môc lôc
Trang
më ®Çu
1
Ch-¬ng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
7
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1.
Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
7
1.2.
Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
13
1.3.
Khái quát về những kết quả đã nghiên cứu có liên quan đến đề tài
18
luận án và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
Ch-¬ng 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BUỘC TỘI VÀ CHỦ THỂ
24
BUỘC TỘI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
2.1.
Những khái niệm có liên quan đến buộc tội và chủ thể buộc tội
24
2.2.
Chức năng buộc tội trong tố tụng hình sự
32
2.3.
Hoạt động của chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự
43
2.4.
Khái quát về chủ thể buộc tội theo các mô hình tố tụng ở một số
55
nước trên thế giới
Ch-¬ng 3: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ CHỦ
67
THỂ BUỘC TỘI VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI VIỆT NAM
3.1.
Khái quát về chủ thể buộc tội trong lịch sử tố tụng hình sự Việt Nam
67
3.2.
Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về chủ thể buộc tội thuộc Cơ
77
quan điều tra và thực tiễn thi hành giai đoạn 2003 - 2018
3.3.
Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về chủ thể buộc tội thuộc Cơ
89
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số điều tra và thực tiễn thi
hành giai đoạn 2003 - 2018
3.4.
Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về chủ thể buộc tội thuộc
95
Viện Kiểm sát và thực tiễn thi hành giai đoạn 2003 - 2018
3.5.
Nguyên nhân gây nên những hạn chế, tồn tại trong hoạt động của
chủ thể buộc tội
106
Ch-¬ng 4: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
115
CỦA CÁC CHỦ THỂ BUỘC TỘI THEO PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
4.1.
Quan điểm hoàn thiện quy định của pháp luật về chủ thể buộc tội
115
trong tố tụng hình sự
4.2.
Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về chủ
122
thể buộc tội
4.3.
Một số giải pháp khác
139
KẾT LUẬN
148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
151
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
152
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
: Bộ luật hình sự
BLTTHS
: Bộ luật tố tụng hình sự
CQĐT
: Cơ quan điều tra
ĐTV
: Điều tra viên
HĐXX
: Hội đồng xét xử
KSV
: Kiểm sát viên
PLTTHS
: Pháp luật tố tụng hình sự
TNHS
: Trách nhiệm hình sự
TTHS
: Tố tụng hình sự
VKS
: Viện kiểm sát
VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Cho dù áp dụng mô hình tố tụng hình sự (TTHS) nào thì trong TTHS cũng
luôn tồn tại ba chức năng cơ bản: Buộc tội, gỡ tội (bào chữa) và xét xử. Vai trò của
các chủ thể được phân định theo các chức năng tố tụng. Việc phân định hợp lý thẩm
quyền của các chủ thể gắn với các chức năng cơ bản trong TTHS là điều kiện quan
trọng bảo đảm mục tiêu, hiệu quả của TTHS. Buộc tội là chức năng đầu tiên xuất
hiện trong xét xử làm phát sinh chức năng gỡ tội. Chức năng buộc tội đối lập với
chức năng gỡ tội, còn chức năng xét xử chính là đưa ra phương hướng giải quyết
mối quan hệ đối kháng, mâu thuẫn giữa hai chức năng này. Chức năng buộc tội do
chủ thể buộc tội thực hiện nhằm giải quyết vụ án, bảo vệ lợi ích của nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Thể chế hóa các yêu cầu cải cách tư pháp hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự
(BLTTHS) năm 2003, nay là BLTTHS 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã
có những sửa đổi, bổ sung quan trọng, trong đó có các quy định liên quan đến chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chủ thể buộc tội nhằm nâng cao chất lượng hoạt
động buộc tội với mục tiêu mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời, xử lý
nghiêm minh, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo đảm quyền
con người, quyền công dân trong TTHS.
Thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật tố tụng hình sự (PLTTHS) về
chủ thể buộc tội đã phát huy hiệu lực, hiệu quả của hoạt động tố tụng, đấu tranh
phòng, chống tội phạm, bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền của người tham gia tố
tụng, nhất là quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo. Tuy nhiên, bên cạnh đó,
thực tiễn quy định về chủ thể buộc tội đã và đang bộc lộ một số hạn chế nhất định so
với thực tiễn và bất cập so với yêu cầu cải cách tư pháp của nước ta hiện nay như:
chưa phân định rõ các chức năng buộc tội, xét xử nên chưa phát huy hết sức mạnh
của từng chủ thể tiến hành tố tụng; các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn cũng như
mối quan hệ giữa các chủ thể tiến hành tố tụng chưa phù hợp; việc phân định thẩm
quyền hành chính với thẩm quyền tố tụng chưa rõ ràng nên chưa phát huy được tính
1
sáng tạo, chủ động của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (điều tra viên
(ĐTV), kiểm sát viên (KSV), Thẩm phán); một số tư tưởng pháp lý mới, tiến bộ
chưa được nghiên cứu, tiếp thu đầy đủ vào trong BLTTHS. Những vướng mắc, bất
cập nêu trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng, hiệu quả hoạt động buộc tội
như tình trạng làm oan người vô tội, bỏ lọt tội phạm hoặc vi phạm pháp luật trong
việc bắt, giam, giữ; nhiều trường hợp bị khởi tố, điều tra, truy tố nhưng tòa tuyên
không phạm tội… Do đó, hướng đến việc cần phải xây dựng nền tư pháp trong sạch,
vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ
nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà
trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao...; đến
việc phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư
pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp theo hướng tăng quyền và trách nhiệm cho
điều tra viên, kiểm sát viên và thẩm phán để họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ;
Nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết
định tố tụng của điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán... Tăng cường trách nhiệm
công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra [35].
