án nào đã công bố và bảo vệ. Trong quá trình thực hiện đề tài tất cả các công trình nghiên cứu và các tài liệu liên quan đến đề tài đều được tác giả tiếp thu trên cơ sở kế thừa trong quá trình nghiên cứu. 3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cấp huyện ở Hoài Đức, tỉnh Hà Tây trong giai đoạn hiện nay, không nghiên cứu hệ thống xã, thị trấn trực thuộc huyện. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài * Mục đích Trên cơ sở luận giải những vấn đề lý luận về hệ thống chính trị, hệ thống chính trị cấp huyện và thực trạng đổi mới, nâng cao hiệu quả của hệ thống chính trị huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây, luận văn đề xuất những quan điểm, phương hướng, giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cấp huyện ở nước ta nói chung, ở huyện Hoài Đức tỉnh Hà Tây nói riêng. 7 * Nhiệm vụ Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn tập trung giải quyết: - Làm rõ cơ sở lý luận về hệ thống chính trị và hệ thống chính trị cấp huyện. - Chỉ ra thực trạng đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cấp huyện ở huyện Hoài Đức: thành tựu, hạn chế và những vấn đề đặt ra. - Nêu ra quan điểm, phương hướng và đề xuất những giải pháp để việc đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở huyện Hoài Đức nói riêng, hệ thống chính trị cấp huyện nói chung trong giai đoạn hiện nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận Dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng hệ thống chính trị; quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam trong việc đổi mới tổ chức, nội dung và phương hướng hoạt động của hệ thống chính trị. * Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp: Logic - lịch sử, phân tích tổng hợp, tổng kết thực tiễn, các phương pháp xã hội học như: điều tra, thu thập, phân tích và xử lý số liệu. 6. Đóng góp của luận văn Thông qua nghiên cứu ở một địa bàn cụ thể, luận văn góp phần làm sáng tỏ đặc thù của hệ thống chính trị cấp huyện và hệ thống chính trị huyện Hoài Đức tỉnh Hà Tây và đề xuất những giải pháp tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cấp huyện. Luận văn có thể dùng làm tư liệu tham khảo cho lãnh đạo địa phương trong quá trình đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị 8 cấp huyện ở Hoài Đức nói riêng và các địa phương khác đang trong quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết. Chương 1: Hệ thống chính trị và hệ thống chính trị cấp huyện. Chương 2: Thực trạng đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở huyện Hoài Đức. Chương 3: Quan điểm, phương hướng và những giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở huyện Hoài Đức. 9 Chương 1 Hệ thống chính trị và hệ thống chính trị cấp huyện 1.1. Khái niệm hệ thống chính trị và hệ thống chính trị cấp huyện 1.1.1. Quan niệm chung về hệ thống chính trị Trong mọi xã hội có giai cấp, quyền lực của chủ thể cầm quyền được thực hiện bằng một hệ thống thiết chế và tổ chức chính trị nhất định, đó là hệ thống chính trị. Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị trong xã hội bao gồm các đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp được liên kết với nhau trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào các quá trình của đời sống xã hội, để củng cố, duy trì và phát triển chế độ đương thời phù hợp với lợi ích của chủ thể giai cấp cầm quyền. Trong xã hội có giai cấp, mỗi xã hội đều có hệ thống chính trị của mình. Hệ thống chính trị xuất hiện cùng với sự xuất hiện của giai cấp, Nhà nước và thực hiện đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền, do vậy hệ thống chính trị mang bản chất giai cấp của giai cấp cầm quyền, nó giữ vai trò điều chỉnh các quan hệ trong hệ thống chính trị. Trong chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân và nhân dân lao động là chủ thể thực sự của quyền lực, tự mình tổ chức và quản lý xã hội, quyết định nội dung hoạt động của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Như vậy, có thể hiểu hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là một chỉnh thể bao gồm Đảng cộng sản, Nhà nước xã hội chủ nghĩa cùng các tổ chức chính trị xã hội hợp pháp và mối quan hệ qua lại giữa các yếu tố đó nhằm bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân và vì mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. ở nước ta, giai cấp công nhân và nhân dân lao động là chủ thể chân chính của quyền lực. Bởi vậy, hệ thống chính trị ở nước ta là cơ chế, là công cụ thực 10 hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay bao gồm: Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp khác của nhân dân được thành lập, hoạt động trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, thực hiện và đảm bảo đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Như vậy, về cơ cấu tổ chức, hệ thống chính trị ở nước ta bao gồm ba bộ phận: Đảng cộng sản Việt Nam là hạt nhân và là lực lượng lãnh đạo hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa và toàn thể xã hội; Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là trụ cột, là trung tâm của hệ thống chính trị; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội là cơ sở chính trị của nhà nước và xã hội. Do điều kiện lịch sử ra đời, tồn tại và phát triển của mình, hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay có bản chất và những đặc điểm sau: * Về bản chất: Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, nhân dân ta đã đứng lên làm cách mạng, giành lấy quyền lực và tổ chức ra hệ thống chính trị của mình. Vì vậy, hệ thống chính trị ở nước ta có những bản chất sau: Một là, hệ thống chính trị ở nước ta mang bản chất của giai cấp công nhân, nghĩa là các tổ chức trong hệ thống chính trị đều đứng vững trên lập trường quan điểm của giai cấp công nhân. Từ đó quy định chức năng, nhiệm vụ, phương hướng hoạt động của toàn bộ hệ thống chính trị, đảm bảo quyền làm chủ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. 11 Hai là, bản chất dân chủ của hệ thống chính trị ở nước ta thể hiện trước hết ở chỗ: Quyền lực thuộc về nhân dân với việc Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, thiết lập sự thống trị của đa số nhân dân với thiểu số bóc lột. Ba là, bản chất thống nhất không đối kháng của hệ thống chính trị ở nước ta. Bản chất đó dựa trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, về sự thống nhất giữa những lợi ích căn bản của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc. Thứ nhất, các tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta đều lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Các quan điểm và nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đều được các tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta vận dụng, ghi rõ trong hoạt động của từng tổ chức vì: Chủ nghĩa Mác-Lênin là hệ thống có khả năng phát hiện và khái quát được những quy luật cơ bản nhất trong sự phát triển của lịch sử nói chung, sự quá độ của loài người sang Chủ nghĩa xã hội và Chủ nghĩa Cộng sản nói riêng. Nó làm sáng tỏ lực lượng chủ yếu có khả năng hiện thực hoá những quy luật, tính quy luật đó trong thời đại ngày nay cùng những phương thức, phương tiện và lực lượng có khả năng sử dụng các phương tiện đó để đạt kết quả. Do vậy chủ nghĩa Mác-Lênin là lý luận cách mạng và khoa học trong thời đại ngày nay. Bằng thành quả đạt được của mình, chủ nghĩa Mác-Lênin không chỉ phê phán sâu sắc, triệt để các thiết chế chính trị lỗi thời đang kìm hãm sự giải phóng con người nói chung, giải phóng nhân dân lao động nói riêng, mà còn có khả năng quy tụ sức mạnh của mọi người lao động dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua Đảng tiên phong của nó vào sự nghiệp cách mạng cải tạo hiện thực, nhằm khắc phục mọi sự tha hoá do chế độ hữu sản sinh ra, trả lại cho con người bản chất vốn có của nó. 12 Tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể ở nước ta, mà còn là sự bổ sung vào kho tàng chủ nghĩa Mác-Lênin những luận điểm mới liên quan tới quá trình cách mạng nhằm đưa một đất nước vốn là thuộc địa, nửa phong kiến ở phương Đông đi lên Chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển Tư bản chủ nghĩa. Do vậy, sự thống nhất giữa bản chất cách mạng và khoa học trong chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở quy định sự thống nhất giữa tính cách mạng và khoa học trong tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay. Thứ hai, hệ thống chính trị ở nước ta đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng là một tổ chức trong hệ thống chính trị nhưng có vai trò lãnh đạo các tổ chức trong hệ thống chính trị. Trong điều kiện cụ thể ở nước ta, do những phẩm chất của mình - Đảng là đại biểu cho ý chí và lợi ích thống nhất của các dân tộc; do truyền thống lịch sử mang lại và do những thành tựu rất to lớn đạt được trong hoạt động thực tiễn cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng... làm cho Đảng ta trở thành Đảng chính trị duy nhất có khả năng tập hợp quần chúng lao động đông đảo để thực hiện lý tưởng của Đảng, nhân dân tự nguyện đi theo Đảng, thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, trong thực tế. Đây là đặc trưng cơ bản của hệ thống chính trị ở nước ta. Thứ ba, hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Việc quán triệt nguyện tắc tập trung dân chủ là nhân tố cơ bản đảm bao cho hệ thống chính trị có được sự thống nhất về tổ chức và hành động, nhằm phát huy sức mạnh đồng bộ của toàn hệ thống trong sự kết hợp chặt chẽ sức mạnh của từng yếu tố cấu thành hệ thống đó. Mặt khác, việc quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và vận hành cũng cho phép kết hợp hài hoà giữa việc phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị từ cấp trung ương tới cấp cơ sở thuộc mọi cấp độ tồn tại của nó. 13 Theo nguyên tắc tập trung dân chủ, hệ thống chính trị ở nước ta không tổ chức theo kiểu phân lập các quyền, nhưng có sự phân cấp nhất định. Trung ương tập trung hoàn thành những chức năng thuộc về quản lý vĩ mô các vấn đề quan trọng nhất liên quan tới toàn bộ đời sống xã hội. Hệ thống chính trị ở địa phương và cơ sở quản lý toàn diện những vấn đề trên địa bàn lãnh thổ nhằm phát huy khả năng và năng lực của địa phương. Nó có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm tính đồng bộ, tính hài hoà trên địa bàn lãnh thổ, nó cũng cho phép thực hiện tốt công tác vận động quần chúng để thực hiện có hiệu quả những chủ trương đã được đưa ra. Nhưng, trong khi thực hiện quản lý toàn diện trên địa bàn lãnh thổ, nội dung hoạt động của hệ thống chính trị ở địa phương và cơ sở không được trái với quy định của cấp trên. Thứ tư, hệ thống chính trị ở nước ta bảo đảm sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân và tính nhân dân, tính dân tộc rộng rãi. Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay mang bản chất của giai cấp công nhân. Điều này được thể hiện ở chỗ: hệ thống chính trị này được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, Hiến pháp và pháp luật do Nhà nước trọng hệ thống đó đưa ra là sự thể chế hoá đường lối chính trị của Đảng, mọi chính sách đều quán triệt quan điểm giai cấp công nhân và nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân, của dân tộc. Tính nhân dân của hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay trước hết và chủ yếu biểu hiện ở chỗ: Nhà nước ấy do nhân dân lập ra thông qua tổng tuyển cử tự do, nó là cơ chế bảo đảm quyền lực của nhân dân, sức mạnh của hệ thống ấy bắt nguồn từ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, mọi chủ trương của hệ thống đó đưa ra là thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Tính dân tộc của hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay biểu hiện ở chỗ: nó ra đời từ cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài nhằm giải phóng dân tộc; ở hệ thống ấy luôn xem việc tổ chức và động viên cuộc đấu tranh của cả dân tộc, nhằm bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ Tổ quốc gắn liền với sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là định hướng cơ bản cho hoạt động của mình. 14 Đây là đặc điểm khác biệt căn bản của hệ thống chính trị ở nước ta với hệ thống chính trị của các nước tư bản chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, sự thống nhất lợi ích giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao động cũng như của cả dân tộc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 1.1.2. Quan niệm về hệ thống chính trị cấp huyện Cấp huyện và hệ thống chính trị cấp huyện là cấp trên cơ sở thuộc hệ thống phân cấp quản lý Nhà nước gồm bốn cấp như hiện nay. Trong cả nước hiện nay có 663 huyện - quận - thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thì có tới 538 là huyện, do vậy có thể thấy huyện là đơn vị chiếm đa số trong tổng số đơn vị cùng cấp ở nước ta. Nói tới hệ thống chính trị cấp huyện - quận - thị xã, thành phố (thuộc tỉnh), trong đó huyện chiếm tới gần 82% trong tổng số các đơn vị hành chính cấp huyện, qua đó có thể nhận thấy cấp huyện ở nước ta chủ yếu là ở nông thôn, hệ thống chính trị địa phương ở nước ta chủ yếu là hệ thống chính trị cấp huyện. Do vậy phải coi đây là một điểm quan trọng cần phải đột phá trong đổi mới hệ thống chính trị, trong đó cần xác định vai trò của Đảng bộ huyện hoặc huyện ủy, chính quyền huyện (Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân), mối quan hệ giữa Huyện và cơ sở, của Mặt trận Tổ quốc huyện và các đoàn thể, các tổ chức chính quyền cấu thành hệ thống chính trị, các phương thức tổ chức, hoạt động cùng các mối quan hệ giữa chúng. Như trên đã trình bày, hệ thống chính trị ở nước ta có đặc điểm nổi bật là tính nhất nguyên chính trị và một Đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo, đó là Đảng cộng sản. Chỉ có một hệ thống chính trị duy nhất và thống nhất trong cả nước mà Đảng cộng sản là hạt nhân lãnh đạo. Các khái niệm trung ương- địa phương- cơ sở (Trung ương - tỉnh, thành - quận, huyện - xã, phường, thị trấn) chỉ là những cấp độ khác nhau. Do đó hệ thống chính trị cấp huyện có nghĩa là cấp địa phương của hệ thống chính trị nói chung có tính toàn vẹn, duy nhất. Vì hệ 15 thống chính trị cấp huyện nằm trong hệ thống chính trị quốc gia nên tất yếu nó cũng bao gồm các tổ chức trong đó: Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và tổ chức, các đoàn thể chính trị - xã hội (trên cơ sở Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Mặt trận tập hợp lực lượng thực hiện đại đoàn kết dân tộc, hiệp thương chính trị, hợp tác và hỗ trợ xã hội). Việc chưa làm rõ chức năng, nhiệm vụ, phương thức tổ chức và hoạt động của các tổ chức trong cùng cấp của hệ thống chính trị đã ảnh hưởng lớn tới hiệu quả hoạt động - đây là một trong những yếu kém nổi bật nhất trong hệ thống chính trị ở nước ta. Hiệu quả hoạt động phải được xác định ở chỗ: từng tổ chức phải mạnh, từ đó tạo ra sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống. Sự yếu kém của bất kì một tổ chức nào đều có thể làm yếu kém một tổ chức khác và hạn chế hiệu quả hoạt động của cả hệ thống nói chung. Có thể khái quát tính chất của hệ thống chính trị cấp huyện như sau: * Tính hệ thống của hệ thống chính trị cấp huyện được thể hiện trên các mặt, cụ thể sau: - Các tổ chức thành viên của hệ thống chính trị ở cấp huyện cùng tồn tại và hoạt động trên cùng một địa bàn lãnh thổ - dân cư đó là đơn vị hành chính cấp huyện. - Các thành viên của hệ thống chính trị thống nhất đặt dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy về những nội dung cơ bản như: đường lối, chủ trương, quản lí phát triển kinh tế- xã hội và công tác tổ chức cán bộ. - Các thành viên của hệ thống chính trị thống nhất tiến hành các mặt hoạt động trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nước và sự quản lý, điều hành của chính quyền địa phương; theo các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của Nhà nước, đó là nguyên tắc Đảng lãnh đạo, nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. - Mặc dù có chức năng, nhiệm vụ, cách thức tổ chức và phương thức hoạt động khác nhau nhưng các thành viên của hệ thống chính trị thống nhất cùng hướng tới các mục tiêu chung là phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện, 16 chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, tất cả vì mục tiêu chung của xã hội là thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”. Trong sự thống nhất của hệ thống chính trị, Đảng là bộ phận hạt nhân, giữ vai trò lãnh đạo hệ thống; chính quyền là lực lượng chủ đạo, giữ vai trò quản lý, điều hành và Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân là tổ chức đại diện quyền làm chủ của các tầng lớp nhân dân. Các cấp ủy, các tổ chức Đảng vừa là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị, lãnh đạo chính quyền và là cầu nối giữa nhân dân với chính quyền. Chính quyền là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, trực tiếp quản lý, tổ chức đời sống mọi mặt ở địa phương, phát huy mọi tiềm năng nhân tài và vật lực trên địa bàn phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở địa phương là cầu nối giữa nhân dân với Đảng và chính quyền, đại biểu cho lợi ích của các tầng lớp nhân dân, là hậu thuẫn của Đảng, chính quyền huyện. * Tính thống nhất của hệ thống chính trị cấp huyện: Quan hệ giữa Đảng và chính quyền: Bản chất của mối quan hệ giữa Đảng và chính quyền cấp huyện là Đảng lãnh đạo chính quyền (thông qua huyện ủy và thường vụ). Chính quyền triển khai thực hiện nghị quyết của huyện ủy bằng phương thức quản lí Nhà nước; tổ chức, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia quản lí Nhà nước, quản lí xã hội và các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội. Mối quan hệ này được thực hiện thông qua mối quan hệ cụ thể giữa huyện ủy với hội đồng nhân dân huyện; giữa huyện ủy với ủy ban nhân dân huyện; Bí thư huyện ủy với Chủ tịch ủy ban nhân dân huyện… Huyện ủy thực hiện sự lãnh đạo đối với ủy ban nhân dân, hội đồng nhân dân huyện bằng các chủ trương, chính sách, chỉ thị, nghị quyết và các biện pháp khác; bằng việc bố trí cán bộ và quyền kiểm tra việc chấp hành chủ trương, chính sách, chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Sự lãnh đạo của cấp ủy còn thông qua 17 những đảng viên phụ trách và công tác trong Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân. Chủ tịch Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân phải phục tùng, chịu sự lãnh đạo của Bí thư. Huyện ủy ra nghị quyết và Hội đồng nhân dân tiếp thu, soạn thảo và ra quyết định có tính chất pháp lý. Trên cơ sở đó ủy ban nhân dân điều hành, tổ chức thực hiện theo chức năng, quyền hạn như luật định. Căn cứ vào Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ và của Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách hàng năm của địa phương, báo cáo thường vụ và Huyện ủy thông qua, sau đó trình Hội đồng nhân dân xem xét, quyết định. Hiện nay, ở Hoài Đức Bí thư huyện ủy kiêm luôn Chủ tịch Hội