Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đánh giá về thành phần loài, năng suất, chất lượng của tập đoàn cây thức ăn gia ...

Tài liệu đánh giá về thành phần loài, năng suất, chất lượng của tập đoàn cây thức ăn gia súc huyện yên sơn - tỉnh tuyên quang

.PDF
131
66714
188

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM MAI HOÀNG ĐẠT ĐÁNH GIÁ VỀ THÀNH PHẦN LOÀI, NĂNG SUẤT, CHẤT LƯỢNG CỦA TẬP ĐOÀN CÂY THỨC ĂN GIA SÚC HUYỆN YÊN SƠN - TỈNH TUYÊN QUANG LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC Thái Nguyên – 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM MAI HOÀNG ĐẠT ĐÁNH GIÁ VỀ THÀNH PHẦN LOÀI, NĂNG SUẤT, CHẤT LƯỢNG CỦA TẬP ĐOÀN CÂY THỨC ĂN GIA SÚC HUYỆN YÊN SƠN TỈNH TUYÊN QUANG Chuyên ngành: Sinh thái học Mã số: 60-42-60 LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. HOÀNG CHUNG Thái Nguyên - 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 1.1: Sản lượng VCK và chất lượng những loài cỏ trên vùng đất thấp vào 45 ngày cắt. Bảng 1.2. Sản lượng VCK của cỏ Ghinê tía cắt sau 30 ngày Bảng 1.3. Năng suất của các giống cỏ hoà thảo (tấn/ha/năm) Bảng 1.4. Giá trị dinh dưỡng của một số cây thức ăn chăn nuôi được phân tích, đánh giá tại Việt Nam Bảng 1.5. Những dạng sống chính của thực vật đồng cỏ vùng núi Bắc Việt Nam Bảng 1.6. Thành Phần hoá học và giá trị dưỡng của một số loài cỏ chính Bảng 1.7. Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của cỏ voi Bảng 1.8. Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của cỏ Ghinê Bảng 1.9. Giá trị dinh dưỡng cỏ Stylo theo tháng tuổi Bảng 1.10. Giá trị dinh dưỡng của ngô trong các giai đoạn khác nhau. Bảng1.11. Giá trị dinh dưỡng một số cây thức ăn chăn nuôi cơ bản Bảng 2.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện Bảng 4.1. Thành phần loài tại các điểm nghiên cứu Bảng 4.2. Năng suất của các nhóm thực vật tại các điểm nghiên cứu Bảng 4.3. Chất lượng của cỏ tại các điểm nghiên cứu Bảng 4.4. Thành phần loài, năng suất, diện tích cỏ trồng trên địa bàn huyện Bảng 4.5. Thống kê diện tích, năng suất, sản lượng của một số cây trồng khác có thể làm thức ăn gia súc năm 2008 của toàn huyện. Bảng 4.6. Chất lượng cỏ Voi và cỏ VA 06 tại một số điểm nghiên cứu Bảng 4.7. Giá trị dinh dưỡng đất tại các điểm nghiên cứu Bảng 4.8. Giá trị dinh dưỡng đất tại các điểm nghiên cứu cỏ trồng Bảng 4.9. Tổng hợp kết quả điều tra mô hình chăn nuôi bò sữa tại Hoàng Khai Bảng 4.10. Số lượng đàn và biến động số lượng qua các năm tại gia đình ông Hoàn Bảng 4.11. Đàn trâu, bò của huyện Yên Sơn tính đến 1/10/2008 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn MỤC LỤC Trang Mở đầu 1 Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4 1.1. Tình hình nghiên cứu về cây thức ăn gia súc trên thế giới và ở Việt Nam 4 1.1.1. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc trên thế giới 5 1.1.2. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc ở Việt Nam 9 1.2. Tình hình nghiên cứu về đồng cỏ tự nhiên 14 1.2.1. Vấn đề nguồn gốc và phân bố đồng cỏ trong đai nhiệt đới 14 1.2.2. Những nghiên cứu về khu hệ thực vật 15 1.2.3. Những nghiên cứu về dạng sống 17 1.2.4. Những nghiên cứu về năng suất 18 1.2.5. Giá trị chăn thả của tập đoàn cây cỏ trong đồng cỏ Bắc Việt Nam 20 1.2.6. Vấn đề thoái hoá đồng cỏ do chăn thả 23 1.2.7. Những nghiên cứu về sử dụng đồng cỏ Việt Nam 25 1.3. Tình hình nghiên cứu về đồng cỏ trồng 26 1.3.1. Tình hình phát triển đồng cỏ trên thế giới 26 1.3.2. Tình hình phát triển đồng cỏ ở Việt Nam 26 1.3.3. Đặc điểm thành phần dinh dưỡng của cỏ, cây trồng làm thức ăn gia súc 1.4. Nhận xét chung 38 Chƣơng 2: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN – KINH TẾ Xà HỘI VÙNG NGHIÊN CỨU 28 39 2.1. Điều kiện tự nhiên 39 2.1.1. Vị trí địa lý 39 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2.1.2. Địa hình, địa mạo 39 2.1.3. Khí hậu, thời tiết 40 2.1.4. Thuỷ văn 42 2.2. Các nguồn tài nguyên 43 2.2.1. Tài nguyên đất 43 2.2.2. Các loại tài nguyên khác 45 2.3. Thực trạng môi trường 47 2.4. Phát triển kinh tế nông nghiệp 48 2.5. Đánh giá chung 50 Chƣơng 3: ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 51 3.1. Đối tượng nghiên cứu 51 3.2. Phương pháp nghiên cứu 51 3.2.1. Các phương pháp nghiên cứu ngoài thiên nhiên 51 3.2.2. Các phương pháp nghiên cứu trong phòng thí nghiệm 54 Chƣơng 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 4.1. Tập đoàn cây cỏ tự nhiên là thức ăn gia súc huyện Yên Sơn – Tuyên Quang 4.1.1. Thành phần loài cỏ tự nhiên 63 63 63 4.1.2. Năng suất, chất lượng của tập đoàn cây cỏ tự nhiên là thức ăn gia súc huyện Yên Sơn – Tuyên Quang 4.2. Thành phần loài, năng suất cây và cỏ trồng làm thức ăn gia súc 4.2.1. Thành phần loài, năng suất cỏ trồng 71 76 76 4.2.2. Thành phần loài, năng suất các loài cây trồng khác được sử dụng làm thức ăn gia súc 81 4.2.3. Chất lượng của cỏ trồng làm thức ăn gia súc tại các điểm 4.3. Đánh giá chất lượng đất tại các điểm nghiên cứu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 89 http://www.lrc-tnu.edu.vn 4.3.1. Đánh giá chất lượng đất cỏ tự nhiên 89 4.3.2. Đánh giá chất lượng đất trồng cỏ 90 4.4. Đánh giá một số mô hình kinh tế chăn nuôi trong địa bàn huyện 4.4.1. Mô hình trồng cỏ Voi thương phẩm 92 92 4.4.2. Mô hình chăn nuôi bò sữa tại trại bò Hoàng Khai – Xã Hoàng Khai – Yên Sơn 93 4.4.3. Mô hình trồng cỏ voi, nuôi bò thịt 97 4.4.4. Mô hình trồng cỏ Voi, VA 06 thương phẩm 98 4.4.5. Mô hình kết hợp trồng cỏ giống và thương phẩm 101 4.4.6. Mô hình trồng cỏ, nuôi bò kết hợp chăn thả 103 4.5. Đề xuất mô hình chăn nuôi 106 4.5.1. Mô hình chăn nuôi hộ gia đình 108 4.5.2. Mô hình chăn nuôi trang trại nhỏ 109 4.5.3. Mô hình trồng cỏ, ngô thương phẩm 110 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 112 1. Kết luận 112 2. Đề nghị 113 TÀI LIỆU THAM KHẢO Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 114 http://www.lrc-tnu.edu.vn MỞ ĐẦU Việt Nam là nước có nền kinh tế nông nghiệp lâu đời với hai ngành truyền thống là trồng trọt và chăn nuôi. Sản lượng xuất khẩu các mặt hàng nông sản của Việt Nam luôn đứng hàng đầu thế giới. Ngành chăn nuôi của Việt Nam ngày càng phát triển mạnh mẽ với số lượng và chất lượng cao, đặc biệt là chăn nuôi đại gia súc. Xác định tầm quan trọng của vấn đề này, Bộ NN&PTNT cùng với Cục chăn nuôi đã tổ chức nhiều hội nghị về đẩy mạnh sản xuất, chế biến, bảo quản thức ăn thô xanh, phát triển chăn nuôi gia súc ăn cỏ, trong đó nêu rõ: - Chăn nuôi gia súc ăn cỏ là một trong những thế mạnh của Việt Nam, góp phần quan trọng để chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, tạo việc làm, tăng thu nhập cải thiện đời sống cho nông dân. - Phát triển chăn nuôi gia súc ăn cỏ là một trong những định hướng ưu tiên của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn từ nay đến 2015 và tầm nhìn 2020 để đữa chăn nuôi lên quy mô trang trại sản xuất hàng hoá cung cấp các sản phẩm chăn nuôi giá trị cao và an toàn vệ sinh cho nhu cầu của xã hội - Muốn phát triển chăn nuôi gia súc ăn cỏ có hiệu quả kinh tế cao cần phát huy tiềm năng và thế mạnh các vùng sinh thái của các địa phương trong cả nước, sử dụng hợp lý nguồn thức ăn thô xanh để phát triển chăn nuôi bền vững. (Hội nghị đẩy mạnh sản xuất, chế biến, bảo quản thức ăn thô xanh phát triển chăn nuôi gia súc ăn cỏ tháng 7 năm 2007) Ngày 26 tháng 6 năm 2008, tại Hội nghị triển khai chiến lược phát triển chăn nuôi năm 2020 tại các tỉnh phía Bắc do Cục Chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp & PTNT tổ chức, Thủ tướng đã phê duyệt chiến lược, đến năm 2010, tỷ trọng chăn nuôi sẽ chiếm khoảng 32%, đến 2015 là 38% và đạt trên 42% vào năm 2020. Như vậy, trong giai đoạn 2008-2010, ngành Chăn nuôi phải tăng bình Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 http://www.lrc-tnu.edu.vn quân 8%-9%/năm; giai đoạn 2010-2015 là 6% - 7%/năm và giai đoạn 20152020 là 5% - 6%/năm. Hình thức chăn thả tự nhiên theo cung cách truyền thống như trước ngày nay không còn phổ biến. Ngày càng xuất hiện nhiều mô hình kinh tế đạt hiệu quả cao với cách thức trồng cỏ và nuôi nhốt, mô hình chăn nuôi trang trại ngày càng được nhân rộng và khuyến khích phát triển. Theo báo cáo của 64 tỉnh, thành phố (vào cuối năm 2006), toàn quốc có 17.721 trang trại chăn nuôi (trong đó có 6.405 trang trại chăn nuôi bò), trong đó miền Bắc là 6.313 trang trại , chiếm 35,6%; miền Nam là 11.408 trang trại, chiếm 64,4%. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê năm 2001 toàn quốc có 1.761 trang trại chăn nuôi, như vậy, sau 5 năm số lượng trang trại chăn nuôi tăng hơn 15.960 trang trại, bình quân mỗi năm tăng 3.192 trang trại, tăng 58,7%/năm) [4]. Tuy nhiên, trong hình thức nuôi nhốt đại gia súc, nguồn thức ăn là một vấn đề thiết yếu, quyết định tính thành hay bại của một mô hình. Khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam là nơi có ngành chăn nuôi đại gia súc phát triển mạnh, trong đó có tỉnh Tuyên Quang. Theo số liệu của Cục Thống kê Tuyên Quang, tính đến thời điểm tháng 4/2009, toàn tỉnh có đàn trâu 144.693 con, đàn bò 53.043 con. Đã có nhiều dự án lớn về chăn nuôi đại gia súc được thực hiện tại Tuyên Quang, với trọng điểm là huyện Yên Sơn. Trong đó có những mô hình thành công bước đầu, có mô hình gặp phải thất bại. Một trong những nguyên nhân chính là do nguồn thức ăn không đáp ứng đủ số lượng và chất lượng so với nhu cầu thực tế. Với truyền thống làm nghề nông nghiệp lâu đời, nên huyện Yên Sơn – Tuyên Quang vẫn rất trú trọng phát triển kinh tế nông nghiệp, với mục tiêu cụ thể đến năm 2009: Về trồng trọt: Sản lượng lương thực đạt trên 71.000 tấn, năng suất lúa bình quân đạt trên 59 tạ/ha (năng suất lúa lai đạt trên 63 tạ/ha) và trồng 2.468,3 ha ngô, năng suất bình quân đạt 45,9 tạ/ ha. Về chăn nuôi: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 http://www.lrc-tnu.edu.vn Tiếp tục phát triển đàn gia súc, gia cầm trên địa bàn phấn đấu đạt kế hoạch năm 2009; đàn trâu 29.691 con; đàn bò 15.440 con; đàn lợn 103.100 con; đàn gia cầm 1.102.552 con. Tiếp tục thực hiện có hiệu quá chương trình cải tạo, nâng cao thể trạng, chất lượng đàn bò vàng địa phương bằng phương pháp truyền giống nhân tạo và phối giống trực tiếp cho bò cái bằng giống bò đực lai Sind; chọn lọc những trâu đực giống đủ tiêu chuẩn đưa vào quản lý và luân chuyển giữa các vùng để phục vụ tráng đàn trâu khu vực thượng huyện ATK. Xây dựng kế hoạch cụ thể để thực hiện các dự án, mô hình chăn nuôi trên địa bàn huyện, khai thác thế mạnh của vùng quy hoạch tập trung chăn nuôi, xây dựng các mô hình chăn nuôi và chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật cho người chăn nuôi. [42] Đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về chăn nuôi và đồng cỏ thực hiện tại Tuyên Quang, nhưng chưa có một công trình nào đánh giá một cách đầy đủ về thực trạng tập đoàn cây thức ăn gia súc bao gồm cả cỏ trồng, cỏ tự nhiên và những cây trồng khác tại huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Chính vì những lí do trên, chúng tôi chọn thực hiện đề tài:” Đánh giá về thành phần loài, năng suất, chất lượng của tập đoàn cây thức ăn gia súc huyện Yên Sơn tỉnh Tuyên Quang”. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 http://www.lrc-tnu.edu.vn Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Tình hình nghiên cứu về cây thức ăn gia súc trên thế giới và ở Việt Nam Cây thức ăn xanh bao gồm sản phẩm cây mùa vụ còn lại, cây cỏ hoà thảo, cây đậu, cây thân thảo hay thân gỗ mà có thể được sử dụng là thức ăn cho gia súc. Những cây này cũng có thể được sử dụng vào những mục đích khác nhau như bảo vệ đất, chống xói mòn, làm tăng độ màu mỡ của đất và hạn chế cỏ dại [1]. Hòa thảo là loại thức ăn chủ yếu của trâu bò, vì trong cỏ có đầy đủ chất dinh dưỡng như bột, đường, đạm, khoáng, vitamin mà các loại gia súc nhai lại có khả năng sử dụng và hấp thụ tốt. Mặt khác, các chất dinh dưỡng trong cỏ không những rất cần thiết mà lại có tỉ lệ thích hợp đối với nhu cầu sinh lý của trâu bò. Ví dụ: nếu tỉ lệ đường - đạm thích hợp nhất cho khẩu phần thức ăn của bò sữa là 1:1 thì tỉ lệ đó trong cỏ non thay đổi từ 1:1 đến 1.4:1 [2]. Cỏ còn là loại cây thức ăn dễ sản xuất, có năng suất cao, tương đối ổn định và là nguồn thức ăn rẻ tiền góp phần làm giảm giá thành sản phẩm chăn nuôi, chưa kể ưu thế của các giống cỏ lâu năm là thường chỉ cần gieo trồng một lần mà sử dụng được nhiều năm. Họ Hoà thảo quan trọng không những vì nó phân bố rộng rãi chiếm tỉ lệ cao trong số thực vật trên đồng cỏ, có giá trị dinh dưỡng cao, nhất là lượng hyđratcacbon và đặc biệt là các chất đinh dưỡng được bảo tồn, ít hao hụt khi thu hoạch. Các cây họ đậu tuy chiếm tỉ lệ ít hơn trong số cây cỏ làm thức ăn gia súc nhưng có vai trò quan trọng vì giá trị dinh dưỡng cao, nhất là lượng Protein và khoáng thích hợp cho việc chế biến thức ăn tinh bổ sung. Ở bãi cỏ tự nhiên với điều kiện thổ nhưỡng tốt thì 1kg cỏ tươi cung cấp được 16g protein tiêu hoá và 32g lipit, 8 kg loại cỏ này tương đương 1 đơn vị thức ăn [38]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 http://www.lrc-tnu.edu.vn Theo Meilroy (1972) cần chọn cỏ để làm thức ăn gia súc là khi thu hoạch dưới dạng này hay dạng khác phải đảm bảo các yêu cầu sau [52]: - Cỏ phải có khả năng tái sinh mầm chồi còn lại sau mỗi lần thu hoạch. - Các tế bào sinh trưởng phải tập trung phần lớn ở các gốc là nơi thu hoạch ít bị ảnh hưởng tới. - Cần sinh trưởng liên tục với khả năng chịu hạn và chịu lạnh cao. - Cần có thân ngầm để tạo điều kiện phát triển cả trên và dưới mặt đất. - Có hệ thống rễ phát triển để cho phép chịu đựng sự thu hoạch và đảm bảo lấy được dinh dưỡng đã được giải phóng hay phân huỷ từ dưới. Tuy nhiên, để chọn làm cỏ chăn thả hay thu cắt cần phải dựa vào các nhân tố sau để xét duyệt và quyết định hướng sử dụng cho từng loại cỏ như: độ ngon miệng cao, nhất là cỏ thu cắt; phải có giá trị dinh dưỡng cao để đáp ứng nhu cầu gia súc về các mặt; có khả năng cạnh tranh điều kiện sinh tồn và khả năng được trồng kết hợp; có khả năng chịu đựng sự dẫm đạp liên tục của gia súc và cỏ thu cắt phải chịu được sự cắt và nén của máy thu hoạch; cỏ chăn và cỏ cắt đều phải có năng suất cao để đạm bảo nhu cầu gia súc và giảm diện tích gieo trồng;... 1.1.1. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc trên thế giới 1.1.1.1. Tình hình phát triển Trên thế giới, ở các nước có nền chăn nuôi đại gia súc phát triển, vấn đề thức ăn rất được quan tâm và đầu tư nghiên cứu như: Úc, Mỹ, Brazin,...chăn nuôi là một bộ phận quan trọng trong hệ thống sản xuất vùng đồi núi ở vùng Đông Nam Á, nên cũng đã có những quan tâm đầu tư cho lĩnh vực này. - Ở Inđonexia, trong tình hình thức ăn của trâu, bò chiếm 56% là cỏ tự nhiên, 21% là rơm, 16% là cây khác và 7% là phụ phẩm thì trong 4 giải pháp để giải quyết thức ăn là thâm canh, trồng giống cỏ tốt (cỏ Voi và cây Đậu) [30]. Ngoài ra còn có các chương trình về giống cây thức ăn với CIAT và CSIRO để tìm ra những giống cây thích hợp với đất có độ PH thấp trong thực Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 http://www.lrc-tnu.edu.vn trạng đa dạng các điều kiện canh tác nông hộ, 36 giống cây thức ăn từ úc (CSIRO), Columbia (CIAT) và Philipin được đưa vào trồng ở vùng Cast Kalimantan (Ibrahim 1994): Nhiều giống thể hiện thích hợp ở khu vực trong đó có 18 giống cây đậu và 9 giống cỏ hoà thảo. - Ở Thái Lan: Với 70% dân liên quan đến sản phẩm nông nghiệp, sản phẩm trồng trọt có giá trị thấp, thịt bò và sữa dê chưa cung cấp được theo nhu cầu tiêu dùng. Năm 1992 sản phẩm sữa nhập vào Thái Lan 114.012 tấn, chi phí mất 2.222.81 triệu USD (nguồn: tài liệu thống kê nông nghiệp Thái Lan 1992 –1993). Chính phủ Thái Lan có chủ trương tăng thu nhập của người nông dân bằng giải pháp: Giảm trồng lúa, sắn và đẩy mạnh phát triển chăn nuôi đặc biệt là gia súc nhai lại. Nông dân nuôi bò trong dự án được cấp giống cỏ để trồng. Thái Lan đã sản xuất được 418 tấn hạt cỏ (1991) và 1.336 tấn (1994). Trong điều kiện d iện tích chăn thả hẹp, mùa khô kéo dài, đất dinh dưỡng kém, chua, mặn, ngập nước, dự án cây nhập nội đã đánh giá: ở Khon Kean 37 giống cây thức ăn trồng để chọn giống thích hợp với đất cát khô, đã chọn được mười giống cây cỏ họ Đậu và Hoà thảo thích hợp thuộc chi Andropogon, Brachiaria, Paspalum, Stylo, Leucoena. Ở Marathiwat với mục đích chọn cây thức ăn chịu đất chua đã xác định được 8 giống cỏ triển vọng trong số 26 giống nhập nội (Báo cáo dự án trồng cỏ Thái Lan-1994). Nghiên cứu 19 giống của chi Brachiria thuộc bốn loài (Brachiaria decubens, Brachiaria brizontha, Brachiria humidicola, Brachiria fubata) đã xác định được bảy giống có năng suất hạt và năng suất chất xanh ở mùa khô khá. Những giống này được tiếp tục khảo nghiệm và nhân ra diện rộng. Giống Paspalum atratum nhập vào Thái Lan năm 1995 được đánh giá trong mục tiêu là cây thức ăn cho đất thấp nó đã thể hiện là giống tốt, chịu đất chua, ngập nước, sản xuất chất xanh và khả năng sản xuất hạt cao (Chaing sang Phai Keow, 1999) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 http://www.lrc-tnu.edu.vn - Ở Philippiin, với 90% gia súc nhai lại nuôi tại vườn nhà hoặc ở các trang trại nhỏ được trồng các giống Stylo 184, Panicum maxinum, Paspalum atratum...đều phát triển tốt cung cấp nguồn thức ăn cho gia súc. Ngoài ra, các giống cỏ trên còn được trồng theo đường đồng mức ở đất dốc, cải tạo đất trống đồi núi trọc, trồng dưới tán cây ăn quả. Hằng năm sản xuất được trên 1 tấn hạt cỏ (E.F.Lating, F.Gagunada, 1995). Một số nước khác như Malaysia, Lào,...cũng đã chú trọng đầu tư phát triển cây thức ăn cho gia súc từ những năm 1985. Cho đến nay một số giống cỏ Hoà thảo và cỏ họ Đậu được chọn lọc, đang phát huy hiệu quả cao trong sản xuất. Hằng năm sản xuất được 2 -3 tấn hạt cỏ các loại. Như vậy, phong trào trồng cây thức ăn xanh để chăn nuôi gia súc đang được nhiều nước quan tâm. Nó thực sự là động lực thúc đẩy ngành chăn nuôi đại gia súc phát triển. 1.1.1.2. Những kết quả nghiên cứu về nâng cao năng suất cây thức ăn gia súc trên thế giới Trên thế giới hiện nay ngoài việc tuyển chọn, lai tạo, di nhập các giống cỏ tốt từ vùng này sang vùng khác, người ta còn tập trung giải quyết vấn đề năng suất, chất lượng cỏ. Tại Thái Lan, sản lượng vật chất khô của các giống cỏ Digitaria decumbens, Paspalum atratum, Brachiaria mutica và Paspalum plicatulum khoảng từ 15 – 20, 18 – 25, 9 – 15 và 6 – 10 tấn/ha (bảng 1.1). B¶ng 1.1: S¶n l-îng VCK vµ chÊt l-îng nh÷ng loµi cá trªn vïng ®Êt thÊp vµo 45 ngµy c¾t. Tên khoa học Brachiaria mutica Digitaria decumbens Paspalum atratum Tên Việt Nam Năng suất (tấn/ha) Prôtêin (%) 9 – 15 6 – 10 Pangola 15 – 20 7 -11 Cỏ đắng 18 – 25 6 -7 Cỏ lông Para Paspalum plicatulum 6 -10 Nguồn: Division of Animal Nutrition, Anon (2000) [46] Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 5-6 http://www.lrc-tnu.edu.vn Ngoài ra, hai giống cỏ là cỏ đắng (Paspalum atratum) và Paspalum plicatulum là những loài cho sản lượng hạt giống lớn, có thể tới trên 600kg/ha/ Do vậy, hai giống này đã được phân bố rộng rãi ở Thái Lan. Tại Trung tâm nghiên cứu nuôi dưỡng động vật tỉnh Petchaburi (Thái Lan) cỏ Ghinê tía được trồng và cắt 30 ngày một lần, với mật độ trồng là 50x 50cm và được bón phân hỗn hợp (15–15–15) trước khi trồng ở mức 300kg/ha tương đương 18 tấn phân bón/1ha. Lượng cỏ thu hoạch khoảng 8,9 tấn/ha ở lứa đầu (70 ngày sau trồng) và khoảng 2,6 tấn đến 7,1 tấn/ha cắt sau 30 ngày [47]. Sản lượng này được thể hiện ở bẳng 1.2. B¶ng 1.2. S¶n l-îng VCK cña cá Ghinª tÝa c¾t sau 30 ngµy Thời gian cắt Năng suất VCK (tấn/ha) 11/8/2000 8,9 11/9/2000 7,1 11/10/2000 6,9 11/11/2000 6,8 11/12/2000 4,6 11/01/2001 2,6 11/02/2001 4,1 11/03/2001 4,3 11/04/2001 5,8 11/05/2001 3,7 Nguồn: Annual Report on Animal Nutrition Division (2001) [47] Theo Quilichao (Colombia CIAT, 19780 [48], giống Brachiaria decumbens có thể đạt năng suất chất khô trên 42.000 kg/ha/năm với thí nghiệm không bón phân đạm nhưng bón đủ lân và nó là một giống cỏ tốt nhất trong điều kiện bón lân và đạm thích hợp. Thí nghiệm cắt hàng năm cho năng suất chất khô đạt 36.700 kg/ha, kết quả này cao hơn so với cỏ Pangola Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 http://www.lrc-tnu.edu.vn (Digitaria decumbens), Para(Brachiaria mutica) và Ghinê (Panicum maximum) (Barnard, 1969) [48]. Tại Purertorico, Vieente- Chandler Silva và Figarella (1959) [57] thông báo năng suất giống Panicum maximum Cv Makueni đạt 26.846 kg VCK/ha với mức bón 440kg đạm/ha và cứ 40 ngày cắt 1 lần khi trồng cỏ. Middleton và Micosker, (1975) [54] cho biết vào năm 1973 và 1974 tại miền Nam Johnstone, vùng Queensland, vẫn giống Panicum maximum Cv Makueni đã sản xuất được 60.000kg VCK/ha với điềukiện cung cấp 300kg đạm/ha.Tại Samford, Queesland năng suất hàng năm giống Paspalum rinâttum là 15.000kg VCK/ha (Davies, 1970) [51]. Đối với giống cỏ Setaria Sphacelata các kết quả nghiên cứu của Riveros và Wilsson (1970) [55] tại Redlanbay, Queensland, thông báo năng suất đạt từ 23.500 – 28.000kg/ha qua mùa sinh trưởng 6 tháng trong điều kiện cỏ được tưới nước và cung cấp 225 kg đạm/ha/năm trên nền đất đỏ Bazan mầu mỡ... 1.1.2. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc ở Việt Nam 1.1.2.1. Tình hình phát triển Ở Việt Nam, trong thời gian 10 năm trở lại đây, thông qua hoạt động hợp tác quốc tế và từ nhiều nguồn khác nhau, chúng ta đã nhập trên 100 giống cây thức ăn hoà thảo và họ đậu có nguồn gốc nhiệt đới (CSIRO, CIAT, Philippin, Inđônêsia, Thái Lan), nhằm phát triển khả năng sản xuất thức ăn xanh cho chăn nuôi. Cụ thể như: Năm 1990 chương trình bò thịt VIE86/008 nhập 17 giống cây thức ăn họ đậu, hoà thảo khác nhau từ Autralia. Năm 1995 chương trình cây thức ăn xanh cho nông hộ nhập vào 70 giống (51 giống đậu và 19 giống hoà thảo) từ CSIRO và CIAT chương trình cây keo đậu nhập 22 giống keo dậu từ Australia. Năm 1997 thông qua hoạt động hợp tác quốc tế đã nhập 10 giống Stylo từ Trung Quốc và Philippin. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 http://www.lrc-tnu.edu.vn Năm 1998 chương trình “Phát triển thịt bò một cách hiệu quả ở Việt Nam - ACIAR Projeet as 2/97/18”, nhập 55 loại cây thức ăn gồm 15 loại cây họ đậu và 40 loại cây hoà thảo. Thông qua hoạt động hợp tác quốc tế với trường Đại học Hohenhein (Đức), 20 loại Flemingia được nhập vào nước ta. Ngoài ra một số giống cây thức ăn được nhập thông qua con đường các chuyên gia đi lại công tác. Một số giống cây cỏ nhập nội đã được đánh giá ban đầu và thu được kết quả tốt, ứng dụng vào trong sản xuất ở một số vùng. Tuy nhiên, do không có sự quản lý, chỉ đạo thống nhất cho nên một số giống sau khi đánh giá đã bị thất lạc, mất đi hoặc chưa có điều kiện thử nghiệm ở các vùng khác để có cơ sở chắc chắn mở rộng ra sản xuất. 1.1.2.2 Những kết quả nghiên cứu Kết quả những công trình nghiên cứu về cây thức ăn chăn nuôi cũng chưa nhiều. Trong những năm gần đây, một số nhà khoa học mới tập trung vào nghiên cứu một số giống cây thức ăn hoà thảo, họ đậu nhập nội ở một số vùng như: Lê Hoà Bình và cộng sự (1992), khảo sát năng suất cây thức ăn mới nhập nội ở một số vùng và ứng dụng trong hộ chăn nuôi đã có kết quả như trình bày ở bảng 1.3 [6]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 http://www.lrc-tnu.edu.vn Bảng 1.3. Năng suất của các giống cỏ hoà thảo (tấn/ha/năm) TT Tên giống Long Mỹ Sơn Thành VCK Xanh VCK Xanh VCK Xanh VCK Panicum maximum hamil 56.91 9.73 2 Pancium maximum Liconi 40.57 8.11 40.89 8.21 62.4 59.96 11.92 77.1 Panicum maximum Trichoglumen Thụy Phƣơng Xanh 1 3 Bà Vì 92.9 17.6 86.3 16.5 90.5 17.3 99.96 18.9 97.5 17.5 12.6 44 10.1 68.2 15.7 15.1 60.8 12.4 108 19.4 170.1 22.3 207 23.6 22.9 169.5 20.4 198 21.8 75.1 14.1 80.4 12.6 4 Panicum maximum Makueni 5 Pennisetum King grass 119 19.02 6 Pennisetum purpureum 99.73 16.95 7 Setaria splendida 28.13 5.56 8 Brachiaria mutica 28.42 7.61 68.9 12.7 42.6 10.2 86.6 15.9 9 Brachiaria decumbens 44.16 8.77 72.6 13.7 56.7 11.2 73.8 11.8 176 Nguồn: Lê Hoà Bình, Nguyễn Ngọc Hà và CTV,1992 Theo Nguyễn Thiện – Lê Hoà Bình (1994) trong năm 1990 chương trình VIE/86/008 đã đưa vào nước ta 2 đợt cỏ giống với 25 giống cỏ hoà thảo gồm 11 loài khác nhau các cỏ trên được chuyển tới các vùng để đánh giá tuyển chọn giống thích hợp. Một số kết quả trồng thử đã được ghi nhận như sau: Các tác giả Lê Hoà Bình, Nguyễn Ngọc Hà, Hoàng Mạnh Khải và Ngô Đình Giảng (1994) cho biết: Tại Long Mỹ giống Makueni và Hamil cho năng suất chất xanh đạt 56,9-59,9 tấn/ha tương ứng với 9,7 – 11,9 tấn VCK. Tại Sơn Thành: Giống Hamil lại cho năng suất cao hơn cả, đạt 92,9 tấn chất xanh tương ứng 17,6 tấn VCK/ha/năm. Như vậy trong cùng một giống cỏ nhưng năng suất có sự khác nhau giữa các vùng khá lớn do ảnh hưởng của khí hậu, đất đai và các yếu tố khác. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11 http://www.lrc-tnu.edu.vn Phan Thị Phần và CTV (1998) [28]; Vũ Thị Kim Thoa, Khổng Văn Đĩnh (2001) [34] khi nghiên cứu cỏ Ghinê TD58 ở khu vực miền Nam và miền Bắc cho kết quả: - Khu vực phía Bắc trên 2 loại đất của vùng đồng bằng và vùng đất đồi trong điều kiện trung tính, đất tốt, hoặc đất chua nghèo. Lân và Kali cỏ đều có tốc độ sinh trưởng khá tốt (1,96 – 2,01 cm/ ngày). Năng suất đạt 90 – 100 tấn/ha/năm, cỏ ghinê có khả năng cho hạt năng suất hạt đạt 450kg/ha, tỷ lệ, sử dụng của gia súc đối với cỏ cao: Trâu 94%, bò sinh trưởng 100%, bò sữa 77%, ngựa 85%. - Ở khu vực phía Nam: Địa điểm tại vùng đất xám Bình Dương với liều lượng phân bón 20 tấn phân chuồng, 80kg K2O và 500kg vôi /ha/ năm, lượng phân đạm bón từ 60 – 90 kg/ha. Năng suất chất xám cỏ TD 58 đạt 64,59 – 83,33 tấn/ha/lứa cắt thích hợp là 40 ngày/lứa/ Tỷ lệ tiêu hoá của dê đối với cỏ TD 58 cao, khả năng sử dụng của gia súc như: Trâu sữa, bò sữa, bò thịt, dê sữa đều tiêutốn từ 80 – 100%. Tại trung tâm nghiên cứu và phát triển chăn nuôi miền núi Thái Nguyên, tác giả Nguyễn Văn Quang (2002) khi nghiên cứu so sánh về tốc độ sinh trưởng, năng suất, chất lượng, tính ngon miệng của 5 giống cỏ nhập nội cho biết: Cả 5 giống cỏ đều có tốc độ sinh trưởng khá cao từ 1,45 – 1,82 cm/ngày. Trong đó 2 giống cỏ Paspalum astratum và Panicum maximum TD 58 tốc độ sinh trưởng cao nhất (1,82 và 1,70 cm/ngày) [29]. Ở Việt Nam cây trồng làm thức ăn cho gia súc khá phong phú, ngoài cỏ tự nhiên và cỏ trồng, rất nhiều loài cây trồng, cây mọc hoang dại hoặc các phụ phẩm nông nghiệp khác cũng được sử dụng làm thức ăn gia súc: Bèo, thân lá cây ngô, cây mía, rơm… Giá trị dinh dưỡng của một số loài và phụ phẩm được phân tích ở Việt Nam được thể hiện ở bảng 1.4 [18]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12 http://www.lrc-tnu.edu.vn Bảng 1.4. Giá trị dinh dưỡng của một số cây thức ăn chăn nuôi được phân tích, đánh giá tại Việt Nam TT Tên cây trồng Vật Protêin chất thô khô (%) (%) Lipid thô (%) Xơ Dẫn suất Khoáng không tổng số thô (%) đạm (%) (%) Can xi (%) Phốt pho (%) 1.46 0.24 5.4 0.09 1.1 1.1 1.1 1.3 0.3 0.7 3.2 1.5 0.05 0.02 0.8 0.3 1.4 5.8 1.4 1 Bèo tấm 2 Bèo hoa dâu 3 Bèo lục bình 4 Cây ngô ngậm sữa cả bắp và lá 21.4 2.5 0.7 4.4 12.9 0.9 0.09 0.07 5 Keo dậu 23.9 6.27 1.19 5.22 9.55 1.67 0.42 0.07 6 Rơm lúa mùa 90.81 5.06 1.67 30.61 37.23 16.24 0.56 0.41 7 Thân lá ngô sau thu hoạch 73.2 2.5 1.2 9.9 10.11 3.09 0.12 0.06 8 lõi Bắp ngô 67 3.15 0.55 24.12 36.03 3.15 0.36 0.21 9 Ngọn,lá mía tuơi 29.61 0.78 0.54 8.52 18.52 1.25 0.06 0.06 10 Ngọn,lá mía khô 85.49 8.17 1.89 42.89 39.15 7.9 0.45 0.21 11 Rỉ mật mía 78 11 1.43 0 59.5 7.5 0.22 0.02 12 Ngọn, lá sắn đỏ 16.67 4.72 0.67 3.12 6.82 1.34 0.18 0.09 13 Ngọn, lá sắn trắng 15.48 4.77 0.6 3.07 5.35 1.7 0.16 0.09 23.9 6.27 1.19 5.22 9.55 1.67 0.42 0.07 Cây chè khổng lồ (Trichantera Ghigantea) 13.68 2.08 0.6 1.72 6.07 3.21 0.86 0.04 Cây đậu Sơn Tây 16 (Flemingia macrophilla) 28.5 17.3 1.76 37.9 17 Cây Mía (ngọn,lá tươi) 29.61 0.78 0.54 8.52 18.52 1.25 0.06 0.05 4.05 0.79 6.53 11.7 2.86 0.52 0.15 7 Cây Keo dậu 14 15 18 (Leucaeana Ieucocephala) Cây lạc (thân,lá) 25.93 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13 5.76 http://www.lrc-tnu.edu.vn 1.2. Tình hình nghiên cứu về đồng cỏ tự nhiên 1.2.1. Vấn đề nguồn gốc và phân bố đồng cỏ trong đai nhiệt đới Qua quá trình nghiên cứu nguồn gốc đồng cỏ trong đai nhiệt đới có nhiều tác giả đưa ra các ý kiến khác nhau. Đa số tác giả cho rằng trong điều kiện khí hậu nhiệt đới không có đồng cỏ tồn tại, các quần xã cỏ ở đây là lại hình savan. Tác giả J.Vidal (1958) khi phân chia thực bì ở Lào đã xếp các quần xã cỏ vào savan: Trong đai dưới 1000m thì có savan cây bụi. Ở độ cao từ (10001800m) với nhiệt độ trung bình là 200C, lượng mưa 2000mm thì có các kiểu savan khác nhau như: savan bụi, savan gỗ, savan cỏ tranh và thảo nguyên giả. Karbanop (1962) khi phân loại thực bì Nam Trung Quốc (tỉnh Vân Nam) đã gọi các quần xã cỏ thứ sinh là savan; ông chia thành savan bụi và savan rừng (savan điểm cây) chiếm diện tích lớn hơn, nó phân bố ở độ cao từ 250m trở lên và phát triển trên đất rừng bị chặt phá. Kiểu này được chia thành 5 tầng, trong đó tầng cỏ là liên tục và khép tán [58]. Nguyễn Đình Ngỗi và Võ Văn Chi (1964) khi nghiên cứu thành phần loài cỏ vùng Hữu Lũng (Lạng Sơn) đã gọi loại hình này là savan cỏ [26]. Cooper, Taitôn (1968), Dương Hữu Thời (1981) khi nghiên cứu nguồn gốc thứ sinh của các thảm cỏ trong các vùng nhiệt đới khác nhau đã đi đến kết luận các quần xã rừng bị chặt hạ [10]. Thái Văn Trừng (1970, 1978) khi giải quyết những khó khăn về việc phân chia các đơn vị nhỏ trong hệ thống phâm loại thảm thực vật và chia các kiểu thảm cỏ, ông đã chia rừng nhiệt đới theo điều kiện của nới sống với sự phân chia ra các kiểu ngoại mạo (kiểu nơi sống, kiểu đất rừng) và gọi các thảm cỏ là "trảng", trảng cây bụi, trảng cỏ, theo ông “trảng” không phải là savan cũng không phải đồng cỏ [39], [40]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14 http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng