Trường Đại Học Kinh Tế Tp.HCM
Ả
Ị Ọ
SVTH: Nguyễn Phúc Bửu Châu
STT: 04
Lớp: ketoan 1-k2009 TP1
Tp.HCM ngày 25 tháng 3 năm 2011
Môn: QUẢN TRỊ HỌC
Chuyên đề: Môi Trường Quản Trị (Môi trường của Tổ Chức)
MÔI TRƯỜNG QUẢN TRỊ
(Môi Trường của Tồ Chức)
1. KHÁI NIỆM MÔI TRƯỜNG QUẢN TRỊ:
-
-
Môi trường quản trị là các yếu tố, lực lượng bên ngoài và bên trong tổ chức có ảnh
hưởng đến kết quả hoạt động của tổ chức. Nhà quản trị ở cấp nào và lĩnh vực nào cũng
bị chi phối bởi các yếu tố môi trường bên ngoài (vĩ mô và vi mô) và môi trường bên
trong của tổ chức ở các mức độ khác nhau.
Các yếu tố đó trong quá trình vận động, tương tác với nhau tác động một cách trực tiếp
hoặc gián tiếp đến hoạt động của nhà quản lý.
2. PHÂN LOẠI MÔI TRƯỜNG QUẢN TRỊ:
Có nhiều cách khác nhau để phân loại môi trường quản trị. Theo cách tiếp cận môi
trường bên trong và bên ngoài, vi mô và vĩ mô, môi trường quản trị có thể chia thành 3
loại sau:
Nhóm yếu tố môi trường vĩ mô bên ngoài tổ chức
bao gồm các yếu tố như yếu tố kinh tế, yếu tố văn
hóa – xã hội, yếu tố chính trị - pháp luật, yếu tố
công nghệ và yếu tố quốc tế, yếu tố vật chất.
Nhóm yếu tố môi trường vi mô bên ngoài tổ chức
bao gồm các yếu tố như khách hàng, nhà cung
cấp, các đối thủ cạnh tranh.
Nhóm yếu tố môi trường vi mô bên trong tổ chức
như: Môi trường làm việc, truyền thống, văn hoá
của doanh nghiệp…
-
SVTH: Nguyễn Phúc Bửu Châu – STT: 04
Trang 1
Môn: QUẢN TRỊ HỌC
Chuyên đề: Môi Trường Quản Trị (Môi trường của Tổ Chức)
-
Các nhóm yếu tố nói trên luôn tác động qua lại lẫn nhau, tạo ra môi trường quản trị của
một tổ chức.
Các nhà quản trị cần nhận thức đầy đủ, chính xác các yếu tố này để đưa ra các quyết
định đúng đắn giúp thực hiện các mục tiêu của tổ chức một cách hiệu năng và hiệu quả.
3. NHÓM YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG VĨ MÔ BÊN NGOÀI TỔ CHỨC:
3.1. Yếu tố kinh tế vĩ mô
- Môi trường kinh tế vĩ mô bao gồm các yếu tố nằm bên ngoài tổ chức , chúng không chỉ
định hướng và có ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động quản trị của tổ chức, mà còn
ảnh hưởng cả tới môi trường vi mô bên ngoài và môi trường nội bộ bên trong tổ chức.
- Các yếu tố kinh tế là những yếu tố gây ra sự biến động trong nền kinh tế, được phản ánh
thông qua các chỉ số như:
Tổng sản phẩm quốc nội
Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Tỷ lệ lạm phát
Tỷ lệ thất nghiệp
Tỷ giá
Lãi suất
Thâm hụt, thặng dư ngân sách nhà nước
Cán cân thanh toán quốc tế
Những biến động trong nền kinh tế có thể tạo ra cơ hội hoặc thách thức cho các
tổ chức.
3.1.1. Yếu tố văn hóa - xã hội
Dân số
- Dân số, mức gia tăng dân số ở mỗi địa
phương, quốc gia cũng như xu hướng di
dân từ địa phương này sang địa phương
khác có ảnh hưởng đến hai trong số các
yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển
của tổ chức là nguồn nhân lực và khách
hàng.
- Ngoài ra, các nhà quản lý doanh nghiệp
thường phải phân tích cơ cấu dân số về
giới tính, tuổi tác,... để phân khúc và xác
định thị trường mục tiêu, xác định đặc tính sản phẩm, giá bán và các chính sách xúc tiến
bán. Nói cách khác, yếu tố này có ảnh hưởng nhiều đến chiến lược sản xuất, kinh doanh
của doanh nghiệp. Tất cả các thông tin cần thiết về dân số của một khu vực có thể thu
thập được từ các cơ quan chính phủ, các tổ chức xã hội trong vùng hoặc tìm kiếm được
từ các tạp chí chuyên ngành, qua Internet.
SVTH: Nguyễn Phúc Bửu Châu – STT: 04
Trang 2
Môn: QUẢN TRỊ HỌC
Chuyên đề: Môi Trường Quản Trị (Môi trường của Tổ Chức)
-
-
-
-
-
-
Văn hóa
Văn hóa là một phạm trù phức tạp với
nhiều định nghĩa khác nhau. Theo một
thống kê gần đây của UNESCO, hiện có
gần 400 định nghĩa về văn hóa. Từ góc độ
quản lý, ta có thể sử dụng định nghĩa văn
hóa là những đặc trưng chung như ngôn
ngữ, nghệ thuật, hệ thống quan niệm sống,
thái độ đối với tự nhiên, môi trường, các di
sản văn hóa và trình độ phát triển kinh tế;
cùng các giá trị chung để phân biệt một nhóm người này với các nhóm người khác. Văn
hóa là một trong những yếu tố quan trọng chi phối hành vi của người tiêu dùng.
Ngoài ra, các yếu tố thuộc về văn hóa như nhân cách, đạo đức, niềm tin, thái độ... còn
ảnh hưởng đến hành vi ứng xử của mỗi con người trong tổ chức.
Chính vì vậy, văn hóa không chỉ ảnh hưởng đến các quyết định kinh doanh mà còn ảnh
hưởng đến tất cả các chức năng của quản trị.
Nghề nghiệp
Chuyên môn hóa và hợp tác hóa lao
động xã hội là một qui luật tất yếu
trong quá trình phát triển của các quốc
gia, khu vực.
Xã hội càng phát triển thì tính chuyên
môn hóa càng sâu và đa dạng hóa về
nghề nghiệp càng tăng. Các nghề
nghiệp chuyên môn sâu khác nhau sẽ
dẫn đến những đòi hỏi về phương tiện
và công cụ lao động khác nhau, nhu
cầu về ăn ở đi lại vui chơi giải trí ... cũng khác nhau.
Các nhà quản lý phải tính đến các yếu tố đó khi ra các quyết định có liên quan.
Phong cách và lối sống
Mỗi quốc gia, mỗi địa phương, mỗi dân tộc, mỗi cá nhân lại có những đặc trưng khác
nhau về phong cách và lối sống.
Mỗi phong cách và lối sống tạo ra những cách suy nghĩ, hành động và cảm nhận khác
nhau về các sự vật, hiện tượng dẫn đến những nhu cầu đa dạng khác nhau về con người.
Điều này dẫn đến các động cơ làm việc và nhu cầu tiêu dùng khác nhau.
SVTH: Nguyễn Phúc Bửu Châu – STT: 04
Trang 3
Môn: QUẢN TRỊ HỌC
Chuyên đề: Môi Trường Quản Trị (Môi trường của Tổ Chức)
-
-
-
Phong cách, lối sống của mỗi cá nhân đều có thể thay đổi theo không gian và thời gian.
Bởi vậy các nhà quản lý không chỉ cần quan tâm đến các đặc trưng phong cách, lối sống
hiện tại mà còn cần có những dự đoán trước cho tương lai.
Tôn giáo
Tôn giáo ra đời từ rất sớm trong lịch sử phát triển của loài người. Ngày nay có rất nhiều
loại tôn giáo trên thế giới, trong đó có ba loại tôn giáo có số lượng tín đồ nhiều nhất trên
thế giới là đạo Thiên chúa, đạo Phật và đạo Hồi. Mỗi tôn giáo đều có những quan niệm,
niềm tin và thái độ riêng về cuộc sống, về hành vi ứng xử giữa các tín đồ với nhau và
với mọi người.
Do đó, các nhà quản lý không thể không tính đến các ảnh hưởng của tôn giáo đến quyết
định mua hàng của khách hàng, đến phản ứng của đối thủ cạnh tranh, đến hành vi của
nhân viên dưới quyền.
3.1.2. Yếu tố chính trị, pháp luật
Chính trị
- Sự ổn định chính trị tạo ra môi trường thuận lợi
cho hoạt động của tổ chức. Trong một xã hội ổn
định về chính trị, các nhà kinh doanh được đảm
bảo an toàn về đầu tư, quyền sở hữu tài sản do đó
họ sẵn sàng đầu tư các khoản vốn lớn vào các dự
án dài hạn.
- Môi trường chính trị ổn định cũng là một trong
những yếu tố hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.
- Các nhà đầu tư nước ngoài khi quyết định đầu tư
vào một quốc gia cần đánh giá mức độ rủi ro
chính trị của quốc gia đó.
- Mức độ rủi ro chính trị là mức độ mà các biến cố
và hoạt động chính trị có khả năng gây ra những
tác động tiêu cực đối với lợi nhuận tiềm tàng dài hạn của các dự án đầu tư.
-
-
Pháp luật
Hệ thống pháp luật được xây dựng dựa trên nền tảng của các định hướng chính trị,
nhằm quy định những điều mà các thành viên trong xã hội không được làm và là cơ sở
để chế tài những hành động vi phạm các mối quan hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ.
Các bộ luật, nghị định, thông tư và các quyết định như bộ Luật Lao động, Luật Thương
mại, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Thuế xuất nhập khẩu, Luật Bảo vệ môi
trường... đưa ra các quy định điều chỉnh hoạt động của các tổ chức ở các lĩnh vực có
liên quan.
SVTH: Nguyễn Phúc Bửu Châu – STT: 04
Trang 4
Môn: QUẢN TRỊ HỌC
Chuyên đề: Môi Trường Quản Trị (Môi trường của Tổ Chức)
-
-
Các chính sách về lương bổng, tài chính, tiền tệ (chính sách thuế, chính sách quản lý
tiền mặt, chế độ thu chi và sử dụng ngân sách, cán cân thanh toán, nguồn cung cấp tiền,
việc kiểm soát về khả năng tín dụng thông qua chính sách tài chính) đều có những ảnh
hưởng rất lớn đến các hoạt động về quản trị kinh doanh ở tất cả các doanh nghiệp.
Các chính sách của Chính phủ có thể có tác động thúc đẩy hoặc hạn chế sự phát triển
của tổ chức, doanh nghiệp. Ví dụ Chính phủ có thể thúc đẩy bằng cách khuyến khích
việc mở rộng và phát triển hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thông qua việc trợ
cấp cho các ngành công nghiệp được lựa chọn, ưu tiên về thuế trong những hoàn cảnh
nhất định, bảo vệ một vài ngành kinh doanh thông qua những biểu thuế suất đặc biệt,
hay bằng cách trợ giúp việc nghiên cứu và triển khai.
3.1.3. Yếu tố công nghệ
- Sự phát triển nhanh chóng của khoa học
- kỹ thuật và công nghệ ngày nay vừa tạo
ra cơ hội đồng thời cũng tạo ra những
thách thức đối với các tổ chức.
- Những thành tựu của công nghệ làm thay
đổi phương pháp làm việc của con người.
- Sự bùng nổ của cuộc cách mạng về
thông tin và truyền thông đã tác động
đến tất cả các lĩnh vực hoạt động của tổ
chức như sản xuất, lưu thông, phân phối
hay cách thức giao tiếp, phối hợp trong nội bộ tổ chức.
- Sự tiến bộ của công nghệ đồng nghĩa với việc công nghệ mới, tiên tiến sẽ thay thế cho
các công nghệ cũ, sản phẩm mới sẽ thay thế các sản phẩm cũ với tốc độ ngày càng
nhanh.
- Chu kỳ đổi mới công nghệ và vòng đời của sản phẩm ngày càng ngắn hơn khiến vị thế
cạnh tranh của sản phẩm, của doanh nghiệp cũng biến đổi liên tục, bởi vậy các nhà quản
lý cần liên tục cập nhật những thông tin về yếu tố này.
3.1.4. Yếu tố quốc tế hóa
- Nền kinh tế thế giới đang ở trong giai đoạn quốc tế hóa và toàn cầu hóa. Ngày nay,
không có một quốc gia nào tồn tại độc lập mà không có bất cứ sự liên hệ và phụ thuộc
nào với các quốc gia khác.
- Các cuộc khủng hoảng tài chính, kinh tế gần đây lan truyền từ quốc gia này đến quốc
gia khác với một tốc độ rất nhanh chóng cho thấy mức độ phụ thuộc cao giữa các quốc
gia.
SVTH: Nguyễn Phúc Bửu Châu – STT: 04
Trang 5
Môn: QUẢN TRỊ HỌC
Chuyên đề: Môi Trường Quản Trị (Môi trường của Tổ Chức)
-
-
Hoạt động của các tổ chức, doanh nghiệp ngày nay không thể không tính đến các yếu tố
hội nhập kinh tế quốc tế, vươn ra thế giới hoặc cạnh tranh với các doanh nghiệp nước
ngoài tại ngay thị trường nội địa.
Các nhà quản lý của các tổ chức cần có tầm nhìn quốc tế và chú ý tới các tác động của
các yếu tố quốc tế tới hoạt động của tổ chức của mình.
3.1.5. Yếu tố vật chất
- Yếu tố vật chất bao gồm tài nguyên thiên nhiên, khí hậu, môi trường và cơ sở vật chất
hạ tầng của nền kinh tế.
- Tài nguyên thiên nhiên bao gồm các loại khoáng sản tài nguyên trên bề mặt và trong
lòng đất, dưới đáy biển, nguồn nước, không khí, rừng tự nhiên,…
- Các nguồn tài nguyên ngày càng trở nên khan hiếm. Dân số ngày càng tăng nhanh cùng
với việc lạm dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên đã dẫn đến những hậu quả nghiêm
trọng về môi trường như nạn lũ lụt, bão, ô nhiễm môi trường,…
- Nhà quản lý mỗi tổ chức cần ý thức được trách nhiệm xã hội của việc tổ chức trong việc
bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường.
- Hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế bao gồm mạng lưới giao thông, vận tải, mạng lưới thông
tin và truyền thông, các dịch vụ tài chính, ngân hàng.
- Quốc gia nào có hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
các tổ chức đặt trụ sở tại đó mang lại lợi thế cạnh tranh cho tổ chức đó và là lợi thế cạnh
tranh của quốc gia.
4. NHÓM YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG VI MÔ BÊN NGOÀI TỔ CHỨC:
4.1. Đối thủ cạnh tranh
- Đối thủ cạnh tranh là những tổ chức hay cá nhân có khả năng thỏa mãn nhu cầu của các
khách hàng mục tiêu của doanh nghiệp bằng cùng một loại sản phẩm hoặc những sản
phẩm có khả năng thay thế sản phẩm của doanh nghiệp.
- Các đối thủ cạnh tranh có thể chia thành ba nhóm:
4.1.1. Đối thủ cạnh tranh trực tiếp
- Đối thủ cạnh tranh trực tiếp là các tổ chức cung cấp các sản phẩm, dịch vụ cùng loại với
sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp.
- Mọi tổ chức, ngay cả các công ty độc quyền đều có rất nhiều đối thủ cạnh tranh. Mức
độ cạnh tranh phụ thuộc vào sự tương tác giữa các yếu tố như số lượng doanh nghiệp
tham gia cạnh tranh, mức độ tăng trưởng của ngành, cơ cấu chi phí cố định và mức độ
đa dạng hoá sản phẩm.
- Các doanh nghiệp cần phân tích từng đối thủ cạnh tranh về mục tiêu tương lai, nhận
định của họ đối với bản thân và với chúng ta, chiến lược họ đang thực hiện, tiềm năng
của họ để nắm và hiểu được các biện pháp phản ứng và hành động mà họ có thể có.
SVTH: Nguyễn Phúc Bửu Châu – STT: 04
Trang 6
Môn: QUẢN TRỊ HỌC
Chuyên đề: Môi Trường Quản Trị (Môi trường của Tổ Chức)
4.1.2. Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn
- Đối thủ mới tham gia kinh doanh trong ngành có thể là yếu tố làm giảm lợi nhuận của
doanh nghiệp. Họ đưa vào khai thác các năng lực sản xuất mới với mong muốn giành
được thị phần và các nguồn lực cần thiết.
- Việc mua lại các cơ sở khác trong ngành với ý định xây dựng thị trường thường là biểu
hiện của sự xuất hiện đối thủ mới xâm nhập.
- Các doanh nghiệp có thể tự bảo vệ vị thế cạnh tranh của mình trước đối thủ cạnh tranh
tiềm ẩn bằng việc xây dựng và củng cố những lợi thế như: Lợi thế do sự sản xuất trên
quy mô lớn, đa dạng hóa sản phẩm, đầu tư ban đầu lớn, kênh tiêu thụ sản phẩm vững
vàng hay các ưu thế về công nghệ và nguồn nguyên liệu.
4.2. Sản phẩm thay thế
- Phần lớn sản phẩm thay thế là kết quả của sự phát triển công nghệ. Bởi vậy để củng cố
vị thế cạnh tranh, các doanh nghiệp cần không ngừng cập nhật sự tiến bộ của khoa học
và công nghệ, dành nguồn lực cho việc nghiên cứu và phát triển để cải tiến sản phẩm
hiện tại và đưa ra sản phẩm phù hợp hơn với nhu cầu của thị trường.
4.3. Nhà cung ứng
- Các nhà cung ứng là các tổ chức cung cấp các nguồn lực cho doanh nghiệp. Các nguồn
lực đó có thể là nguyên vật liệu để sản xuất ra sản phẩm, dịch vụ (nông sản đối với các
công ty chế biến lương thực, thực phẩm, linh kiện máy tính đối với các công ty lắp ráp
máy tính) hay các sản phẩm, dịch vụ đầu vào (hàng tiêu dùng đối với các siêu thị).
- Ngoài ra, các nguồn lực đó còn bao gồm lao động (các nhà cung ứng là các công ty giới
thiệu việc làm), vốn (các nhà cung ứng là các ngân hàng, công ty tài chính) hay thông
tin (các cơ quan thống kê cung cấp các số liệu thống kê về kinh tế). Sức ép của các nhà
cung ứng đối với tổ chức, doanh nghiệp phụ thuộc vào mức độ quan trọng của sản
phẩm, dịch vụ mà nhà cung ứng cung cấp đối với hoạt động của doanh nghiệp, số lượng
các nhà cung ứng các sản phẩm, dịch vụ trên thị trường, mức độ độc đáo của sản phẩm,
dịch vụ của nhà cung ứng. Khi lựa chọn các nhà cung ứng, các doanh nghiệp có thể đa
dạng hóa các nhà cung ứng để giảm mức độ phụ thuộc vào họ hoặc tập trung vào một số
ít các nhà cung ứng để xây dựng mối quan hệ bền vững và hưởng các ưu tiên về giá hay
thời hạn giao hàng. Dù lựa chọn phương án nào, các nhà quản lý cũng cần đảm bảo một
nguồn cung ổn định cho tổ chức cả về mặt số lượng và chất lượng.
4.4. Khách hàng
- Khách hàng là người mua các sản phẩm và dịch vụ của tổ chức, doanh nghiệp. Khách
hàng có thể là các cá nhân hay các tổ chức (trường học, bệnh viện, các cơ quan chính
quyền, các doanh nghiệp, những nhà bán buôn, bán lẻ).
SVTH: Nguyễn Phúc Bửu Châu – STT: 04
Trang 7
Môn: QUẢN TRỊ HỌC
Chuyên đề: Môi Trường Quản Trị (Môi trường của Tổ Chức)
-
-
Khách hàng là yếu tố quyết định sự tồn tại của tổ chức, bởi vậy các quyết định, các
hoạch định về chính sách và chiến lược của tổ chức, doanh nghiệp cần dựa trên các
nghiên cứu kỹ lưỡng về khách hàng.
Sức ép của khách hàng đối với tổ chức, doanh nghiệp phụ thuộc vào tỷ lệ số lượng mua
hàng của khách hàng đó trong tổng số lượng hàng hóa bán ra của doanh nghiệp.
Ví dụ một số công ty chuyên sản xuất linh kiện, phụ tùng theo đơn đặt hàng của các
công ty lớn như IBM, Samsung - gần như toàn bộ khối lượng hàng hóa bán ra chomột
khách hàng duy nhất.
4.5. Các cơ quan hữu quan
- Các cơ quan hữu quan là các tổ chức có thể kiểm soát hoặc tác động tới hoạt động của
doanh nghiệp. Các tổ chức này có thể ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới hoạt động
của tổ chức, doanh nghiệp.
- Căn cứ trên mức độ ảnh hưởng, có thể chia các tổ chức này thành 2 loại:
Các cơ quan chính phủ: các cơ quan của chính phủ quản lý các hoạt động có liên
quan của tổ chức, doanh nghiệp như Tổng cục thuế, Tổng cục Hải quan, Sở kế
hoạch đầu tư,... Chính phủ và chính quyền địa phương chắc chắn có ảnh hưởng rất
nhiều đến các tổ chức vì nó quyết định những điều mà tổ chức có thể và không thể
thực hiện.
Ví dụ như việc bảo vệ vị trí độc quyền của những ngành then chốt, quan trọng như năng
lượng, thông tin sẽ mang lại nhiều lợi nhuận cho các công ty trong lĩnh vực này.
Các nhóm áp lực: các tổ chức có ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp
một cách gián tiếp vì họ không có quyền hạn chính thức để tác động đến các tổ
chức ví dụ Hội phụ nữ, Hiệp hội tiêu dùng,... nhưng họ có thể gây ảnh hưởng đến
tổ chức thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Những nhà quản trị cần
nhận ra những nhóm áp lực nào đang có các ảnh hưởng đối với tổ chức của họ.
Ví dụ các công ty thuốc lá có thể bị áp lực từ sự vận động không hút thuốc tại nhiều nơi
như công sở, nơi công cộng nói chung của nhóm
bảo vệ môi trường.
4.6. Các đối tác:
- Nhiều doanh nghiệp lựa chọn chiến lược hợp tác
để cùng phát triển. Các đối tác hợp tác trong sản
xuất, kinh doanh với nhiều hình thức như liên
doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh, liên doanh
để tận dụng những sức mạnh mà mình chưa có
như mối quan hệ với cơ quan chính quyền địa
phương, hệ thống phân phối, thương hiệu,…
- Ngoài ra, các đối tác liên kết có thể giúp doanh
SVTH: Nguyễn Phúc Bửu Châu – STT: 04
Trang 8
Môn: QUẢN TRỊ HỌC
Chuyên đề: Môi Trường Quản Trị (Môi trường của Tổ Chức)
nghiệp chia sẻ rủi ro hay phát triển một thị trường mới. Chúng ta đang chứng kiến
những sự hợp tác bền vững và hai bên cùng đạt được nhiều lợi ích như McDonald’s hợp
tác với chuỗi siêu thị Wal-Mart hay Disney để mở các cửa hàng bán đồ ăn nhanh ở tất
cả các siêu thị của Wal-Mart và các công viên Disney trên toàn thế giới.
5. CÁC YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG VI MÔ BÊN TRONG TỔ CHỨC:
Môi trường bên trong của tổ chức cũng có nhiều ảnh hưởng đến hoạt động của các nhà
quản lý. Các yếu tố đó bao gồm: Chủ sở hữu của tổ chức, nhân viên, môi trường làm
việc.
5.1. Chủ sở hữu của tổ chức
- Chủ sở hữu của tổ chức là các cá nhân, tổ chức có quyền sở hữu một phần hoặc toàn bộ
tổ chức được pháp luật bảo vệ.
- Các nhà quản lý có trách nhiệm trình bày đầy đủ và chính xác cho các chủ sở hữu của tổ
chức về việc mình sử dụng các nguồn tài nguyên của tổ chức như thế nào và kết quả của
việc sử dụng các nguồn lực đó. Quyền cơ bản của một chủ sở hữu không chỉ là lợi
nhuận (đối với doanh nghiệp) mà còn được đảm bảo thông tin để có thể căn cứ vào đó
để đưa ra quyết định đầu tư một cách khôn ngoan và luật pháp bảo vệ quyền được nhận
thông tin đó của các chủ sở hữu.
-
5.2. Nhân viên
- Kết quả công việc của nhà quản lý phụ thuộc rất nhiều vào thái độ của người nhân viên
đối với công việc, trình độ, nghiệp vụ chuyên môn của người nhân viên. Nguồn lực
quan trọng nhất của đa số các tổ chức ngày nay chính là nguồn lực con người. Trong
mối quan hệ với nhân viên, nhà quản lý không chỉ đóng vai trò là người có quyền hạn
mà còn đóng vai trò là người có trách nhiệm đối với những yêu cầu cơ bản của người
nhân viên như an toàn và sức khỏe, tiền lương và thời gian làm việc, các phúc lợi khác
(bảo hiểm, phụ cấp ngành nghề, trợ cấp thất nghiệp,…).
- Ngày nay, các tổ chức nói chung và các nhà quản lý nói riêng đều coi trọng công tác
đào tạo nhân viên vì việc này vừa có tác dụng nâng cao chất lượng và năng suất lao
động của người nhân viên vừa thỏa mãn nhu cầu hoàn thiện bản thân của người nhân
viên.
- Ngoài ra, vấn đề giữ chân người nhân viên giỏi và có kinh nghiệm cũng là một trong
những nhiệm vụ quan trọng của nhà quản lý. Nhà quản lý có thể áp dụng nhiều biện
pháp linh hoạt và sáng tạo để làm điều này ngoài những công cụ truyền thống như tiền
lương, tiền thưởng. Ví dụ chế độ thời gian làm việc linh hoạt cho phép người nhân viên
có thể chủ động bố trí và cân bằng giữa công việc và gia đình là một trong những biện
pháp đã và đang được sử dụng.
SVTH: Nguyễn Phúc Bửu Châu – STT: 04
Trang 9
Môn: QUẢN TRỊ HỌC
Chuyên đề: Môi Trường Quản Trị (Môi trường của Tổ Chức)
-
Trong xã hội hiện đại, phụ nữ tham gia ngày càng tích cực và chủ động vào các công
việc xã hội, vai trò của họ cũng không kém gì các đồng nghiệp nam giới. Nhiều công ty
đã chú trọng đến vấn đề hỗ trợ chăm sóc người già và trẻ em.
5.3. Môi trường làm việc
- Môi trường làm việc về mặt vật lý (điều kiện làm việc, bố trí không gian nơi làm việc)
của tổ chức cũng có ảnh hưởng đến công việc của nhà quản lý. Có nhiều cách bố trí
không gian làm việc khác nhau. Các tổ chức ở các thành phố đông dân cư thường có
khoảng không gian làm việc rất chật hẹp nhưng giao thông thuận lợi. Ngược lại, các nhà
máy sản xuất thường đặt ở các vùng tập trung ít dân, điều kiện hạ tầng chưa phát triển
và khó tìm kiếm nhân lực chất lượng cao tại địa phương.
- Cách bố trí không gian làm việc cũng ảnh hưởng đến giao tiếp trong tổ chức và quá
trình ra quyết định. Tại nhiều tổ chức, các nhà quản lý ngồi riêng một phòng tách biệt
với nhân viên. Xu hướng ngày nay, không gian làm việc ngày càng mang tính mở, mọi
người cùng làm việc với nhau trong một phòng lớn, nhân viên của các bộ phận khác
nhau có thể dễ dàng qua lại và thảo luận với nhau. Tại nhiều công ty, chỗ làm việc của
các nhà quản lý cấp cao được bố trí ở trung tâm, xung quanh đó là chỗ làm việc của các
nhà quản lý cấp thấp hơn. Cách bố trí như vậy tạo điều kiện thuận lợi cho việc làm việc
nhóm và ra các quyết định cần có sự tham gia của nhiều bộ phận.
- Ngoài môi trường làm việc mang tính chất vật lý như mô tả ở trên, kết quả làm việc của
cán bộ, nhân viên trong tổ chức còn phụ thuộc nhiều vào bầu không khí của tổ chức hay
văn hóa của tổ chức. Các nhà quản lý cần chú trọng tới việc xây dựng bầu không khí
làm việc tích cực trong tổ chức, nhấn mạnh các yếu tố mà tổ chức đó coi trọng như tinh
thần làm việc nhóm, đoàn kết, cạnh tranh lành mạnh,…
6. CÁC GIẢI PHÁP QUẢN TRỊ BẤT TRẮC CỦA YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG:
Khi nhận ra tổ chức phụ thuộc vào một hay nhiều yếu tố môi trường, thì nhà quản trị
không thụ động đối phó mà tìm chiến lược làm giảm bớt sự lệ thuộc đó. Các biện pháp
có thể được sử dụng như sau:
6.1. Dùng đệm:
-
-
Nhằm giảm bớt những ảnh hưởng do môi trường gây ra, nhà quản trị có thể dùng đệm
cho tổ chức chống với những ảnh hưởng môi trường từ phía đầu vào hoặc đầu ra. Ở
phía đầu vào là tồn trữ vật tư để tránh những bất trắc do sự biến động giá cả; thực hiện
bảo trì phòng ngừa là thay thế những chi tiết đã tính trước hay đến kỳ hạn bảo trì, giống
như ta đem xe đi kiểm tra định kỳ và làm dịch vụ dự phòng để tránh chi tiêu khi xe hư
hỏng bất ngờ, hay tuyển và huấn luyện nhân viên mới, để tránh những biến động về nhu
cầu nhân viên của doanh nghiệp.
SVTH: Nguyễn Phúc Bửu Châu – STT: 04
Trang 10
Môn: QUẢN TRỊ HỌC
Chuyên đề: Môi Trường Quản Trị (Môi trường của Tổ Chức)
-
Cách dùng đệm ở đầu ra không được phong phú như ở đầu vào. Trường hợp đáng kể
nhất là dùng những bản kiểm kê. Nếu một tổ chức có thể tạo ra được những sản phẩm
đem kiểm kê mà không hư hỏng thì công ty đạt được hiệu suất cao, sản xuất hàng hoá
với tốc độ bất biến dù rằng có những dao động của nhu cầu. Chẳng hạn như nhà sản
xuất đồ chơi chỉ phân phối hàng cho những cửa hàng bán lẻ vào mùa thu để bán vào dịp
trung thu. Dỉ nhiên, đồ chơi được sản xuất suốt năm, tồn kho và phân phối vào mùa thu.
6.2. San bằng:
-
Tức là san đều ảnh hưởng của môi trường. Thí dụ các công ty điện thoại có giờ cao
điểm từ 8 giờ sáng đến 5 giờ chiều của ngày làm việc vì giới kinh doanh sử dụng và
công ty điện thoại phải có đủ thiết bị để đáp ứng nhu cầu đó, nhưng vào những giờ khác
thì thiết bị lại ít hoặc không được dùng tới. Họ giải quyết bằng cách tính giá cao nhất
vào giờ cao điểm và giá rẻ vào những giờ khác. Các cửa hiệu bán quần áo, thường có
doanh số bán thấp nhất vào dịp nghỉ hè, thực hiện bán giảm giá vào thời điểm đó.
6.3. Tiên đoán:
-
Là khả năng đoán trước những biến chuyển của môi trường và những ảnh hưởng của
chúng đối với tổ chức. Tuỳ theo khả năng tiên đoán được những dao động của môi
trường mà nhà quản trị có thể giảm bớt được những bất trắc. Thí dụ một người kinh
doanh trong lĩnh vực xây dựng nhà ở phải tiên đoán những biến đổi về nhu cầu để có
thể có điều chỉnh kế hoạch xây dựng hầu đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng.
6.4. Cấp hạn chế:
-
Nhiều khi nhà quản trị phải áp dụng biện pháp cấp hạn chế sản phẩm hay dịch vụ của
tổ chức, tức là cấp phát chúng trên một căn cứ ưu tiên khi có nhu cầu vượt quá cung
cấp. Bệnh viện đôi khi phải cấp hạn chế giường bệnh trong trường hợp nguy cấp như
thiên tai, động đất, lũ lụt.. giường bệnh chỉ dành cho những ca nặng nhất. Bưu điện
cũng dùng giải pháp này trong những dịp cao điểm đối với dịch vụ thư tín. Cấp hạn chế
biểu thị cố gắng giảm thiểu sự bất trắc của môi trường bằng cách kiểm soát những nhu
cầu quá cao.
6.5. Hợp đồng:
-
Nhà quản trị có thể dùng hợp đồng để giảm bớt bất trắc ở phía đầu vào cũng như đầu ra.
Chẳng hạn như ký hợp đồng mua bán vật tư và nguyên liệu một cách dài hạn, thí dụ như
trường hợp công ty hàng không ký hợp đồng với các công ty xăng dầu hoặc các nhà chế
biến thực phẩm ký hợp đồng với những nhà cung cấp ngũ cốc. Nhờ đó các công ty trên
tránh được những bất trắc do biến động giá cả hoặc tạo nguồn tiêu thụ ổn định cho các
nhà cung ứng.
SVTH: Nguyễn Phúc Bửu Châu – STT: 04
Trang 11
Môn: QUẢN TRỊ HỌC
Chuyên đề: Môi Trường Quản Trị (Môi trường của Tổ Chức)
6.6. Kết nạp:
-
Thu hút những cá nhân hay những tổ chức có thể là những mối đe doạ từ môi trường
cho tổ chức của họ. Chẳng hạn có một doanh nghiệp bị những nhóm tiêu thụ công kích,
đã mời một vài nhân vật trội nhất của nhóm vào hội đồng quản trị của họ. Dỉ nhiên,
những người được mời tham dự sẽ không thể nào công kích những quyết định mà chính
họ tham gia làm ra. Những nhà quản trị các công ty có khó khăn về tài chính cũng
thường mời ngân hàng vào trong hội đồng quản trị của họ, để dễ tiếp cận với thị trường
tiền tệ.
6.7. Liên kết:
-
Đây là trường hợp những tổ chức hợp lại trong một hành động chung. Cách giải quyết
này bao gồm những chiến thuật như thoả thuận phân chia thị trường, định giá, phân chia
lãnh thổ địa lý, hợp nhất, hoạt động chung và điều khiển chung. Những thoả thuận có đi
có lại, không viết ra, đôi khi bất hợp pháp và những giải quyết nhân nhượng có thể ổn
định môi trường bất trắc.
6.8. Qua trung gian:
-
Nhà quản trị có thể sử dụng cá nhân hay tổ chức khác để giúp họ hoàn thành những kết
quả thuận lợi. Cách thường dùng là vận động hành lang để tìm kiếm những quyết định
thuận lợi cho công việc của tổ chức.
6.9. Quảng cáo:
- Là phương tiện quen thuộc nhất mà các tổ chức sử dụng để quản trị môi trường. Những
nhà quản trị tạo được những khác biệt giữa sản phẩm hay dịch vụ của họ với những
công ty khác trong ý thức của khách hàng thì có thể ổn định được thị trường của họ và
giảm thiểu bất trắc.
SVTH: Nguyễn Phúc Bửu Châu – STT: 04
Trang 12
Môn: QUẢN TRỊ HỌC
Chuyên đề: Môi Trường Quản Trị (Môi trường của Tổ Chức)
7. TÓM LƯỢC VÀ KẾT LUẬN:
-
Các nhà quản trị dù hoạt động trong bất kỳ lĩnh vực nào đều phải xét đến các yếu tố môi
trường xung quanh. Trong khi họ có thể thay đổi chút ít hoặc không thể thay đổi các
yếu tố này, thì họ không có sự lựa chọn nào khác mà phải phản ứng, thích nghi với
chúng. Họ phải xác định, ước lượng và phản ứng lại đối với các yếu tố bên ngoài tổ
chức có thể ảnh hưởng đến sự hoạt động của nó.
-
Môi trường quản trị là sự vận động tổng hợp, tương tác lẫn nhau giữa các yếu tố và lực
lượng bên ngoài hệ thống quản trị nhưng lại có ảnh hưởng trực tiếp, hoặc gián tiếp đến
hoạt động quản trị của một tổ chức.Tùy theo các góc độ tiếp cận khác nhau, người ta có
thể phân môi trường quản trị ra thành nhiều loại: môi trường vĩ mô: có tác động trên
bình diện rộng và lâu dài. Đối với một doanh nghiệp: chẳng hạn, chúng tác động đến cả
ngành sản xuất kinh doanh, và do đó cũng có tác động đến doanh nghiệp và chiến lược
quản trị kinh doanh của doanh nghiệp; môi trường vi mô bên ngoài tổ chức, tác động
trên bình diện gần gủi và trực tiếp đến hoạt động của doanh nghiệp và môi trường nội
bộ, có ảnh hưởng trực tiếp, thường xuyên và rất quan trọng tới các hoạt động quản trị
của chính ngay tổ chức đó. Các yếu tố này sẽ giúp cho một tổ chức xác định rõ ưu
nhược điểm của mình, đưa ra các biện pháp nhằm giảm bớt nhược điểm và phát huy ưu
điểm đạt được một cách tối đa.
-
Các môi trường nói trên luôn tác động qua lại lẫn nhau, tạo ra môi trường quản trị của
một tổ chức.Tuy nhiên, nhà quản trị có thể làm giảm sự lệ thuộc của tổ chức vào môi
trường bằng những chiến lược thích hợp.
-
Quản trị gia phải nhận thức đầy đủ, chính xác các yếu tố môi trường để soạn thảo chiến
lược và sách lược quản trị cho đúng đắn, giúp tổ chức tồn tại và phát triển.
SVTH: Nguyễn Phúc Bửu Châu – STT: 04
Trang 13
- Xem thêm -