Bên cạnh đó, khi tham gia nhiều điều ước quốc tế về đấu tranh phòng,
chống tội phạm nói chung, về thủ tục TTHS nói riêng, Nhà nước ta đã có nhiều cam
kết về cải cách thủ tục TTHS. Điều này tất yếu đòi hỏi các thủ tục TTHS của Việt
Nam, trong đó có các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chủ thể buộc
tội phải có những điều chỉnh thích hợp để thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết trong
các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Để đạt được các yêu cầu, nhiệm vụ nêu trên, việc lựa chọn, nghiên cứu đề
tài "Chủ thể buộc tội trong tố tụng hình sự" làm luận án tiến sĩ luật học của nghiên
cứu sinh là rất cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong tiến trình cải cách tư
pháp và hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục tiêu
Mục tiêu nghiên cứu của luận án cần phải đạt được là làm rõ những vấn đề
lý luận, thực tiễn của hoạt động buộc tội có liên quan đến chủ thể buộc tội; đưa ra
2
được những nhận định, kết luận về những tồn tại, thiếu sót và những nguyên nhân
làm phát sinh những tồn tại, thiếu sót này, để từ đó đưa ra những đề xuất về những
giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động buộc tội của chủ thể buộc tội, góp phần hoàn
thiện hệ thống pháp luật tố tụng hình sự để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống
tội phạm, bảo vệ lợi ích của nhà nước, xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân.
2.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục tiêu nêu trên, luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ được một số khái niệm, cơ sở và những biểu hiện của chủ thể buộc
tội trong tố tụng hình sự; cơ chế hoạt động của chủ thể buộc tội; nội dung hoạt động
của chủ thể buộc tội trong các giai đoạn tố tụng của TTHS (chủ thể buộc tội là các
cơ quan và những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong giai đoạn khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử);
- Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của chủ thể buộc tội trong lịch sử và hiện tại của TTHS;
- Đánh giá hiệu quả hoạt động của chủ thể buộc tội trong thực tiễn thi hành
pháp luật TTHS, trong đó nêu được những ưu điểm, cũng như những tồn tại, hạn
chế, thiếu sót và nguyên nhân gây nên tình trạng này; trên cơ sở đó đưa ra các đề
xuất, kiến nghị hoàn thiện các quy định về chủ thể buộc tội trong PLTTHS và các
giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của chủ thể buộc tội tại Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận về chủ thể buộc
tội và thực tiễn hoạt động của chủ thể buộc tội tại Việt Nam. Trong đó, thực tiễn của
chủ thể buộc tội bao gồm: Các quy định của PLTTHS về các chủ thể có hoạt động
buộc tội qua các giai đoạn lịch sử Việt Nam; việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn,
cũng như thực tiễn thi hành PLTTHS của các cơ quan và những người có thẩm
quyền tố tụng có chức năng buộc tội; so sánh, đối chiếu với chủ thể buộc tội theo mô
hình TTHS của một số nước trên thế giới như Vương quốc Anh, Hợp chủng quốc
Hoa Kỳ, Cộng hòa Liên bang Đức và Cộng hòa Pháp... nhằm phát hiện những điểm
3
giống và khác nhau để từ đó đưa ra những đề xuất, giải pháp nâng cao hiệu quả của
hoạt động buộc tội tại Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ một luận án tiến sĩ luật học, tác giả chỉ tập trung nghiên
cứu về hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chủ thể buộc tội là
cơ quan điều tra (CQĐT), cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra, Viện kiểm sát (VKS). Luận án không nghiên cứu chủ thể buộc tội với tư
cách tham gia tố tụng là bị hại (trong các vụ án được khởi tố vụ án theo yêu cầu của
bị hại) hoặc nguyên đơn dân sự.
Về phạm vi không gian và thời gian: Luận án nghiên cứu chủ thể buộc tội trong
PLTTHS Việt Nam hiện hành cũng như việc thực tiễn áp dụng các quy định này trên
lãnh thổ Việt Nam trong phạm vi từ khi thi hành BLTTHS năm 2003 đến năm 2018.
4. Phương pháp nghiên cứu của luận án
Luận án nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về
cải cách tư pháp, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật và xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tác giả luận án đã vận dụng các nguyên lý của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để phân tích và làm sáng tỏ các nội
dung nghiên cứu. Luận án được nghiên cứu trên cơ sở các phương pháp nghiên cứu
khác nhau để giải quyết những vấn đề đặt ra đối với luận án như: phương pháp quy
nạp, diễn dịch, phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, phương pháp
tọa đàm, trao đổi chuyên gia và phương pháp nghiên cứu điển hình. Trong đó:
- Phương pháp khảo sát, thu thập tài liệu, số liệu dựa trên báo cáo tổng kết
định kỳ hàng năm và các chuyên đề hồ sơ tài liệu về các vụ án hình sự, vụ việc giải
quyết nguồn tin về tội phạm;
- Phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh để nhận định những vấn đề
mang tính đại diện về thực trạng áp dụng, thi hành pháp luật về chủ thể buộc tội
trong TTHS; quy định về chủ thể buộc tội trong TTHS Việt Nam và pháp luật một
số nước điển hình trên thế giới theo các mô hình tố tụng;
4
- Phương pháp chuyên gia, phỏng vấn, tọa đàm trao đổi ý kiến với lãnh đạo
chủ chốt, cán bộ trong và ngoài ngành có bề dày kinh nghiệm trong chỉ đạo, thực
hiện hoạt động buộc tội trong các vụ án hình sự…
5. Những đóng góp mới của luận án
Đây là công trình chuyên khảo trong khoa học pháp lý Việt Nam ở cấp độ luận
án tiến sĩ nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống về chủ thể buộc tội trong TTHS. Có
thể xem những nội dung sau đây là đóng góp mới về mặt khoa học của luận án:
Thứ nhất, làm rõ khái niệm buộc tội, chủ thể buộc tội trong TTHS; so sánh
chức năng, nhiệm vụ của chủ thể buộc tội với chức năng, nhiệm vụ chủ thể gỡ tội và
chủ thể xét xử trong TTHS; phân loại chủ thể buộc tội và hoạt động của chủ thể
buộc tội trong TTHS; nghiên cứu các quy định về chủ thể buộc tội theo mô hình
TTHS của một số nước trên thế giới và chỉ ra những giá trị có thể vận dụng ở Việt
Nam; phân tích sự hình thành và phát triển các quy định về chủ thể buộc tội trong
lịch sử PLTTHS Việt Nam từ năm 1945 đến nay.
Thứ hai, phân tích, đánh giá đầy đủ, có hệ thống các quy định về chủ thể
buộc tội trong PLTTHS Việt Nam hiện nay, thực trạng áp dụng các quy định này tại
Việt Nam; chỉ ra những ưu điểm, kết quả đã đạt được cũng như những vi phạm, hạn
chế trong thực tiễn áp dụng các quy định về chủ thể buộc tội và nguyên nhân của
những vi phạm, hạn chế đó.
Thứ ba, luận giải, làm rõ các yêu cầu đối với việc hoàn thiện pháp luật tố
tụng hình sự về chủ thể buộc tội; đề xuất, kiến nghị hoàn thiện các quy định về chủ
thể buộc tội trong TTHS và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng ở Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đây là công trình nghiên cứu chuyên biệt, thấu đáo, cơ bản những vấn đề lý
luận và thực tiễn về chủ thể buộc tội trong TTHS. Do đó, kết quả nghiên cứu của
luận án sẽ bổ sung, phát triển hệ thống lý luận về tư pháp hình sự như: Khái niệm
buộc tội, chủ thể buộc tội trong TTHS; so sánh chức năng, nhiệm vụ của chủ thể
buộc tội với chức năng, nhiệm vụ chủ thể gỡ tội và chủ thể xét xử trong TTHS; phân
5
loại chủ thể buộc tội và hoạt động của chủ thể buộc tội trong TTHS với những đóng
góp về mặt khoa học đã nêu ở phần trên.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu và các đề xuất, kiến nghị trong luận án sẽ là cơ sở cho
việc hoàn thiện các quy định về chủ thể buộc tội trong PLTTHS Việt Nam theo hướng
khắc phục những bất cập, hạn chế trong pháp luật hiện hành, thiết kế các quy định
về chủ thể buộc tội hợp lý, theo xu hướng chung của các nước trên thế giới, phù hợp
với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của luận án cũng là cơ sở đề
ra các giải pháp tăng cường trách nhiệm của chủ thể buộc tội, nâng cao chất lượng,
hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm quyền con người trong TTHS.
Các giải pháp mà luận án đưa ra được dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn,
do đó, có giá trị tham khảo thiết thực đối với các nhà lập pháp hình sự trong quá
trình nghiên cứu, hoàn thiện PLTTHS, cũng như đối với các cán bộ làm công tác
thực tiễn trong việc tìm hiểu, thực hiện các quy định của pháp luật về chủ thể buộc
tội. Đồng thời, luận án sẽ là một tài liệu tham khảo có giá trị trong việc nghiên cứu
và giảng dạy về PLTTHS tại các cơ sở đào tạo cử nhân luật cũng như tại các cơ sở
đào tạo nghề luật về chủ thể buộc tội của các ngành Công an, Kiểm sát, Tòa án và là
tài liệu bổ ích cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
Chương 2: Một số vấn đề chung về buộc tội và chủ thể buộc tội trong tố
tụng hình sự.
Chương 3: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về chủ thể buộc tội và
thực tiễn thi hành tại Việt Nam.
Chương 4: Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của chủ thể buộc tội
theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Chủ thể buộc tội có vai trò quan trọng trong thủ tục giải quyết vụ án hình sự
nên đã dành được sự quan tâm của các chuyên gia, các nhà khoa học và những
người làm công tác thực tiễn. Ở Việt Nam, thời gian qua đã có một số công trình
nghiên cứu giải quyết các khía cạnh khác nhau liên quan đến chủ thể buộc tội trong
TTHS của các tác giả như:
Một số đề tài nghiên cứu khoa học như: Đề tài khoa học cấp bộ "Những cơ
sở lý luận và thực tiễn của việc sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đáp ứng
yêu cầu cải cách tư pháp" [44], do Tiến sĩ Đỗ Văn Đương làm Chủ nhiệm (bảo vệ
năm 2007 tại Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tối cao, đã phân tích về chức năng,
nhiệm vụ của CQĐT, VKS trong TTHS; phân định thẩm quyền hành chính và quyền
hạn tố tụng của các chức danh tư pháp trong CQĐT, VKS; trên cơ sở đó đề xuất sửa
đổi quy định về tổ chức và hoạt động của CQĐT, về chức năng của VKS, về nhiệm
vụ, quyền hạn của người đứng đầu CQĐT, VKS, ĐTV và KSV. Tuy nhiên, đề tài khoa
học này nghiên cứu những vấn đề chung nhất về hoạt động của các cơ quan có thẩm
quyền tố tụng, người có thẩm quyền tố tụng trong các giai đoạn tố tụng nhằm mục tiêu
sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTHS 2003. Những nội dung có liên quan đến chủ
thể buộc tội cũng đã được đề cập trong đề xuất xây dựng các quy phạm PLTTHS,
nhưng chỉ những vấn đề có liên quan đến hoạt động tố tụng của các chủ thể tố tụng
có liên quan đến quá trình tố tụng, mà không đi sâu về chủ thể buộc tội. Đề tài khoa
học cấp bộ "Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp theo yêu cầu của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay" [81], do Tiến sĩ Trần Đình Thắng làm
Chủ nhiệm, thực hiện năm 2007 tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Đề
tài khoa học này đã phân tích, làm rõ cơ sở lý luận của việc xây dựng đội ngũ cán bộ
tư pháp theo yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; đánh giá
7
thực trạng và đề xuất các giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp hiện nay. Đề tài
không nghiên cứu trực diện những vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ thể buộc tội
trong TTHS. Tuy nhiên, một số kết quả nghiên cứu trong đề tài có liên quan đến
luận án như khái niệm, đặc điểm, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn, những yêu cầu của
đội ngũ cán bộ tư pháp và tính tất yếu, khách quan của việc đổi mới đội ngũ cán bộ
tư pháp theo yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp bộ "Phân định thẩm quyền quản lý hành chính với thẩm
quyền tố tụng của người đứng đầu cơ quan tiến hành tố tụng và việc tăng quyền
hạn, trách nhiệm của điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán theo yêu cầu cải cách
tư pháp" [59], do Tiến sĩ Vũ Văn Mộc làm Chủ nhiệm (bảo vệ năm 2008 tại
VKSND tối cao); đã tập trung nghiên cứu các vấn đề về thẩm quyền quản lý hành
chính và thẩm quyền tố tụng của những người có chức danh quản lý, của ĐTV, KSV
và của Thẩm phán thuộc hệ thống Công an nhân dân, VKSND, Tòa án nhân dân.
Kết quả nghiên cứu đã làm rõ, phân biệt thẩm quyền quản lý hành chính với thẩm
quyền TTHS; đánh giá thực trạng thực hiện thẩm quyền và trách nhiệm của ĐTV,
KSV, Thẩm phán, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp và kiến nghị nhằm tăng thẩm
quyền và trách nhiệm của ĐTV, KSV, Thẩm phán. Đề tài không tập trung nghiên
cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ thể buộc tội trong TTHS. Tuy nhiên,
một số nội dung trong đề tài đề cập một vài khía cạnh nhất định về chủ thể buộc tội
trong CQĐT, VKS.
Đề án "Tổ chức lại hệ thống cơ quan điều tra theo hướng thu gọn đầu mối" [41],
do Đảng ủy Công an Trung ương xây dựng (trình Bộ Chính trị năm 2012), đã nghiên
cứu, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức, hoạt động của các CQĐT
ở nước ta; trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp tổ chức lại CQĐT khoa học, phù hợp
với thực tiễn theo định hướng của Đảng về chiến lược cải cách tư pháp, góp phần
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm
an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Tuy nhiên, Đề án không nghiên cứu
chuyên sâu những vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ thể buộc tội trong TTHS, trong
đó có CQĐT. Đề án "Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam" do Ban cán sự Đảng
8
VKSND tối cao xây dựng (trình Bộ Chính trị năm 2012), đã nghiên cứu, làm rõ các
yếu tố hợp thành mô hình TTHS, trong đó có các nội dung về vị trí, vai trò của chủ
thể tiến hành tố tụng và chủ thể tham gia tố tụng; lịch sử hình thành và phát triển,
đánh giá tính hiệu quả cũng như những hạn chế, bất cập của mô hình TTHS ở nước
ta; nghiên cứu, tìm hiểu những đặc điểm, ưu điểm, hạn chế của các mô hình TTHS
điển hình trên thế giới; làm rõ các yêu cầu cải cách mô hình TTHS đề ra trong các
nghị quyết của Đảng và đề xuất phương hướng hoàn thiện mô hình TTHS đáp ứng yêu
cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đề án "Nghiên cứu
chuyển Viện kiểm sát thành Viện công tố" [110] do Ban cán sự Đảng VKSND tối cao
xây dựng (trình Bộ Chính trị năm 2012), đã làm rõ lịch sử hình thành và phát triển,
đánh giá tính hợp lý, hiệu quả cũng như những hạn chế, bất cập của thiết chế Viện công
tố/VKS ở nước ta qua các thời kỳ; nghiên cứu, tìm hiểu VKS, Viện công tố ở một số
nước điển hình trên thế giới; sự khác biệt giữa mô hình VKS và mô hình Viện công tố,
cũng như xu hướng cải cách VKS, Viện công tố ở các nước, trong đó, chú trọng lý giải
về tính phù hợp, sự tương thích với hệ thống chính trị, tổ chức bộ máy nhà nước, cũng
như các điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể ở các nước; trên cơ sở đó đề xuất lựa chọn mô
hình VKS/Viện công tố phù hợp yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, cải cách tư pháp theo tinh thần các văn kiện của Đảng.
Luận án tiến sĩ Luật học: "Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật Tố tụng
hình sự Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp" [45], của Nguyễn Duy Giảng (bảo
vệ năm 2014 tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội), đã nghiên cứu chuyên sâu,
toàn diện, có hệ thống về chủ thể tiến hành TTHS, bao gồm CQĐT, Cơ quan được
giao tiến hành một số hoạt động điều tra, VKS, Tòa án và những người có nhiệm vụ,
thẩm quyền tố tụng trong các cơ quan này ở Việt Nam, trong đó đã làm rõ một số
vấn đề lý luận về chủ thể tiến hành tố tụng trong luật TTHS Việt Nam, đánh giá thực
trạng PLTTHS Việt Nam giai đoạn trước khi ban hành BLTTHS năm 2015 và thực
tiễn áp dụng tại Việt Nam. Luận án "Quyền công tố ở Việt Nam" [49], của Lê Thị
Tuyết Hoa (bảo vệ năm 2002 tại Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật), đã
nghiên cứu, làm rõ khái niệm, đối tượng, phạm vi, nội dung của quyền công tố và
9
thực hành quyền công tố trong TTHS. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm
góp phần nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố ở Việt Nam dưới góc độ hoàn
thiện pháp luật và tổ chức thực tiễn. Luận án có nghiên cứu lịch sử quyền công tố,
mối quan hệ giữa công tố và tư tố; đánh giá thực trạng tổ chức thực hành quyền công tố
ở Việt Nam trước năm 2002, tìm ra nguyên nhân của những thành tích đạt được và
những tồn tại, hạn chế; trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp về hoàn thiện pháp
luật và tổ chức thực tiễn để nâng cao chất lượng hoạt động công tố của VKS trong
tình hình mới. Luận án "Chức năng xét xử trong tố tụng hình sự Việt Nam" [13], của
Lê Tiến Châu (bảo vệ năm 2008 tại Viện Nhà nước và Pháp luật), phân tích những
vấn đề lý luận về chức năng TTHS như: khái niệm, đặc điểm, vị trí chức năng xét
xử; mối quan hệ giữa chức năng xét xử với chức năng gỡ tội, buộc tội; nhấn mạnh
việc phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng chủ thể để khắc
phục tình trạng lẫn lộn chức năng, vượt quá hoặc không làm hết chức năng của các
cơ quan tiến hành tố tụng trong thực tiễn tố tụng ở nước ta. Liên quan trực tiếp đến
đề tài nghiên cứu là luận văn thạc sĩ của Đặng Văn Phượng (2016) “Chủ thể buộc
tội trong tố tụng hình sự Việt Nam”, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu khái quát
những vấn đề về chủ thể buộc tội như phân loại, địa vị pháp lý, thực trạng và giải
pháp về hoạt động của chủ thể buộc tội tại Việt Nam hiện nay, từ đó tác giả đưa ra
một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS Việt Nam ở góc
độ luận văn thạc sĩ; gần đây nhất là luận án tiến sĩ “Chủ thể buộc tội trong tố tụng
hình sự Việt Nam” của Lê Thị Thúy Nga (bảo vệ năm 2019 tại Trường Đại học Luật
Hà Nội), đã nghiên cứu, đưa ra khái niệm chủ thể buộc tội trong TTHS Việt Nam,
đối tượng, phạm vi, nội dung và đặc điểm của chủ thể buộc tội theo pháp luật TTHS
Việt Nam. Trên cơ sở đánh giá thực tiễn hoạt động buộc tội ở Việt Nam, tác giả đã
đề xuất một số nhóm giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
chủ thể buộc tội. Tuy nhiên, luận án chỉ nghiên cứu chủ thể buộc tội trong phạm vi
pháp luật TTHS Việt Nam và chủ yếu tập trung đánh giá thực trạng pháp luật Việt
Nam mà không nghiên cứu tổng thể vấn đề lý luận, nhận thức khoa học về chủ thể
buộc tội trong tố tụng hình sự của các mô hình tố tụng hình sự, từ đó làm sáng tỏ các
10
điểm tương đồng và khác biệt, những điểm tích cực, hạn chế khi so sánh, đối chiếu
và rút kinh nghiệm cho Việt Nam.
Một số cuốn sách chuyên khảo đã được phát hành có liên quan đến tố tụng
hình sự Việt Nam như: cuốn sách "Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt
Nam" [98], của GS.TSKH Đào Trí Úc (Nxb Khoa học xã hội, năm 2001), đã phân
tích hệ thống tư pháp - một hệ thống thống nhất của quá trình tố tụng dẫn đến xét xử
và phán quyết của Tòa án. Đối với hệ thống tư pháp hình sự thì mối liên hệ bên
trong là mối liên hệ giữa các khâu và các chức năng phát hiện điều tra, truy tố, xét
xử và giáo dục, cải tạo phạm nhân. Tính hệ thống đòi hỏi từng giai đoạn tố tụng phải
được xét trong một chuỗi các bước trước và sau cố định để đạt được mục tiêu cuối
cùng là nhằm phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành
vi phạm tội, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Để đạt được mục
tiêu thì các chức năng phải được phân định một cách nghiêm ngặt để bảo đảm tính
độc lập tương đối của nó và nhằm vào một chức năng trung tâm, khâu trung tâm của
toàn bộ quá trình TTHS. Cuốn sách "Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của
việc đổi mới thủ tục tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp" [86], của TS. Lê
Hữu Thể, TS. Đỗ Văn Đương và ThS. Nguyễn Thị Thủy đồng chủ biên (Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, năm 2013), đã hệ thống hóa toàn bộ những vấn đề cốt lõi, cơ
bản từ lý luận đến thực tiễn liên quan đến các thủ tục TTHS; từ đó phân tích, đánh
giá tính hiệu quả, khả năng áp dụng PLTTHS hiện hành; đề xuất các giải pháp và
hướng sửa đổi, bổ sung nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
Cuốn sách "Những nội dung cơ bản của các đạo luật mới về tư pháp hình sự" [63],
của tập thể tác giả do TS. Trần Công Phàn chủ biên (Nxb Thông tin và Truyền thông,
năm 2017), đã phân tích những nội dung cơ bản của các đạo luật mới về tư pháp,
trong đó có các quy định về bảo vệ quyền con người, chức năng, nhiệm vụ của cơ
quan tiến hành tố tụng, cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra.
Trên các tạp chí chuyên ngành luật có đăng rất nhiều các bài báo khoa học
liên quan đến toàn bộ quá trình tố tụng hình sự Việt Nam như: Bài viết "Hoàn thiện
các quy định về thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong tố tụng hình sự" [79], của
Hoàng Thị Sơn, đăng trên Tạp chí Luật học (số 07, năm 2008) đã làm rõ hoạt động
11
thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ có vai trò quan trọng trong việc xác định sự
thật khách quan của vụ án hình sự để cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật. Hoạt động này được tiến hành bởi các chủ thể khác
nhau với những biện pháp khác nhau tùy theo từng giai đoạn tố tụng. Về cơ bản
chứng cứ do ĐTV thu thập ở giai đoạn điều tra. Trong giai đoạn truy tố và giai đoạn
xét xử hoạt động thu thập chứng cứ chỉ mang tính bổ sung. Trong giai đoạn điều tra và
giai đoạn truy tố, việc đánh giá và sử dụng chứng cứ được tiến hành độc lập bởi các chủ
thể. Tại phiên tòa, thông qua việc xét hỏi và tranh luận, Hội đồng xét xử (HĐXX)
trên cơ sở đề nghị của KSV và những người tham gia tố tụng theo quy định của pháp
luật tiến hành nghị án, thảo luận và biểu quyết theo đa số từng vấn đề để đưa ra phán
quyết cuối cùng nhằm giải quyết vụ án. Bài viết "Một số vấn đề lý luận về chức
năng buộc tội trong tố tụng hình sự và vấn đề sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003 liên quan đến chức năng buộc tội" [90], của Nguyễn Trương Tín, đăng
trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật (số 08 năm 2009) đã nghiên cứu, làm rõ khái
niệm, nội dung, tính chất, thời điểm bắt đầu, kết thúc và chủ thể của chức năng buộc
tội; trên cơ sở đó Tác giả đưa ra một số kiến nghị mang tính định hướng sửa đổi, bổ
sung BLTTHS năm 2003 liên quan đến chức năng buộc tội. Bài viết "Cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015" [20], của PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí trong cuốn sách
"Những nội dung mới trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015" do PGS.TS. Nguyễn
Hòa Bình Chủ biên (Nxb Chính trị quốc gia, năm 2016), đã phân tích, làm rõ những
sửa đổi, bổ sung trong BLTTHS năm 2015 về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng (gồm cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra), người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng (gồm người tiến hành tố tụng và người được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra). Bài viết: "Đổi mới tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều
tra đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp" [1], của GS.TS. Nguyễn Ngọc Anh trong số
chuyên đề cải cách tư pháp và hoạt động tư pháp, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, năm
2016 đề nghiên cứu, chỉ rõ trong Luật tổ chức CQĐT hình sự có nhiều quy định
nhằm đổi mới tổ chức và hoạt động của các CQĐT, đáp ứng yêu cầu cải cách tư
12
pháp. Bài viết "Một số vấn đề về chức năng buộc tội" của tác giả Lê Tiến Châu (Tạp
chí Khoa học pháp lý, số 03, 2003) đã nghiên cứu về các chức năng cơ bản trong
TTHS và đưa ra các nhận định, kết luận, trong đó có đề cập đến chức năng, tổ chức
hoạt động của chủ thể buộc tội trong PLTTHS Việt Nam.
Bên cạnh đó còn có các giáo trình luật TTHS của các trường: Trường Đại
học Luật Hà Nội, Đại học Khoa học Xã hội và nhân văn Hà Nội, Đại học Cảnh sát,
Đại học An Ninh có phân tích về chủ thể buộc tội theo Luật TTHS hiện hành như:
"Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam" do PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí, Khoa
Luật Đại học quốc gia Hà Nội chủ biên (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2013);
"Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam" (tái bản lần thứ 4 có sửa đổi, bổ sung) do
PGS.TS Hoàng Thị Minh Sơn Trường Đại học Luật Hà Nội chủ biên (Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội, năm 2008); "Giáo trình tư pháp hình sự" do GS.TSKH Lê Văn
Cảm chủ biên (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2009). Trong công trình nghiên
cứu của mình, các nhà nghiên cứu tập trung chủ yếu vào vấn đề nhiệm vụ, quyền
hạn và trách nhiệm của các chủ thể tiến hành tố tụng trong CQĐT, Cơ quan được
giao tiến hành một số hoạt động điều tra và VKS trong việc thực hiện chức năng
buộc tội trong TTHS; đưa ra những nội dung cơ bản về thủ tục TTHS tại Việt Nam,
trong đó có khái niệm, chức năng, nhiệm vụ và kỹ năng hoạt động của các chủ thể
tiến hành hoạt động buộc tội trong TTHS.
Các bài viết và các giáo trình nêu trên có phạm vi nghiên cứu hẹp, chỉ tập trung
vào các quy định và thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2003, các văn bản hướng dẫn thi
hành cũng như các quy định mới của BLTTHS năm 2015 về cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà chưa có công trình nào
nghiên cứu toàn diện và đầy đủ những vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ thể buộc tội
trong điều kiện cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Tuy nhiên các công trình khoa học và bài viết trên đều có giá trị to lớn về lý luận và
thực tiễn, là tài liệu tham khảo bổ ích cho quá trình nghiên cứu, đề xuất trong luận án này.
1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Việc nghiên cứu chủ thể buộc tội trong TTHS nhằm thiết kế hệ thống các
quy phạm pháp luật về chủ thể này, tạo cơ sở pháp lý nâng cao hiệu lực, hiệu quả
13
hoạt động của chủ thể này trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm xử
lý nghiêm minh, kịp thời, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đồng thời bảo đảm
tốt hơn quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự đã dành được sự quan tâm nhất định của một số học giả ở các
quốc gia trên thế giới. Có thể kể đến:
Tài liệu lớp chuyên đề về nghiệp vụ công tố của ông Jean-Jacques Bosc,
Viện trưởng Viện công tố, bên cạnh Tòa án sơ thẩm có thẩm quyền rộng Havre Cộng
hòa Pháp của Nhà Pháp luật Việt - Pháp, ngày 6-7/11/2016 giới thiệu vị trí, vai trò,
chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Viện công tố Cộng hòa Pháp, trong đó nêu rõ
chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của Viện công tố trong lĩnh vực hình sự là thực hiện
quyền khởi tố và công tố. Viện trưởng Viện công tố bên cạnh Tòa sơ thẩm có nhiệm vụ
yêu cầu tiến hành điều tra và phát hiện hành vi phạm tội. Viện công tố phối hợp, kiểm
tra và chỉ đạo các hoạt động của cảnh sát tư pháp. Trước khi tiến hành gia đoạn điều tra
trước tòa, Viện công tố phải tiến hành điều tra sơ bộ, sau đó Viện công tố có nhiệm vụ
khởi tố bị can, theo dõi hoạt động điều tra của Tòa án và tham gia với tư cách là một
bên trong vụ án. Trong phiên tòa, Viện công tố công bố và đề nghị áp dụng hình phạt.
Tác giả Philip.L.Reichel có Chuyên đề "Tư pháp hình sự so sánh" [114],
trong đó phân tích, so sánh, đưa ra sự khác biệt về lĩnh vực TTHS giữa các truyền
thống pháp luật, cụ thể là hệ tố tụng thẩm vấn nhấn mạnh vào giai đoạn thẩm tra của
quá trình tố tụng nên việc điều tra thận trọng sẽ bảo đảm xác định chính xác tội
phạm, còn hệ thống tranh tụng lại chú trọng vào giai đoạn xử án với các quy tắc
nghiêm ngặt về chứng cứ để tin tưởng rằng bị cáo được xét xử công bằng. Từ đó đặt
ra những yêu cầu đối với mỗi nước trong việc hoàn thiện hệ thống tư pháp hình sự
của mình, trong đó có hoạt động của chủ thể buộc tội, phù hợp với những yêu cầu
của pháp luật quốc gia cũng như pháp luật quốc tế.
Tác giả Craig M. Bradley có công trình "Criminal procedure a worldwide
study - Carolina Academic Press - Durham", Durham, North Carolina, năm 1999, tái
bản năm 2007 [123], trong đó phân tích, làm rõ địa vị pháp lý của các chủ thể tiến hành
tố tụng, trên cơ sở đó đưa ra các xu hướng cải cách địa vị pháp lý và thủ tục tố tụng của
các chủ thể thực hiện nhiệm vụ buộc tội trong TTHS ở các quốc gia này trong tương lai.
14
Tác giả Despina Kyprianou có Báo cáo phân tích so sánh hệ thống cơ quan
công tố "Comparative Analysis of Prosecution System (Part II): The Role of Prosecution
Services in Investigation and Prosecuion Principles and Policies, Cyprus and European
Law Review", trong đó đã phân tích vai trò của cơ quan công tố trong hoạt động điều
tra, những nguyên tắc và chính sách công tố trong hoạt động điều tra tại các quốc gia
theo truyền thống luật án lệ và các quốc gia theo truyền thống pháp luật châu Âu lục
địa [125]. Nghiên cứu sinh Tony Paul Marguery có Luận án tiến sĩ "The Unity and
Diversity of Public Prosecution Service in Europe" (Sự thống nhất và đa dạng của các
cơ quan công tố ở Châu âu) [134] đã nghiên cứu về sự thống nhất và đa dạng của
các cơ quan công tố thực hiện chức năng buộc tội tại châu Âu, gồm các nước: Pháp,
Hà Lan, Ba Lan và Cộng hòa Séc. Jorg - Martin Jehle có Báo cáo tham luận "The
Funtion of Public Prosecution from a Eruopean Comparative Perspective - How
International Research can contribute to the development of criminal justice" (Chức
năng của cơ quan công tố từ góc nhìn so sánh tại châu Âu - các nghiên cứu quốc tế
có thể đóng góp cho sự phát triển tư pháp hình sự như thế nào) [130] tại Hội nghị
UNDP-POGAR tại Cairo ngày 17-18/5/2005. Trong các công trình này, các tác giả
có đề cập đến chức năng công tố, buộc tội của Viện công tố các nước châu Âu
nhưng không nghiên cứu bản chất, hình thức của chức năng buộc tội và địa vị pháp
lý của các chủ thể buộc tội trong TTHS.
Tác giả Ariane Amson có bài viết "Sharing experience from France on
reforming Criminal Procedure Code" (Chia sẻ kinh nghiệm từ Pháp về đổi mới Bộ
luật tố tụng hình sự) [121], trong đó nghiên cứu, làm rõ vai trò, vị trí, thẩm quyền của
Viện công tố/VKS trong các giai đoạn khác nhau của TTHS (từ giai đoạn nhận được tố
giác, tin báo về tội phạm đến khi thi hành án); thẩm quyền và trách nhiệm của ĐTV,
trợ lý điều tra, KSV/công tố viên, trợ lý công tố viên, thẩm phán, thư ký tòa án.
Tác giả Marco Fabri có Báo cáo nghiên cứu về kinh nghiệm đổi mới Bộ luật
tố tụng hình sự ở I-ta-li-a "Sharing experience from Italy on reforming Criminal
Procedure Code" [131], trong đó nêu rõ hoạt động công tố là công cụ chính của xã
hội trong việc thi hành các biện pháp trừng phạt những hành vi phạm tội và sự tương
tác của nó với quyền xét xử. Một cơ quan công tố phải có khả năng đưa ra một quyết
15
định mang tính trung lập, phi chính trị, không độc đoán về việc áp dụng luật hình sự
và chính sách đối với các vụ án cụ thể. Chức năng công tố phải phù hợp với bối cảnh
xã hội và chính trị của đất nước, những chức năng này nhất thiết phải hoà hợp với
quản trị Tòa án và cơ cấu chính trị. Không có "một mô hình tốt nhất" về việc thiết kế
các chức năng công tố, mà phải cân bằng giữa việc chống tội phạm và đảm báo tính
công bằng trong các hoạt động.
Tác giả Richard S. Shine có bài viết Chia sẻ kinh nghiệm từ Hoa Kỳ về đổi
mới Bộ luật tố tụng hình sự - Sharing experience from the United States of America
on reforming Criminal Procedure Code [133], trong đó chỉ rõ ở Hoa Kỳ, công tố viên
không có thẩm quyền giám sát các CQĐT. Nếu có hành vi sai trái trong một CQĐT
thì việc điều tra thường do một đơn vị đặc biệt trong chính CQĐT đó hoặc một
CQĐT khác tiến hành. Nếu phát hiện có vi phạm hình sự, công tố viên sẽ truy tố vụ
việc. Nếu phát hiện có vi phạm nhưng không phải trong lĩnh vực hình sự, chính
CQĐT đó sẽ kỷ luật ĐTV. Công tố viên không có vai trò gì trong quá trình kỷ luật
nội bộ đó. Thẩm quyền của công tố viên liên bang và vai trò chính thức trong việc
tiếp xúc với các CQĐT liên bang khá hạn chế. Công tố viên nhìn chung không có
vai trò gì trong việc khởi tố điều tra vụ án của CQĐT. Theo cách không chính thức,
khi có đề xuất của ĐTV, công tố viên có thể đưa ra những đề xuất, ví dụ như về tầm
quan trọng của việc tìm kiếm những nhân chứng nhất định, hoặc thực hiện những
bước điều tra nhất định để có được các chứng cứ hỗ trợ công tác truy tố vụ án.
Nhưng đây chỉ là những đề xuất không chính thức mà ĐTV không có nghĩa vụ phải
làm theo. Tuy nhiên, ĐTV thông thường sẽ làm theo các đề xuất của công tố viên
bởi vì ĐTV muốn có vụ án có thể truy tố được, và trong vụ án đó công tố viên sẽ
đồng ý công bố các cáo buộc tại tòa. Tuy vậy, có rất nhiều phương pháp điều tra
quan trọng mà CQĐT chỉ có thể sử dụng với sự hỗ trợ và tham gia chính thức của
công tố viên.
Tác giả Ekaterina Mishina có Báo cáo nghiên cứu về kinh nghiệm đổi mới
Bộ luật tố tụng hình sự ở Nga - Sharing experience from Russian Federation on
reforming Criminal Procedure Code [127], đã nghiên cứu, làm rõ sự khác biệt giữa
thẩm quyền quản lý hành chính và quyền tư pháp của giám đốc, phó giám đốc
16
CQĐT; viện trưởng, phó viện trưởng VKS; chánh án và phó chánh án; quyền hạn và
trách nhiệm của Dự thẩm viên, trợ lý dự thẩm, KSV, trợ lý KSV, Thẩm phán, thư ký
tòa án. Theo đó, KSV, ĐTV và Dự thẩm viên có nghĩa vụ thực hiện việc truy cứu
trách nhiệm hình sự (TNHS). Sau khi khởi tố vụ án hình sự, quyết định khởi tố vụ
án phải được gửi ngay cho KSV. Ở giai đoạn này, KSV có thể tiến hành thỏa thuận
hợp tác trước xét xử với người bị tình nghi/bị cáo. Ở giai đoạn khởi tố vụ án hình sự,
KSV phải chấp thuận một số hoạt động nhất định của ĐTV: khởi tố vụ án hình sự
đối với những tội được cho là các trường hợp công tố và tư tố, đình chỉ vụ án hình
sự, đình chỉ truy cứu TNHS trong trường hợp có sự ăn năn hối cải hoặc khi người bị
tình nghi bị cáo buộc một số tội danh kinh tế nhất định và đã bồi thường thiệt hại
gây ra. KSV là người có chức vụ và quyền hạn thực hiện việc truy cứu TNHS cũng
như kiểm sát hoạt động tố tụng của CQĐT ban đầu và CQĐT dự thẩm.
Tác giả Wolfgang Tiede có Báo cáo nghiên cứu về kinh nghiệm đổi mới Bộ
luật tố tụng hình sự ở U-crai-na - Sharing experience from Ukraine on reforming
Criminal Procedure Code [137], đã nghiên cứu, làm rõ vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn
của VKS trong các giai đoạn TTHS (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự).
Theo đó, các hoạt động điều tra trước khi xét xử chủ yếu được tiến hành bởi các
ĐTV, vai trò chung của công tố viên là giám sát việc tuân thủ pháp luật của ĐTV
thông qua việc đưa ra những hướng dẫn về tố tụng trong quá trình điều tra trước khi
xét xử. Ngoài ra, công tố viên còn có một số quyền và nghĩa vụ nhất định trong giai
đoạn điều tra trước khi xét xử. Nhiệm vụ và quyền hạn cơ bản của công tố viên
trong giai đoạn xét xử trước toà là tham gia vào việc xét xử, Tòa án sẽ hoãn việc xét
xử nếu vắng mặt công tố viên.
Ngoài các công trình nếu trên, chương trình phát triển của Liên hợp quốc đã
nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp tại 5 nước được lựa chọn
là Trung Hoa, Indonesia, Nhật Bản, Hàn Quốc và Liên bang Nga. Phó Giáo sư
Vivienne Bath, Đại học Tổng hợp Sydney và Phó Giáo sư Sarah Biddulph, Đại học
Tổng hợp Melbourne có Báo cáo nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của hệ thống
tư pháp Trung Quốc [22]; Tiến sĩ Simon Butt, Đại học Sydney có Báo cáo nghiên
cứu về tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp Indonesia [23]; Phó giáo sư Luke
17
- Xem thêm -