đồng nhân dân. Đây cũng là mô hình mà nhiều địa phương thực hiện vì nó đem lại hiệu quả và tập trung quyền lực, tinh giảm số lượng cán bộ lãnh đạo. Bí thư vừa là người quyết định chủ trương vừa trực tiếp chủ trì hoạt động của Hội đồng nhân dân. Chủ tịch ủy ban nhân dân huyện với tư cách là người đứng đầu cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương đồng thời là phó Bí thư huyện ủy, chịu sự lãnh đạo của Bí thư kiêm Chủ tịch Hội đồng nhân dân. Bí thư có quyền yêu cầu Chủ tịch huyện báo cáo, có quyền chỉ thị, chỉ đạo, đôn đốc Chủ tịch huyện thực hiện trách nhiệm của mình. Quan hệ giữa những người đứng đầu tổ chức Đảng và chính quyền là quan hệ thường xuyên, hàng ngày nhằm giải quyết những công việc đòi hỏi sự thống nhất quan điểm, biện pháp tiến hành và mục tiêu cần đạt. Do vậy, nhất thiết Bí thư, Chủ tịch phải là những cán bộ có khả năng lãnh đạo, quản lý, tổ chức giỏi, có phẩm chất và đạo đức trong sáng, có uy tín trước Đảng, trước nhân dân. Quan hệ giữa Đảng với các đoàn thể chính trị - xã hội cấp huyện. Huyện ủy không chỉ lãnh đạo chính quyền mà còn lãnh đạo các đoàn thể nhân dân. Mối quan hệ ở đây là quan hệ lãnh đạo - phục tùng; Ban chấp hành các đoàn thể nhân dân có trách nhiệm báo cáo hoạt động của tổ chức mình với Huyện ủy và đoàn thể cấp trên để xin ý kiến chỉ đạo. Huyện ủy, Ban thường vụ huyện ủy có quyền chỉ đạo hoạt động của các tổ chức này. Bí thư huyện ủy có 18 quyền thay mặt Huyện ủy, Ban thường vụ huyện ủy để có ý kiến chỉ đạo, chỉ thị, đôn đốc trưởng các đoàn thể nhân dân. Huyện ủy lãnh đạo các đoàn thể nhân dân bằng chủ trương, quan điểm; bằng công tác cán bộ; bằng công tác chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra. Tuy vậy, trong mối quan hệ này, các đoàn thể nhân dân mặc dù chịu sự lãnh đạo của Đảng nhưng có tính độc lập tương đối, không phải là quan hệ một chiều. Huyện ủy ra nghị quyết, các tổ chức đoàn thể thực hiện, nhưng ý kiến, nguyện vọng, sáng kiến đóng góp của nhân dân trong thực tiễn phong trào của các đoàn thể lại bổ sung cho những quyết định của Huyện ủy. Quan hệ giữa chính quyền và các đoàn thể. Ngoài mối quan hệ giữa Đảng và chính quyền, giữa Đảng và các đoàn thể nhân dân thì quan hệ giữa chính quyền, cụ thể là Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân với các đoàn thể nhân dân là rất quan trọng, đặc biệt là với Mặt trận Tổ quốc. Hiến pháp năm 1992 khẳng định: Mặt trận Tổ quốc là cơ sở chính trị của Nhà nước ta, là nơi tập hợp lực lượng, động viên các tầng lớp nhân dân trong việc xây dựng chính quyền và thực hiện các chương trình, mục tiêu do Huyện ủy và Hội đồng nhân dân đề ra. Mặt trận Tổ quốc được giao nhiệm vụ chủ trì, hiệp thương, lập danh sách các ứng cử viên để dân bầu vào Hội đồng nhân dân. Mặt trận Tổ quốc là một thành phần của Hội đồng bầu cử, tham gia tổ chức và giám sát cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân. Chủ tịch Hội đồng nhân dân phải thông báo bằng văn bản đến Mặt trận Tổ quốc về tình hình hoạt động của Hội đồng nhân dân và nêu những kiến nghị với Mặt trận Tổ quốc hai lần trong năm. Ngược lại, trong kỳ họp Hội đồng nhân dân, đại diện của Mặt trận Tổ quốc cùng đại diện của các đoàn thể nhân dân phải báo cáo hoạt động của mình trong việc xây dựng chính quyền. Đại diện của Mặt trận Tổ quốc huyện và các đoàn thể nhân dân được mời dự các cuộc họp của ủy ban nhân dân về những vấn đề có liên quan. Những quy định trên xác định mối quan hệ giữa các thành viên của hệ thống chính trị cấp huyện. Đây là những quy định mang tính thủ tục hành chính. Tuy vậy, trên thực tế việc phối hợp trong hoạt động của các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị cấp huyện vẫn còn hạn chế, chưa tạo ra được sức mạnh của cả 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất