ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------
KHAMNGIEM SENGSOULIYA
CÔNG TÁC TÔN GIÁO Ở THỦ ĐÔ VIÊNG CHĂN
NƯỚC CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO
CHUYÊN NGÀNH : TÔN GIÁO HỌC
Hà Nội - 201
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------
KHAMNGIEM SENGSOULIYA
CÔNG TÁC TÔN GIÁO Ở THỦ ĐÔ VIÊNG CHĂN
NƯỚC CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO
CHUYÊN NGÀNH : TÔN GIÁO HỌC
MÃ SỐ
: 60.22.90.01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG
PGS.TS Trần Thị Kim Oanh
GS.TS Đỗ Quang Hưng
Hà Nội - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi,
dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Trần Thị Kim Oanh. Các số liệu, kết quả,
kết luận nêu trong luận văn là trung thực, có tính khoa học và có nguồn gốc
rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Khamngiem SENGSOULIYA
2
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CHDCND
: Cộng hoà dân chủ nhân dân
CNH, HĐH
: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
HĐND
: Hội đồng nhân dân
HTCT
: Hệ thống chính trị
NDCM
: Nhân dân cách mạng
Nxb
: Nhà xuất bản
UBND
: Uỷ ban nhân dân
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU...................................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG CÔNG TÁC TÔN
GIÁO Ở THỦ ĐÔ VIÊNG CHĂN NƯỚC CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
HIỆN NAY................................................................................................................... 8
1.1. Một số vấn đề lý luận chung đối với công tác tôn giáo.......................... 8
1.1.1. Một số khái niệm.............................................................................. 8
1.1.2. Mục tiêu, nguyên tắc, chủ thể, nội dung, phương pháp trong công
tác tôn giáo .............................................................................................. 14
1.1.3. Quan điểm, chính sách của Đảng Nhân dân cách mạng Lào về
công tác tôn giáo ..................................................................................... 19
1.2. Vấn đề về thực tiễn công tác tôn giáo ở thủ đô Viêng Chăn ................ 23
1.2.1. Về địa chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội ..................................... 23
1.2.2. Về tôn giáo, chức sắc tôn giáo ...................................................... 28
1.2.3. Về đặc điểm tôn giáo và chức sắc tôn giáo ................................... 30
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................ 33
Chương 2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TÔN GIÁO Ở THỦ ĐÔ VIÊNG CHĂN
NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
ĐẶT RA ..................................................................................................................... 34
2.1. Thực trạng công tác tôn giáo ở thủ đô Viêng Chăn, Lào hiện nay ...... 34
2.1.1. Tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước ................................................................................... 34
2.1.2. Nắm bắt và giải quyết những nhu cầu chính đáng của các tổ
chức tôn giáo ........................................................................................... 36
2.1.3. Vận động tín đồ tôn giáo tham gia các hoạt động xã hội và giải
quyết các vụ việc liên quan đến tôn giáo................................................. 38
2.1.4. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế ........................................... 42
2.2. Những vấn đề đặt ra từ thực trạng công tác tôn giáo ở thủ đô Viêng
Chăn ............................................................................................................. 48
2.2.1. Vấn đề về tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước ................................................................. 48
2.2.2. Vấn đề về nắm bắt và giải quyết những nhu cầu chính đáng của
các tổ chức tôn giáo ............................................................................... 49
2.2.3. Vấn đề về vận động tín đồ tôn giáo tham gia các hoạt động xã hội
và giải quyết các vụ việc liên quan đến tôn giáo..................................... 50
2.3. Nguyên nhân của những vấn đề đặt ra và bài học kinh nghiệm........... 52
2.3.1. Nguyên nhân của những vấn đề đặt ra.......................................... 52
2.3.2. Bài học kinh nghiệm ...................................................................... 53
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 57
Chương 3. SO SÁNH VỚI VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC TÔN GIÁO Ở THỦ ĐÔ VIÊNG CHĂN
NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY ................................. 58
3.1. So sánh giữa công tác tôn giáo ở thủ đô Viêng Chăn, Lào và công tác
tôn giáo ở thủ đô Hà Nội, Việt Nam hiện nay ............................................. 58
3.1.1. Những điểm giống nhau ................................................................ 58
3.1.2. Những điểm khác nhau .................................................................. 59
3.1.3. Đúc kết kinh nghiệm từ công tác tôn giáo ở thủ đô Hà Nội, Việt
Nam.......................................................................................................... 62
3.2. Một số giải pháp ................................................................................... 67
3.2.1. Đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần cho đồng bào các tôn giáo ....................................................... 67
3.2.2. Nâng cao nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể
và đội ngũ cán bộ, đảng viên về vị trí, vai trò quan trọng của công tác
tôn giáo trong giai đoạn hiện nay ........................................................... 69
3.2.3. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp, sự quản lý điều hành của
chính quyền, sự tham gia phối hợp giữa các ban, ngành, đoàn thể trong
công tác tôn giáo ..................................................................................... 70
3.2.4. Đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp công tác tôn giáo hiện nay
ở Lào ........................................................................................................ 71
3.2.5. Kiện toàn bộ máy tổ chức làm công tác tôn giáo các cấp từ Trung
ương đến địa phương ............................................................................... 74
3.2.6. Đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo xâm phạm
an ninh quốc gia ...................................................................................... 78
3.3. Kiến nghị đối với công tác tôn giáo ở Lào hiện nay ............................ 80
3.3.1. Đối với Đảng nhân dân cách mạng Lào ....................................... 80
3.3.2. Đối với Nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào .................... 80
3.3.3. Đối với thủ đô Viêng Chăn ............................................................ 81
Tiểu kết chương 3 ........................................................................................ 84
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................... 87
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhà nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào xác định Phật
giáo là tôn giáo truyền thống, đa số người dân trong đất nước đều theo đạo Phật,
tuy nhiên trong những năm gần đây các tôn giáo khác cũng đã và đang truyền
bá và có sự gia tăng nhanh chóng về số lượng tín đồ đặc biệt là tại các khu vực
của người dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng núi và biên cương của tổ quốc.
Trong tiến trình đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng (Nhân dân
Cách mạng) NDCM Lào đã xác định: Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh
thần của nhân dân, đạo đức tôn giáo có nhiều điểm phù hợp với công cuộc
xây dựng xã hội mới. Theo đó, tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân cần
được bảo vệ, tôn trọng; sự bình đẳng và tình đoàn kết lương giáo được củng
cố; thái độ định kiến, phân biệt đối xử tôn giáo của một số cán bộ, đảng viên
được khắc phục về căn bản; hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
được kịp thời uốn nắn,... Đồng thời, các cơ quan chức năng đã ngăn chặn
nhiều hành vi của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo, phá hoại sự nghiệp
cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác tôn giáo
cũng đang đặt ra nhiều thách thức nhất là trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu
rộng như hiện nay như sự biến tướng và phát triển của một số tôn giáo vì mục
đích chính trị, sự nhận thức về tôn giáo và chính sách, pháp luật về tôn giáo ở
các địa phương không đồng đều, dẫn đến việc thực hiện công tác tôn giáo
không thống nhất. Điều đó đã đặt ra vấn đề cấp thiết cần phải nâng cao
hiệu quả công tác tôn giáo tại CHDCND Lào để đảm bảo sự ổn định tư
tưởng, xã hội.
Là thủ đô của cả nước, Viêng Chăn là trung tâm chính trị - hành chính
quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch
quốc tế. Thủ đô Viêng Chăn là nơi có trụ sở của các cơ quan Trung ương của
Đảng NDCM Lào và Nhà nước Lào, các tổ chức chính trị, xã hội, các cơ quan
đại diện ngoại giao, tổ chức quốc tế và là nơi diễn ra các hoạt động đối nội,
đối ngoại quan trọng của đất nước. Đồng thời, là nơi có trụ sở của Trung ương
Giáo hội một số tôn giáo như: Phật giáo, Công giáo, Hồi giáo, và đạo Bha’i.
Do vậy, những diễn biến và hoạt động tôn giáo trong cả nước đều tác động
trực tiếp đến tôn giáo ở Viêng Chăn, từ đó, ảnh hưởng đến tình hình chính trị
- xã hội Thủ đô. Mặt khác, những động thái tôn giáo ở Viêng Chăn có quan hệ
trực tiếp đến động thái tôn giáo cả nước. Chính vì vậy, việc nghiên cứu công
tác tôn giáo ở thủ đô Viêng Chăn được đặt ra như một thí điểm để áp dụng
cho toàn lãnh thổ nước Lào.
Xuất phát từ yêu cầu về lý luận cũng như thực tiễn trên tôi đã quyết định
lựa chọn đề tài: “Công tác tôn giáo ở thủ đô Viêng Chăn nước Cộng hoà
Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay” để làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sĩ
chuyên ngành Tôn giáo học.
2. Tình hình nghiên cứu
Tôn giáo và vấn đề công tác tôn giáo là đề tài được các nhà khoa học
Lào hết sức quan tâm nghiên cứu. Trong thời gian qua, nhất là từ sau Đổi
mới, chủ đề này các học giả Lào quan tâm nghiên cứu và đề cập trong nhiều
tài liệu, các công trình, đề tài khoa học khác nhau. Điển hình như:
Về các công trình là sách, đề tài nghiên cứu khoa học có thể kế đến:
Boungnuene Xaykueyachongtua (2010), Lý luận về tôn giáo và chính sách tôn
giáo ở nước CHDCND Lào, Nxb Quốc gia, Viêng Chăn; Southaphone
Bounmapheth (2008), Các tôn giáo trên thế giới và Lào, Nxb. Viêng Chăn,
Viêng Chăn; Vanhsong Keobounphanh (2012), Phật giáo ở Lào thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Tôn giáo - Cục tôn giáo - Sở nội vụ và Ban tôn
giáo thuộc Mặt trận dân tộc thống nhất Lào; Cay Xỏn - Phôn Vi Hẳn (1983),
Về hệ thống chính trị ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Nxb. Viêng Chăn;
Viện nghiên cứu khoa học xã hội quốc gia (2015), Các vấn đề tồn tại trong vấn
2
đề tôn giáo ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Đề tài khoa học cấp nhà
nước;…
Về các công trình là luận án, luận văn, có thể kể đến: Vathsana
Lathtanaphanh (2012), Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Lào: Lý luận và thực
tiễn, Luận án tiến sĩ chuyên ngành Tôn giáo học, Đại học Quốc gia Lào; Sổm
Lít Pước Kẹo (2004), Đổi mới hệ thống chính trị cấp tỉnh ở nước Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ chính trị học,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội; Thoongsalit Mangnomec
(2015), Công tác vận động chức sắc đạo Công giáo ở Lào hiện nay, Luận văn
Thạc sĩ Tôn giáo học, Đại học Quốc gia Lào, Viêng Chăn; Khamdeng
Sysouphane (2017), Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở nước
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Chính trị học,
Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội; Sorsonephit Phanouvong (2015),
“Vấn đề tôn giáo và quản lý nhà nước về tôn giáo ở nước Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào”, Luận văn tốt nghiệp đại học, Đại học Quốc gia Lào;…
Về các công trình là bài viết trên báo, tạp chí có thể kể đến: Xomxay
Xichachack (2014), “Công tác quản lý về tôn giáo ở Viêng Chăn”, bài viết
của đăng trên báo điện tử Cục tôn giáo - Sở Nội vụ và Ban tôn giáo thuộc Mặt
trận dân tộc thống nhất Lào năm 2014; Khon Kẹo Ma La Vông (2015), “Công
tác quản lý về tôn giáo hiện nay”, Tạp chí lý luận số 12 năm 2015;
Souksakhone Chanthavong (2017), “Công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo ở
Viêng Chăn một năm nhìn lại”, bài viết đăng trên báo điện tử của Cục tôn
giáo- sở nội vụ và Ban tôn giáo thuộc Mặt trận dân tộc thống nhất Lào năm
2017; Anouxa Keobounphan (2017), “Nâng cao vai trò của quản lý Nhà nước
về tôn giáo trong thời kỳ mới”, bài viết đăng trên trang điện tử của sở Nội Vụ
Thành phố Viêng Chăn năm 2017.
Ngoài ra còn một số tài liệu như Mặt trận Lào xây dựng đất nước
(2012), Hướng dẫn về nhiệm vụ dân tộc và tôn giáo trong tình hình mới,
Viêng Chăn; Bộ Nội Vụ Lào (2012), Báo cáo tình hình thực hiện pháp luật về
3
quản lý hoạt động tôn giáo, Viêng Chăn; Ban Tư tưởng -Văn hóa Trung ương
(2010), Vấn đề về tôn giáo và công tác tôn giáo ở cơ sở, Tài liệu bồi dưỡng
chuyên đề, Viêng Chăn;…
Các công trình trên đã đề cập đến nội dung cơ bản về tôn giáo, cơ sở
lý luận cũng như thực tiễn về công tác tôn giáo dưới những khía cạnh nghiên
cứu khác nhau và là nguồn tài liệu quý để học viên lựa chọn, tiếp thu. Tuy
nhiên đến nay chưa có công trình nghiên cứu trên chưa có nhiều công trình
nghiên cứu nào đề cập chuyên sâu đến công tác tôn giáo tại nước Cộng hòa dân
chủ nhân dân Lào tại một khu vực cụ thể, trong đó có thủ đô Viêng Chăn. Do
đó, có thể nói, đề tài “Công tác tôn giáo ở thủ đô Viêng Chăn nước Cộng hoà
Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay” là đề tài hoàn toàn mới, mang tính cấp thiết
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Ở Việt Nam số lượng các công trình nghiên cứu về công tác tôn giáo
chiếm số lượng rất lớn trong các công trình nghiên cứu về tôn giáo, điển hình là
một số công trình sau: Đỗ Quang Hưng (2005) Vấn đề tôn giáo trong cách
mạng Việt Nam - Lý luận và thực tiễn, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội; Nguyễn
Hồng Dương (2012), Quan điểm đường lối của Đảng về tôn giáo và những vấn
đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Đặng
Nghiêm Vạn (2012), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Đỗ Quang Hưng (2014), Chính sách tôn giáo và
nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; Bùi Hữu Dược (2014),
Quản lý nhà nước về tôn giáo ở Việt Nam từ năm 1975 đến nay, Luận án tiến sĩ
Tôn giáo học, Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội; Dương Ngọc
Kiên (2014), Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn thành
phố Hà Nội hiện nay, Luận văn thạc sĩ khoa học quản lý, Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn, Hà Nội; Nguyễn Thanh Xuân (2015), Tôn giáo và chính sách
tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội; Lê Thị Minh Thảo (2015), Công
tác tôn giáo ở Việt Nam hiện nay - Lý luận và thực tiễn (qua khảo sát tại tỉnh
Ninh Bình), Luận án tiến sĩ triết học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
4
Hà Nội;… Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này đề cập khá ít đến vấn đề
công tác tôn giáo ở thành phố Hà Nội hoặc đề cập đến vấn đề tôn giáo ở thành
phố Hà Nội dưới góc độ quản lý nhà nước về tôn giáo.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thông qua nghiên cứu về công tác tôn giáo trên hai phương diện lý
luận và thực tiễn tại thủ đô Viêng Chăn, luận văn làm rõ tính đúng đắn, hiệu
quả của sự đổi mới về tôn giáo, công tác tôn giáo của Đảng và Nhà nước Lào,
đồng thời chỉ ra những kết quả đạt được; những vấn đề đặt ra trong công tác
tôn giáo, đưa ra giải pháp khuyến nghị nhằm nâng cao công tác tôn giáo ở thủ
đô Viêng Chăn trong thời gian tới, qua đó góp phần bổ sung, làm phong phú
thêm công tác tôn giáo ở nước CHDCND Lào về lý luận và thực tiễn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm
vụ sau đây:
Một là, nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của công tác tôn
giáo cũng như làm rõ những nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện công tác
tôn giáo ở Lào hiện nay.
Hai là, nghiên cứu quá trình thực hiện công tác tôn giáo ở thủ đô Viêng
Chăn trong giai đoạn hiện nay, nêu lên những thành tựu và hạn chế của công
tác tôn giáo ở thủ đô Viêng Chăn, chỉ ra những nguyên nhân của hạn chế đó
và vấn đề đặt ra từ thực trạng công tác tôn giáo ở thủ đô Viêng Chăn.
Ba là, nghiên cứu, so sánh và đúc rút ra bài học kinh nghiệm từ thực
tiễn công tác tôn giáo ở thủ đô Hà Nội hiện nay. Từ đó, kiến nghị một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác tôn giáo ở thủ đô Viêng Chăn, cùng
với các kiến nghị cho Đảng NDCM Lào, Nhà nước CHDCND Lào và các
đoàn thể khác, góp phần bổ sung và làm phong phú công tác tôn giáo ở Lào
trong giai đoạn tới.
5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề cơ bản của công tác tôn giáo hiện nay thông qua trường
hợp nghiên cứu công tác tôn giáo ở thủ đô Viêng Chăn và công tác tôn giáo ở
thủ đô Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu trong khoảng 10 năm, từ năm
2007 đến nay, tuy nhiên, có sự đối sánh, nghiên cứu thời kỳ trước đó nhằm
làm nổi bật sự đổi mới nhận thức về tôn giáo và công tác tôn giáo trong giai
đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với tư tưởng Cay-xỏn Phônvi-hẳn, quan điểm, đường lối và chủ trương của Đảng NDCM Lào; chính
sách, pháp luật của nhà nước về vấn đề tôn giáo, quản lý nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo.
Trên cơ sở phương pháp luận trên, luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu tài liệu, phương pháp phân tích và tổng hợp thống kê, phương
pháp so sánh. Đồng thời, đề tài sử dụng phương pháp điều tra, khảo sát, thu
thập thông tin, số liệu.
6. Đóng góp của luận văn
Về lý luận: thông qua đề tài, tác giả muốn phân tích, thể hiện quan điểm
cá nhân và kiểm nghiệm các lý luận được áp dụng trong quá trình nghiên cứu.
Những kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần bổ sung cơ sở lý luận về
công tác tôn giáo ở nước CHDCND Lào. Đồng thời, luận văn tạo cơ sở khoa
học và làm tài liệu tham khảo cho nghiên cứu, học tập góp phần nâng cao
hiệu quả thực hiện công tác tôn giáo ở nước CHDCND Lào.
6
Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu sẽ giúp cho công tác tôn giáo ở thủ đô
Viêng Chăn nói riêng và nước CHDCND Lào nói chung trở nên có hiệu quả
hơn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong công tác tôn giáo ở
thủ đô Viêng Chăn nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay.
Chương 2. Thực trạng công tác tôn giáo ở thủ đô Viêng Chăn nước
Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay và những vấn đề đặt ra.
Chương 3. So sánh với Việt Nam và một số giải pháp, kiến nghị nhằm
nâng cao hiệu quả công tác tôn giáo ở thủ đô Viêng Chăn nước Cộng hoà
Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG CÔNG TÁC
TÔN GIÁO Ở THỦ ĐÔ VIÊNG CHĂN NƯỚC CỘNG HOÀ
DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY
1.1. Một số vấn đề lý luận chung đối với công tác tôn giáo
1.1.1. Một số khái niệm
* Khái niệm tôn giáo và hoạt động tôn giáo.
- Tôn giáo là một thuật ngữ bắt nguồn từ phương Tây và bản thân nó
cũng trải qua thời kì biến đổi lâu dài. Tôn giáo bắt nguồn từ thuật ngữ tiếng
Anh là “religion”, từ này bắt nguồn từ thuật ngữ La tinh là “legere”, có nghĩa
là thu lượm sức mạnh thiên nhiên.
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về tôn giáo được các nhà khoa học
đưa ra. Các nhà thần học cho rằng: Tôn giáo là mối liên hệ giữa thần thành và
con người. Còn các nhà tâm lý học khẳng định rằng: Tôn giáo là sự sáng tạo
của mỗi cá nhân trong sự cô đơn của mình, tôn giáo là sự cô đơn, nếu người
đó chưa từng cô đơn thì chưa bao giờ có tôn giáo.
Ngày nay, định nghĩa về tôi giáo được nhiều người công nhận là khái
niệm tôn giáo theo cách tiếp cận triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin: “Tôn
giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không
có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh
thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” [38, tr.437].
Tác giả Đặng Nghiêm Vạn lại tiếp cận theo khái niệm của Ph.Ăngghen
đưa ra: “Tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc của
con người - của những lực lược ở bên ngoài chi phối cuộc sống hằng ngày
của họ, chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng trần thế đã mang hình
thức lực lượng siêu trần thế”[56; tr.61]. Từ điển tiếng Việt cũng đưa ra định
nghĩa: “Tôn giáo là hình thái ý thức xã hội hình thành nhờ vào lòng tin và
sùng bái thượng đế, thần linh”[57; tr.1668]. Nhìn chung theo quan niệm của
8
chủ nghĩa Mác, con người sáng tạo ra tôn giáo chứ tôn giáo không sáng tạo ra
con người. Sự sáng tạo ra tôn giáo của con người được thực hiện qua con
đường nhận thức. Chính con người đã tạo ra cái siêu nhiên thần thánh trong
đầu óc của mình thuộc lĩnh vực ý thức, niềm tin. Tôn giáo ra đời cùng với sự
phát triển của con người và chừng nào con người còn có những mong muốn,
ước vọng thì chừng đó tôn giáo còn tồn tại.
Còn tác giả Boungnuene Xaykueyachongtua lại tiếp cận khái niệm về
tôn giáo theo quan điểm của Ph.Ăngghen: “Tôn giáo là một niềm tin vào một
thế lực thần linh được duy trì trong bộ óc của con người và điều chỉnh mọi
hành vi của con người trong cuộc sống hằng ngày, giống như nhân dân các
bộ tộc Lào tin vào Đức Phật” [15; tr.33-34].
Tác giả luận văn đồng ý với các khái niệm trên về tôn giáo và cho rằng:
Tôn giáo chính là một hình thái ý thức xã hội được hình thành dựa vào sự tin
tưởng, sùng bái thế lực thần thánh, thần linh.
Có bốn yếu tố để nhận biết một tôn giáo là: Giáo lý (kinh sách, giáo
luật, sấm giảng,...); giáo sĩ (nhà tu hành, chức sắc, chức việc,...); giáo dân (tín
đồ của tôn giáo); giáo hội (tổ chức tôn giáo với đường hướng hoạt động đặc
trưng của một tôn giáo).
- Hoạt động tôn giáo. Do hiện nay chúng ta đang tiếp cận tôn giáo với
tư cách một hình thái ý thức xã hội, nên bất kỳ Nhà nước nào cũng quan tâm
đến quản lý hoạt động tôn giáo, trong đó có Nhà nước Lào và Nhà nước Việt
Nam. Nghĩa là hoạt động của một tôn giáo có tổ chức bao gồm: (i) Hoạt động
truyền bá, nghĩa là tuyên truyền, phổ biến, thuyết phục cho mọi người hiểu về
tôn giáo đó và tham gia vào tổ chức tôn giáo đó; (ii) Hoạt động thực hành
giáo lý, giáo luật, lễ nghi, mỗi tôn giáo đều có giáo lý, giáo luật và lễ nghi
riêng mà các tín đồ của tôn giáo đó đều tự nguyện tuân theo. Hoạt động thực
hành giáo lý, giáo luật và lễ nghi tôn giáo cũng nhằm thoả mãn đức tin tôn
giáo của các tín đồ; (iii) Hoạt động quản lý tổ chức của tôn giáo, cũng như bất
kỳ một tổ chức nào khác, đã có những quy định thì sẽ phải có hoạt động quản
9
lý nhằm đảm bảo cho giáo lý, giáo luật được chấp hành nghiêm túc. Xác định
được hoạt động tôn giáo có ý nghĩa quan trọng trong việc tìm ra phương thức
phù hợp để quản lý tôn giáo đó một cách dễ dàng, hiệu quả hơn [42; tr.19].
* Khái niệm tin ngưỡng và hoạt động tín ngưỡng.
- Tín ngưỡng là vấn đề đã và đang được nhiều nhà khoa học nghiên
cứu, luận giải. Ở Việt Nam và Lào tín ngưỡng chưa phải là tôn giáo, do chưa
đáp ứng đầy đủ các tiêu chí để được coi là tôn giáo, do vậy các nhà nghiên
cứu chỉ coi nó là một loại tôn giáo nguyên thuỷ, sơ khai. Việc phân biệt tín
ngưỡng và tôn giáo cũng chỉ có tính chất tương đối. Ở Việt Nam và Lào, thuật
ngữ tôn giáo được hiểu theo hai nghĩa. Khi nói tự do tín ngưỡng, chúng ta có
thể hiểu đó là tự do về ý thức hay tự do về tín ngưỡng tôn giáo. Nếu hiểu tín
ngưỡng là ý thức thì tín ngưỡng bao trùm lên tôn giáo, là một bộ phận chủ
yếu nhất cấu thành tôn giáo. Không có tín ngưỡng sẽ không có tôn giáo.
Từ điển tiếng Việt định nghĩa tín ngưỡng là: “Lòng tin và sự tôn thờ
một tôn giáo”[57; tr.1646], tức là tín ngưỡng chỉ tồn tại trong một tôn giáo.
Theo giải thích của tác giả Đào Duy Anh, tín ngưỡng là: “Lòng ngưỡng mộ,
mê tín đối với một tôn giáo hoặc một chủ nghĩa”[30; tr.283].
Nhà nghiên cứu Ngô Đức Thịnh cho rằng: “Tín ngưỡng được hiểu là
niềm tin của con người vào cái gì đó thiêng liêng, cao cả, siêu nhiên hay nói
gọn lại là niềm tin, ngưỡng vọng vào “cái thiêng”, đối lập với cái “trần tục”
hiện hữu mà ta có thể sờ mó, quan sát được. Có nhiều loại niềm tin, nhưng
niềm tin của tín ngưỡng là niềm tin vào “cái thiêng”. Do vậy, niềm tin vào
cái thiêng thuộc về bản chất của con người, nó là nhân tố cơ bản tạo nên đời
sống tâm linh của con người, cũng giống như đời sống vật chất, đời sống xã
hội tinh thần, tư tưởng, đời sống tình cảm...”[54; tr.16].
Tác giả Boungnuene Xaykueyachongtua trong cuốn Lý luận về tôn giáo
và chính sách tôn giáo của nước CHDCND Lào xuất bản năm 2010 cũng cho
rằng: “Tín ngưỡng chính là niềm tin của com người vào những gì đó mà con
người cho là thiêng liêng, siêu nhiên” [15; tr.30].
10
Có một số nhà nghiên cứu quan niệm: Tín ngưỡng là bộ phận quan
trọng của tôn giáo, nằm trong khái niệm tôn giáo, là cơ sở hình thành tôn
giáo. Tuy nhiên, niềm tin vào cái thiêng liêng đó, cũng theo hoàn cảnh và
trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi dân tộc, địa phương, quốc gia mà
thể hiện ra dưới các hình thức tín ngưỡng và tôn giáo cụ thể khác nhau như:
Tín ngưỡng thờ cũng tổ tiên, tín ngưỡng thờ Thành hoàng, tín ngưỡng thờ
mẫu, tín ngưỡng sùng bái tự nhiên,... [43; tr.20].
Các hình thức tín ngưỡng mang đặc thù theo từng không gian văn hoá,
chủ thể văn hoá cũng như thời gian văn hoá cũng như thời gian văn hoá khác
nhau nhưng vẫn là biểu hiện niềm tin vào cái thiêng, sự ngưỡng mộ và sùng bái
của con người. Do vậy, tín ngưỡng là một hiện tượng văn hoá mang tính lịch sử,
một phạm trù lịch sử. Cần phân biệt tín ngưỡng với tập quán và tôn giáo.
Từ đó, tín ngưỡng được hiểu một cách khái quát: “Tín ngưỡng là niềm
tin, là sự ngưỡng mộ vào các đấng siêu nhiên hay những người được cho là
thần thánh ở thế giới siêu thực, có sức mạnh tác động vào đời sống hiện tại
của con người nên được tôn thời” [35; tr.11]
Dựa theo nhiều tiêu chí khác nhau, người ta chia tín ngưỡng thành các
loại hình như: Tín ngưỡng truyền thống, tín ngưỡng bản địa, tín ngưỡng đa
thần, tính ngưỡng độc thần, tín ngưỡng mới,...
- Hoạt động tín ngưỡng. Với mỗi loại hình tín ngưỡng lại có những
hoạt động khác nhau. Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên có các hoạt động như:
Thờ tam phủ, thờ tứ phủ, thờ động vật và thực vật. Tín ngưỡng sùng bái con
người có các hoạt động như: Thờ hồn và vía, thờ tổ tiên, thờ tổ nghề, thờ
thành hoàng làng, thờ danh nhân,... Tín ngưỡng sùng bái thần linh lại có các
hoạt động: Thờ thổ địa, thờ Thần tài, thờ Táo quân,... [43; tr.21].
Hoạt động tín ngưỡng phổ biến nhất ở Việt Nam và ở Lào là thờ cúng
ông bà, tổ tiên; thờ thành hoàng làng, thờ Thổ địa, thờ Thần tài. Việc thờ cúng
ông bà tổ tiên là truyền thống tốt đẹp, thể hiện được tinh thần uống nước nhớ
nguồn của hai dân tộc.
11
* Khái niệm mê tín dị đoan.
Theo nghĩa Hán - Việt thì “mê” có nghĩa là mờ tối, u mê; “tín” nghĩa là
tin tưởng (chữ tín, sự tín nhiệm). “Mê tín” là tin tưởng một cách mê muội, mù
quáng. “Dị” là khác, sai; “đoan” nghĩa là chính thống. “Dị đoan” là khác với
cái chính thống, hiểu sai lầm một điều đúng đắn. “Mê tín” và “dị đoan” vốn là
hai khái niệm khác nhau, nhưng trong sinh hoạt xã hội, từ lâu hai cụm từ này
đã được ghép nối với nhau để nói về sự tin tưởng một cách mù quáng vào cái
thần bí, huyền ảo, hoang đường.
Theo tác giả Nguyễn Quốc Phẩm “mê tín, dị đoan” thuộc về phần ý thức,
nhận thức của con người, “là niềm tin mù quáng vào những điều quái dị, một
niềm tin thiếu căn cứ khoa học. Mê tín, dị đoan chỉ xuất hiện trong điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể biểu hiện trạng thái tâm lý, tình cảm của cá nhân” [50; tr.31].
Các hình thức “mê tín, dị đoan” thường gặp như:
- Các hình thức lễ bái, cúng tế, cầu xin như: Cúng cô hồn, cúng sao giải
hạn, cầu tài lộc, tình duyên,...
- Các hình thức bói toán như: Xem tướng số, bói chỉ tay, bói bài,...
- Các hình thức kiêng kị như: Kiêng đi ngày lẻ, kiêng ra ngõ gặp đàn
bà, kiêng mèo vào nhà,... [50; tr.31].
Nhìn chung, các hành vi mê tín, dị đoan rất phong phú và đa dạng. Mê
tín dị đoan sinh ra và tích luỹ lại từ sự thiếu hiểu biết của con người trong thời
kỳ khoa học chưa phát triển. Có những hành vi cổ xưa còn để lại nhưng cũng
có những hành vi mới xuất hiện do lai tạp hoặc sự phát triển của kinh tế thị
trường như: Cúng Đôla, cúng ôtô, bói điện toán,... Đặt trong sự so sánh với
những lĩnh vực văn hoá tinh thần tín ngưỡng, tôn giáo thì mê tín, dị đoan là
những hiện tượng phản văn hoá, đối nghịch với những giá trị của xã hội loài
người, gây tác hại đến bản thân và xã hội.
* Khái niệm công tác tôn giáo.
Công tác tôn giáo là một khái niệm của chính trị học ở Lào và Việt
Nam. Để có thể xác định quan niệm khoa học về công tác tôn giáo cần phải
12
bắt đầu lựa chọn hướng tiếp cận tới công tác tôn giáo. Đó là tiếp cận hệ thống
chỉnh thể, tiếp cận cấu trúc và tiếp cận thực tiễn. Tiếp cận hệ thống về công
tác tôn giáo, cho ta hình dung nội hàm công tác tôn giáo là cả một phức hợp
nhiều yếu tố, nhiều công việc hợp thành.
Tiếp cận cấu trúc giúp ta nhìn nhận các mối liên hệ bên trong của công
tác tôn giáo cũng như quan hệ bên ngoài với các khách thể xã hội tác động tới
đời sống tôn giáo. Do đó, tiếp cận hệ thống chỉnh thế cũng như tiếp cận cấu
trúc đối với công tác tôn giáo để hình dung tôn giáo như một hoạt động, nó
liên quan tới những lý thuyết và những nguồn lực. Trong công tác tôn giáo
bao hàm cả hoạt động nhận thức, thể chế (chính sách, pháp luật) lẫn thiết chế
(bộ máy tổ chức). Để thực hiện công tác tôn giáo có hiệu quả cần đến những
nguồn lực vật chất và tinh thần.
Dưới góc độ tiếp cận hệ thống, có thể hiểu: Công tác tôn giáo là những
hoạt động của hệ thống chính trị trong việc hoạch định và thực thi chính sách
tôn giáo nhằm đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá
trị tích cực của các tôn giáo, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh [53; tr.70] và
tác giải cũng đồng ý với quan điểm như trên.
Với định nghĩa này đã khắc phục một hạn chế trong thực tiễn với quan
niệm coi công tác tôn giáo chỉ là việc thực thi chính sách tôn giáo hoặc coi nó
chỉ là sự quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo. Các quan niệm này có phần
đúng nhưng không đủ vì công tác tôn giáo là “trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị”, thể hiện mối quan hệ giữa chủ thể lãnh đạo, quản lý xã hội, trước
hết và chủ yếu là Đảng, Nhà nước, tiếp đó là các tổ chức chính trị - xã hội
khác thuộc hệ thống chính trị còn khách thể là toàn bộ các tôn giáo, mà cụ thể
là tổ chức, tín đồ, nhà tu hành, chức sắc các tôn giáo với những hoạt động cụ
thể cần được giải quyết để phát triển, là một hệ vấn đề động chứ không tĩnh.
Công tác tôn giáo ngoài việc thực hiện chính sách tôn giáo, còn bao hàm
trong nó một yếu tố cốt lõi là chính sách và pháp luật tôn giáo.
13
1.1.2. Mục tiêu, nguyên tắc, chủ thể, nội dung, phương pháp trong
công tác tôn giáo
* Mục tiêu. Công tác tôn giáo không ngoài mục tiêu bảo đảm quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, phát huy những giá trị của tôn giáo,
tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Công tác tôn giáo hướng tới sự
phát triển tích cực của cộng đồng những người theo đạo, các tổ chức tôn giáo
để đảm bảo sự thống nhất đồng thuận, tăng cường sự đoàn kết trong xã hội
nhằm đảm bảo sự tiến bộ và dân chủ.
* Nguyên tắc. Công tác tôn giáo phải được thực hiện theo một số
nguyên tắc đặc thù như sau:
Thứ nhất, nguyên tắc tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu
tinh thần của con người gắn liền với đời sống sản xuất vật chất và văn hoá
[53; tr.79]. Tự do tín ngưỡng, tôn giáo không chấp nhận sự áp đặt hay tước bỏ
niềm tin tôn giáo của con người bằng bất cứ phương cách gì từ sự độc tôn của
tôn giáo này với tôn giáo khác hay thông qua chính trị. Đây là nguyên tắc đã
được khẳng định trong Hiến pháp Lào năm 1991, 2015; Hiến pháp Việt Nam
qua các năm 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013.
Thứ hai, nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi
trước pháp luật. Đây là nguyên tắc của thể chế dân chủ, có tính chất phổ quát ở
các nhà nước xã hội chủ nghĩa (XHCN), trong đó có Nhà nước Lào và Nhà nước
Việt Nam. Nguyên tắc này được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật hiện hành
của Lào và Việt Nam. Từ đó, Nhà nước Lào và Nhà nước Việt Nam bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân,
công dân theo tôn giáo và không theo tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật,
được hưởng những quyền lợi, đồng thời có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ của
mình bằng những quy định pháp luật cụ thể, rõ ràng.
Thứ ba, nguyên tắc về tính thống nhất giữa sinh hoạt tôn giáo và bảo
tồn giá trị văn hoá. Tôn giáo là một thành tố cấu thành nên văn hoá. Hoạt
14
- Xem thêm -