Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh ninh bình hiện nay ...

Tài liệu Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh ninh bình hiện nay

.PDF
113
2
70

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN LÊ THỊ MINH THẢO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO Ở TỈNH NINH BÌNH HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC Hà nội - 2011 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------------------------- LÊ THỊ MINH THẢO CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO Ở TỈNH NINH BÌNH HIỆN NAY Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học Mã số: 602285 Người hướng dẫn khoa học: TS Nguyễn Thanh Xuân Hà nội – 2011 2 LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Triết học Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập. Đặc biệt tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới TS. Nguyễn Thanh Xuân, người đã tận tình hướng dẫn tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Đồng thời tôi cũng xin cảm ơn Ban Tôn giáo tỉnh Ninh Bình đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình làm luận văn. Tác giả luận văn Lê Thị Minh Thảo 3 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của tôi và chưa được công bố, tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này. Tác giả luận văn Lê Thị Minh Thảo 4 DANH MỤC CÁC BẢNG BI ỂU Bảng 2.1. Phong chức bổ nhiệm, thuyên chuyển chức sắc.............................58 Bảng 2.2. Đào tạo, bồi dưỡng chức sắc...........................................................58 Bảng 2.3. Công tác tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ...................................70 5 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................ 1 Chương 1. NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO ........................................ 8 1.1. Một số vấn đề lý luận ................................................................... 8 1.2. Tình hình kinh tế, xã hội và tôn giáo của tỉnh Ninh Bình ..................32 Chương 2THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO Ở TỈ NH NI NH BÌNH VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA HI ỆN NAY ..................................................................................49 2.1. Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Ninh Bình .....................................................49 2.2. Bài học kinh nghiệm và những vấn đề đặt ra từ công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh Ninh Bình .................................77 2.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo.............................................................................85 KẾT LUẬN........................................................................................99 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................ 101 6 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cuối thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI nhân loại đã chứng kiến hàng loạt các xung đột, chiến tranh rải rác khắp các châu lục, từ châu Á, châu Phi, cho đến châu Mỹ. Nhưng một điều đặc biệt là các cuộc xung đột đó đều liên quan đến vấn đề tôn giáo và sắc tộc gây lo lắng cho cộng đồng quốc tế. Có thể nói, hiện nay niềm tin tôn giáo trên thế giới có xu hướng phục hồi trở lại và phát triển một cách mạnh mẽ, đó là dấu hiệu cho thấy sự thay đổi trong đời sống tâm lý của con người. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, đồng thời là một thực thể xã hội ra đời ra đời từ hàng ngàn năm lịch sử và là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Trong quá trình tồn tại và phát triển, tôn giáo ảnh hưởng khá sâu sắc đến đời sống chính trị, văn hóa xã hội, tâm lý, lối sống, phong tục tập quán và an ninh trật tự của nhiều quốc gia dân tộc. Do vậy hoạt động tôn giáo cần phải đặt dưới sự quản lý của nhà nước, nói một khác là, bất cứ nhà nước thế tục nào cũng đều thực hiện sự quản lý của mình đối với các hoạt động tôn giáo, nếu có khác thì chỉ khác nhau về hình thức, cách thức và mức độ quản lý mà thôi. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, có lịch sử ngàn năm văn hiến, tín ngưỡng, đã trở thành một bộ phận đặc sắc của đạo đức và văn hóa truyền thống. Với sự hội tụ của nhiều tôn giáo, cùng với tín ngưỡng, tôn giáo bản địa giữa các tôn giáo có sự hòa hợp lẫn nhau. Tuy nhiên vấn đề tôn giáo là vấn đề phức tạp và nhạy cảm, các thế lực thù địch luôn coi vấn đề tôn giáo là một vấn đề quan trọng trong chiến lược diễn biến hòa bình nhằm can thiệp vào đời sống kinh tế, chính trị, xã hội ở nước ta gây mất ổn định hòng xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nhưng kẻ thù có thực hiện được điều đó hay không 1 còn tùy thuộc vào sự nỗ lực chủ quan của Đảng, nhà nước, và nhân dân Việt Nam. Qua các giai đoạn cách mạng, Đảng và nhà nước ta luôn xác định công tác tôn giáo có ý nghĩa to lớn trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Trong cách mạng dân tộc dân chủ, chính sách “tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết” do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra đã góp phần to lớn vào sự nghiệp đoàn kết toàn dân kháng chiến thắng lợi. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, năm 1990, Bộ chính trị ra Nghị quyết 24 về công tác tôn giáo cũng đã xác định: “Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”. Đồng bào các tôn giáo đã có những đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhìn chung các tổ chức tôn giáo đã xây dựng đường hướng lãnh đạo, hoạt động theo pháp luật, các tôn giáo được nhà nước công nhận đã hành đạo gắn bó với dân tộc, tập hợp đông đảo tín đồ trong khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng cuộc sống tốt đời đẹp đạo, góp phần vào công cuộc đổi mới đất nước. Các cấp các ngành đã chủ động, tích cực thực hiện các chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước, phát triển kinh tế xã hội và giữ vững an ninh chính trị ở các vùng đồng bào tôn giáo, đồng thời đấu tranh ngăn chặn làm thất bại những hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Những năm gần đây, sinh hoạt tôn giáo có phần phát triển, nhà thờ, đình chùa, miếu mạo, thánh thất được tu sửa và tôn tạo, xây cất lại, in ấn kinh sách, đào tạo chức sắc,… Số người tham gia các hoạt động tôn giáo gia tăng. Bên cạnh xu hướng hành đạo cùng dân tộc, thuần túy tôn giáo, tuân thủ Hiến pháp, pháp luật cũng đã xuất hiện hoạt động tôn giáo không bình thường, vi phạm một số quy định chung của Nhà nước, lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để 2 hành nghề mê tín dị đoan. Ngoài ra, một số người lợi dụng tự do tín ngưỡng tiến hành hoạt động chống đối chính quyền, kích động tín đồ tạo điểm nóng tôn giáo gây mất ổn định chính trị. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta xác định phải tăng cường công tác quản lý Nhà nước về hoạt động tôn giáo, một mặt vừa đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân, mặt khác phải cảnh giác chống âm mưu lợi dụng tôn giáo của kẻ địch. Ninh Bình là tỉnh có truyền thống văn hóa lịch sử lâu đời, cùng với tín ngưỡng bản địa, Ninh Bình còn là sự du nhập của hai tôn giáo lớn đó là Phật giáo và Công giáo. Các tôn giáo trong tỉnh nhìn chung chấp hành tốt chính sách pháp luật, không có điểm nóng về tôn giáo xảy ra, các chức sắc tín đồ giáo phấn khởi hành đạo và thực hiện tốt phương châm sống: “Tốt đời đẹp đạo” đã góp phần tích cực và đạt được những kết quản khả quan trên lĩnh vực kinh tế - xã hội. Song cũng vẫn còn hiện tượng “vượt rào” tách khỏi sự quản lý của nhà nước trong một số lĩnh vực như: xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự, lễ hội, tranh chấp, khiếu kiện về vấn đề đất đai. Trong những năm qua, công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh Ninh Bình đã có nhiều tiến bộ, đạt được những kết quả nhất định. Nhưng bên cạnh đó cũng còn một số bất cập: một bộ phận cán bộ Đảng viên nhận thức về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với tôn giáo còn hạn chế, sự phối hợp giữa các cấp các ngành liên quan còn chưa đồng bộ thiếu tập trung. Đặc biệt, việc thực hiện chức năng quản lý của nhà nước đối với tôn giáo của chính quyền ở nhiều lúc nhiều nơi, nhất là ở cơ sở còn vướng mắc, công tác xây dựng, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo còn chưa được quan tâm đúng mức. Để khắc phục tình trạng trên, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Ninh Bình đã quan tâm và tăng cường chỉ đạo công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo. Một mặt nhằm nâng cao nhận thức về tín ngưỡng, tôn 3 giáo và vai trò của nó trong đời sống tinh thần của nhân dân và trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà, mặt khác để thực hiện đầy đủ, nghiêm túc đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước về công tác tôn giáo và hoạt động tôn giáo chống mọi âm mưu lợi dụng tôn giáo chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Từ tình hình đó, tôi chọn đề tài: “Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh Ninh Bình hiện nay” để làm đề tài luận văn thạc sĩ triết học, chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học. 2. Tình hình nghiên cứu Tôn giáo, tín ngưỡng là một đề tài rộng lớn về nội dung, phạm vi, góc độ,… từ trước đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu vấn đề này như: GS Đặng Nghiêm Vạn (2003), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam, Nxb CTQG; GS.TS Đỗ Quang Hưng (2005), Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam - lý luận và thực tiễn, Nxb Lý luận chính trị; Nguyễn Văn Kiệm (1997), Tôn giáo và đời sống hiện đại, Nxb Viện thông tin khoa học xã hội; Nguyễn Thanh Xuân (2005), Một số tôn giáo ở Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội; Mai Thanh Hải (1998) Tôn giáo thế giới và Việt Nam, Nxb Công an nhân dân; Lê Hữu Nghĩa và Nguyễn Đức Lữ (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo, Nxb Tôn giáo; PGS.TS Ngô Hữu Thảo - chủ nhiệm đề tài (1998), Mối quan hệ giữa chính trị và tôn giáo trong thời kỳ mở rộng giao lưu quốc tế và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, đề tài khoa học cấp bộ; PGS.TS Hoàng Minh Đô - Chủ nhiệm đề tài (2002), Đạo tin lành ở Việt Nam - Thực trạng, xu hướng phát triển và những vấn đề đặt ra hiện nay trong công tác lãnh đạo, quản lý, thuộc đề tài độc lập cấp nhà nước,… Về vấn đề liên quan trực tiếp đến công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo có các đề tài sau: Ban Tôn giáo Chính phủ (2005), Tập bài 4 giảng tôn giáo và công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Việt Nam; Nxb Tôn giáo; Bùi Đức Luận (chủ biên) (2005), Quản lý hoạt động tôn giáo – cơ sở lý luận và thực tiễn, Nxb Tôn giáo, Hà Nội; TS Nguyễn Hữu Khiển (2001), Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trong điều kiện xây dựng nhà nước dân chủ, pháp quyền Việt Nam hiện nay, Nxb CAND; TS Trần Minh Thư (2005), Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là một yêu cầu khách quan; cùng nhiều bài viết về công tác quản lý nhà nước về tôn giáo đăng trên Tạp chí Công tác tôn giáo,… Nhìn chung những công trình trên đã đề cập nhiều khía cạnh khác nhau, đã rút ra nhiều bài học kinh nghiệm của vấn đề tôn giáo và quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo. Các nhận định, đánh giá của những công trình đó sẽ được tác giả kế thừa có chọn lọc làm nguồn tài liệu tham khảo cho đề tài luận văn này. Ở tỉnh Ninh Bình có một số công trình khoa học nghiên cứu về tôn giáo như: Nguyễn Phú Lợi (2001), Tìm hiểu tổ chức giáo hội công giáo cơ sở ở địa phận Phát Diệm, tỉnh Ninh Bình (luận văn thạc sĩ tôn giáo); Lê Anh Thơ (2006), Quản lý nhà nước đối với hoạt động của tôn giáo- Công giáo ở huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình hiện nay (luận văn thạc sĩ triết học); Đáng chú ý có các công trình nghiên cứu của các tác giả Phan Đại Doãn – Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên), Về một số làng Công giáo ở huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình đầu thế kỷ XIX, Nxb CTQG, 1994; Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên), Làng Công giáo Lưu Phương (Ninh Bình) từ năm 1829 đến năm 1945, Nxb KHXH, 1997; Nguyễn Hồng Dương - Thượng tọa Thích Thọ Lạc (đồng chủ biên) (2010), Phật giáo thời Đinh và Tiền Lê trong công cuộc dựng nước và giữ nước, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Hầu hết các công trình tập trung nghiên cứu tôn giáo, ít đề cập đến tình hình công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Ninh Bình nói chung. Tuy nhiên, những kết quả của các 5 nghiên cứu nói trên đã là những tài liệu quý để tôi kế thừa thực hiện tốt đề tài. Hướng đề tài mà tôi lựa chọn, sẽ góp sức vào một vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn không chỉ trước mắt mà còn lâu dài đối với công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn Mục đích: Đánh giá thực trạng tình hình tôn giáo và công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh Ninh Bình, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh. Nhiệm vụ: Để đạt được mục tiêu đó, đề tài tập trung giải quyết nhiệm vụ cơ bản sau: - Khái quát một số vấn đề lý luận về tôn giáo và công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo; - Thực trạng tình hình tôn giáo ở Ninh Bình; - Tìm hiểu thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh Ninh Bình, những vấn đề cần giải quyết; - Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong tình hình mới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: là công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: đề tài chỉ nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. - Về thời gian: đề tài tiến hành nghiên cứu trong giai đoạn từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, nhưng tập trung chủ yếu từ năm 2000 đến nay. 6 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận và thực tiễn: Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo và quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh Ninh Bình thời gian qua. Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện luận văn này tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng một số phương pháp cụ thể như: phương pháp lịch sử và logic, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh. 6. Đóng góp và ý nghĩa thực tiễn của luận văn - Trên cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, bước đầu luận văn làm sáng tỏ một số vấn đề cấp bách đang đặt ra trong quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh Ninh Bình. - Đề xuất một số giải pháp cơ bản có tính khả thi góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh Ninh Bình. - Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo để xây dựng chủ trương, biện pháp và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh Ninh Bình. - Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy và học tập tại trường chính trị tỉnh. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, luận văn gồm 2 chương và 5 tiết 7 Chương 1 NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO 1.1. Một số vấn đề lý luận Qua các giai đoạn cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định công tác tôn giáo là vấn đề chiến lược có ý nghĩa rất quan trọng. Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là yêu cầu khách quan của công tác tôn giáo. Các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác tôn giáo đều nhấn mạnh đến vai trò của lĩnh vực công tác này. Gần đây, Nghị quyết số 25 – NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác tôn giáo tiếp tục khẳng định cần “Tăng cường quản lý nhà nước về tôn giáo” [28, tr.340]. Để thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về tôn giáo và hoạt động tôn giáo, về mặt lý luận cần nhận thức thống nhất một số vấn đề cơ bản sau đây: 1.1.1. Những khái niệm cơ bản * Khái niệm quản lý: Hoạt động quản lý xuất hiện từ rất lâu, nhưng thuật ngữ “quản lý” cho đến nay vẫn có nhiều cách hiểu. Tùy từng mục tiêu nghiên cứu khác nhau, dưới các góc độ nghiên cứu khác nhau, người ta đưa ra những quan điểm khác nhau về quản lý. Có quan điểm coi quản lý là tiến trình bao gồm các khâu lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra những nỗ lực của các thành viên trong tổ chức và sử dụng tất cả các nguồn lực khác nhau của tổ chức để đạt mục tiêu đã định trước. Cũng có quan điểm cho rằng quản lý là sự tác động định hướng bất kỳ lên một hệ thống nào đó nhằm trật tự hóa nó và hướng nó phát triển phù hợp với những quy luật nhất định. 8 Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau, song thuật ngữ quản lý đều được các nhà nghiên cứu, nhà khoa học, nhà quản lý thống nhất ở hai nội dung: Thứ nhất, quản lý là sự tác động mang tính tổ chức, tính mục đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý. Thứ hai, mục tiêu quản lý là nhằm làm cho đối tượng quản lý hoạt động (vận hành) phù hợp với ý chí của chủ thể quản lý đã định ra từ trước. Nói đến quản lý trước hết đó là sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý. Sự tác động này không phải mang tính đơn lẻ, tự phát mà nó mang tính tổ chức, tính mục đích rõ ràng. Mục đích mà chủ thể quản lý đặt ra là hướng đối tượng quản lý hoạt động phù hợp với ý chí của mình. Từ hai nội dung trên, có thể đưa ra khái niệm về quản lý: “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có mục đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đã đặt ra từ trước [46, tr.8]. * Khái niệm quản lý nhà nước: Hoạt động quản lý xuất hiện từ rất lâu và bao gồm nhiều loại, trong đó quản lý xã hội là một dạng quản lý đặc biệt. Quản lý xã hội xuất hiện từ khi lao động của con người bắt đầu được xã hội hóa. Quản lý xã hội là sự tác động có ý thức để chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người phù hợp với ý chí của nhà quản lý và quy luật khách quan. Quản lý xã hội do nhiều chủ thể tiến hành, khi nhà nước xuất hiện, những công việc quản lý xã hội quan trọng nhất do nhà nước đảm nhiệm. Hiện nay, khái niệm quản lý nhà nước được hiểu theo hai nghĩa: - Nghĩa rộng: Là dạng quản lý xã hội của nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội và các hành vi hoạt động của con 9 người do tất cả các cơ quan nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp) tiến hành để thực hiện các chức năng nhà nước đối với xã hội. - Nghĩa hẹp: Là dạng quản lý xã hội mang tính quyền lực nhà nước với chức năng chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp (Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp) [46, tr.9]. * Khái niệm tôn giáo: Theo quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan. Qua hình thức phản ánh của tôn giáo, những sức mạnh tự phát trong tự nhiên và xã hội đều trở thành thần bí “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua là sự phản ánh hư ảo – vào trong đầu óc của con người – của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế” [51, tr.22]. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo dựa trên những luận điểm chủ yếu của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo, vừa là sự vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển vào điều kiện Việt Nam và thời đại. Trên cơ sở quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta đề ra những chủ truơng, chính sách pháp luật, một mặt thể hiện tự do tín ngưỡng của nhân dân, mặt khác chống lại âm mưu lợi dụng tôn giáo chống phá nước ta của các thế lực thù địch. Hiện nay ở Việt Nam, khái niệm tôn giáo chưa được giải thích cụ thể, tuy nhiên, tùy cách tiếp cận mà đưa ra cách hiểu khác nhau về tôn giáo. Về phương diện quản lý nhà nước, tôn giáo được hiểu là một cộng đồng người có chung niềm tin vào thế lực siêu nhiên, huyền bí, có hệ thống giáo lý hay một giáo chủ, có một kết cấu là tổ chức giáo hội. 10 * Khái niệm hoạt động tôn giáo: Điều 3, Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo đã khẳng định: “Hoạt động tôn giáo là việc truyền bá, thực hành giáo lý, giáo luật, quản lý tổ chức của tôn giáo” [37, tr.346]. Việc truyền bá giáo lý, giáo luật (còn gọi là truyền đạo) là tuyên truyền những lý lẽ về nguồn gốc sự ra đời, luật lệ của tổ chức tôn giáo. Thông qua hoạt động truyền giáo, niềm tin tôn giáo của tín đồ được củng cố, luật lệ trong tôn giáo của tín đồ được thực hiện. Đối với những người chưa phải tín đồ, hoạt động truyền giáo giúp họ hiểu, tin theo tôn giáo và thông qua hoạt động truyền đạo để phát triển thêm số lượng tín đồ. Thực hành giáo luật, lễ nghi (còn gọi là hành đạo) là hoạt động của tín đồ, nhà tu hành, chức sắc tôn giáo thể hiện sự tuân thủ giáo luật, thỏa mãn đức tin tôn giáo của cá nhân tôn giáo hay cộng đồng tín đồ. Hoạt động quản lý tổ chức tôn giáo (còn gọi là quản đạo) nhằm thực hiện quy định của giáo luật, thực hiện hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo, đảm bảo duy trì trật tự, hoạt động trong tổ chức tôn giáo. Trong các hoạt động trên, việc phân định ranh giới giữa hoạt động truyền đạo với hoạt động hành đạo cũng chỉ là tương đối, có không ít trường hợp trong hoạt động hành đạo có truyền đạo. * Khái niệm quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo Từ các khái niệm quản lý, quản lý nhà nước, tôn giáo, hoạt động tôn giáo, có thể đưa ra khái niệm về quản lý nhà nước đối với tôn giáo theo hai nghĩa như sau: - Nghĩa rộng: Là quá trình dùng quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước theo quy định của pháp luật để tác động, điều chỉnh, hướng các quá trình tôn giáo và hành vi hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra phù hợp với pháp luật và đạt được mục tiêu cụ thể của chủ thể quản lý. 11 - Nghĩa hẹp: Là quá trình chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp lụât của các cơ quan trong hệ thống hành pháp (Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp) để điều chỉnh các quá trình tôn giáo và mọi hành vi hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra theo quy định của pháp luật [46, tr.11]. 1.1.2. Yêu cầu khách quan, mục tiêu và nguyên tắc của công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo * Yêu cầu khách quan Quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là công việc tất yếu của nhà nước, trong đó có nhà nước Việt Nam. Trong quá trình quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo có một số quan điểm cho rằng, hoạt động tôn giáo là hoạt động mang tính chất nội bộ của tôn giáo, nhà nước không cần phải quản lý, điều chỉnh vì nếu nhà nước quản lý thì sẽ không còn tự do tôn giáo. Tuy nhiên, hoạt động tôn giáo không chỉ thuần tuý nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần của tín đồ, chức sắc, nhà tu hành, mà còn liên quan đến các lĩnh vực đời sống xã hội. Ví dụ như việc xây dựng nơi thờ tự, không chỉ đơn thuần là việc củng cố, phát triển cơ sở vật chất của giáo hội, mà còn liên quan đến những quy định của Nhà nước về đất đai, quy hoạch, xây dựng; hoạt động in ấn kinh bổn, sản xuất đồ dùng việc đạo liên quan đến những quy định về văn hoá, xuất bản; hoạt động quan hệ với các tổ chức, cá nhân tôn giáo nước ngoài liên quan đến chính sách, pháp luật trên lĩnh vực đối ngoại, xuất nhập cảnh của nhà nước,... Mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội và mọi công dân liên quan đến các lĩnh vực đời sống xã hội đều phải tuân thủ pháp luật của Nhà nước. Tôn giáo và hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng ở bất kỳ quốc gia nào cũng không thể đứng ngoài pháp luật của quốc gia đó. Thực tiễn hiện nay cho thấy, ở đâu có hoạt động tôn giáo thì đều có sự can thiệp, quản lý của nhà nước. 12 Tuy nhiên sự quản lý, điều chỉnh của nhà nước ở mức độ nào thì có sự khác nhau, còn tùy thuộc vào từng nhà nước. Bên cạnh đó, yêu cầu của quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo không chỉ xuất phát từ ý chí của nhà nước mà còn xuất phát từ thực tiễn khách quan của sự hình thành, tồn tại, phát triển và những ảnh hưởng của tôn giáo trong lịch sử, trong đời sống xã hội hiện tại và tương lai. Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, đồng thời là thực thể xã hội, tôn giáo luôn biến động, phản ánh sự biến đổi của lịch sử nhân loại. Tôn giáo ra đời và tồn tại đều liên quan đến những yếu tố từ kinh tế - xã hội. Thừa nhận những thực tế khách quan này, một mặt, nhà nước cần tăng cường quản lý các hoạt động của tôn giáo để tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật theo phương châm tốt đời, đẹp đạo, mặt khác, cần tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Tuy nhiên, trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, tôn giáo ảnh hưởng khá sâu sắc đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội của nhiều quốc gia. Tôn giáo cũng có nhiều chức năng đối với xã hội như: chức năng thế giới quan, chức năng liên kết cộng đồng, chức năng đền bù hư ảo “Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”, chức năng điều chỉnh hành vi, đạo đức của con người. Thực hiện các chức năng này, tôn giáo đáp ứng yêu cầu tinh thần của con người, đoàn kết những người bị áp bức trong cuộc đấu tranh chống lại những bất công của xã hội, khuyên răn con người hướng thiện, làm điều tốt, tránh điều xấu. Vì vậy, trong Nghị quyết số 24 – NQ/TW về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới, Đảng ta đã chỉ ra rằng: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điểm phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới” [12, tr.2]. 13 Bên cạnh đó, tôn giáo cũng mang những hạn chế, tiêu cực như: hạn chế trong việc nhận thức thế giới quan. Ngoài ra, tôn giáo cũng thường bị kẻ xấu lợi dụng vì mục đích chính trị đen tối. Tôn giáo có khả năng liên kết con người trong cùng một cộng đồng cùng tín ngưỡng, nhưng cũng có thể đẩy người ta đến chỗ nghi kị, đối đầu, hận thù, và xung đột gây nên những thảm họa cho nhân loại. Để đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, phát huy những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của tôn giáo, nhà nước cần phải quản lý và tăng cường công tác quản lý tôn giáo, để các hoạt động tôn giáo diễn ra phù hợp với ý chí của nhà nước, phù hợp với sự phát triển chung của xã hội và nhu cầu tâm linh của quần chúng. Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, cần thiết phải tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, xuất phát từ những lý do sau: Thứ nhất, quá trình đổi mới ở nước ta đang diễn ra sâu rộng trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tôn giáo. Trong lĩnh vực này, ngay sau ngày giành độc lập, khai s inh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong Hiến pháp đầu tiên năm 1946, Điều 10, chương II, mục B (Quyền lợi và Nghĩa vụ) viết: “Mọi công dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng”. Trong những năm gần đây, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề tôn giáo ngày càng chứa đựng những nội dung mới và cụ thể: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, Đảng và Nhà nước ta chủ trương và thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng tôn giáo và không tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân” [52, tr.236]. Đồng thời, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định rõ: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Nhà nước 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất