Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp dầu khí của...

Tài liệu Chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp dầu khí của việt nam giai đoạn 2010 2025

.DOC
96
192
121

Mô tả:

Kho¸ luËn tèt nghiÖp LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngành công nghiệp dầu khí là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Điều đó được xác định rõ: “Đất nước ta có nguồn tiềm năng dầu khí đáng kể ở thềm lục địa. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải tập trung cố gắng đến mức cao nhất để biến tiềm năng đó thành hiện thực, từng bước đưa dầu khí trở thành một ngành kinh tế kỹ thuật quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế trong những thập kỷ tới” (Nghị quyết 15, Bộ Chính trị, khóa VI). Đến nay, qua hơn 30 năm xây dựng và phát triển, ngành công nghiệp dầu khí của Việt Nam đã hoàn thành tốt hoạt động tìm kiếm, thăm dò và khai thác cũng như chế biến một số sản phẩm từ dầu khí nhằm đảm bảo an ninh năng lượng, xứng đáng là ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Những thành tựu lớn lao đó của ngành đạt được là nhờ phần đóng góp quan trọng của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài bởi chỉ có nguồn vốn này mới có thể đáp ứng những yêu cầu mang tính đặc thù của ngành công nghiệp dầu khí về vốn, công nghệ cũng như hợp tác quốc tế, nhất là đối với một nước đang phát triển như Việt Nam. “Chiến lược phát triển ngành Dầu khí Việt Nam đến 2015 và định hướng đến 2025” của Đảng và Nhà nước đã đặt ra mục tiêu “Phát triển ngành Dầu khí trở thành một ngành kinh tế - kỹ thuật quan trọng, đồng bộ, bao gồm tìm kiếm thăm dò, khai thác, vận chuyển, chế biến, tàng trữ, phân phối, dịch vụ và xuất, nhập khẩu. Xây dựng Tập đoàn Dầu khí mạnh, kinh doanh đa ngành trong nước và quốc tế”. Để đạt được mục tiêu to lớn đó, ngành dầu khí Việt Nam cần được đầu tư một lượng vốn rất lớn mà trong đó đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò vô cùng quan trọng. Vì vậy, việc đề ra chiến lược cụ thể nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp dầu khí cho 1 Kho¸ luËn tèt nghiÖp giai đoạn tương ứng 2010 - 2025 là vô cùng cấp thiết nhằm góp phần hiện thực hóa mục tiêu mà chiến lược trên đây đã đề ra. Với những lí do đó, em đã chọn đề tài “Chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp dầu khí của Việt Nam giai đoạn 2010 - 2025” làm đề tài nghiên cứu cho khóa luận tốt nghiệp của mình với hi vọng tìm hiểu, nâng cao hiểu biết và nghiên cứu sâu hơn về đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung, đặc biệt là sự cần thiết phải thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp dầu khí của Việt Nam nói riêng. Trên cơ sở đó mạnh dạn kiến nghị một số giải pháp cụ thể góp phần thực hiện những giải pháp cơ bản đặt ra trong chiến lược này. 2. Mục đích nghiên cứu - Hệ thống hóa lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài. - Nêu ra những đặc trưng cơ bản của ngành công nghiệp dầu khí từ đó phân tích tầm quan trọng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành công nghiệp dầu khí Việt Nam nhằm khai thác triệt để tiềm năng dầu khí dồi dào của Việt Nam, khẳng định vị trí mũi nhọn của ngành dầu khí trong nền kinh tế quốc dân và phục vụ cho công cuộc Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước. - Phân tích và đánh giá thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp dầu khí của Việt Nam từ trước đến nay. - Đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm thực hiện Chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp dầu khí của Việt Nam giai đoạn 2010-2025. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng: nghiên cứu khả năng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp dầu khí Việt Nam từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm 2 Kho¸ luËn tèt nghiÖp thực hiện chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp dầu khí của Việt Nam trong giai đoạn 2010 - 2025 - Phạm vi: Nghiên cứu hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp dầu khí Việt Nam kể từ năm 1987 khi Luật Đầu tư nước ngoài được ban hành cho đến nay được thay thế bằng Luật Đầu tư 2005. 4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu đề tài bao gồm phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh và đối chiếu. 5. Bố cục của khóa luận Ngoài mở đầu, kết luận, nội dung chính của đề tài kết cấu gồm 3 chương. Chương I. Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài và khái quát về ngành công nghiệp dầu khí của Việt Nam Chương II. Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp dầu khí của Việt Nam Chương III. Chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp dầu khí của Việt Nam giai đoạn 2010 - 2025 Tuy nhiên, do kiến thức, khả năng, kinh nghiệm và thời gian nghiên cứu còn hạn chế nên khoá luận không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo để khoá luận tốt nghiệp được hoàn thiện hơn. Đặc biệt, Em xin chân thành cảm ơn cô giáo-Thạc sỹ Phạm Thị Mai Khanh đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này. Em xin trân trọng cảm ơn! 3 Kho¸ luËn tèt nghiÖp Chương I LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ KHÁI QUÁT VỀ NGÀNH CÔNG NGHIỆP DẦU KHÍ CỦA VIỆT NAM I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI 1. Khái niệm và đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment - FDI) là một hoạt động đầu tư được thực hiện nhằm đạt được những lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ của một nền kinh tế khác nền kinh tế nước chủ đầu tư, mục đích của chủ đầu tư là giành quyền quản lý thực sự doanh nghiệp. (Nguồn Balance of Payments Manuals, 5th edition, IMF) Định nghĩa này nhấn mạnh vào 2 yếu tố bao gồm: - Lợi ích lâu dài: Khi tiến hành đầu tư trực tiếp nước ngoài, các nhà đầu tư thường đặt ra các mục tiêu lợi ích dài hạn. Mục tiêu lợi ích dài hạn đòi hỏi phải có mối quan hệ lâu dài giữa nhà đầu tư và doanh nghiệp nhận đầu tư đồng thời phải có mức độ ảnh hưởng đáng kể đối với việc quản lý doanh nghiệp này. - Quyền quản lý thực sự doanh nghiệp: chính là quyền kiểm soát doanh nghiệp tức là quyền tham gia vào các quyết định quan trọng ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp như thông qua chiến lược hoạt động của công ty, quyết định việc phân chia lợi nhuận doanh nghiệp, quyết định tỷ lệ vốn góp của các bên... Đó là những quyền ảnh hưởng đến sự sống còn và phát triển của doanh nghiệp. 4 Kho¸ luËn tèt nghiÖp Tại Việt Nam, Luật Đầu tư nước ngoài ban hành năm 1987 đã đưa ra khái niệm: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoái hoặc bất kì tài sản nào được chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định của luật này”. Sau đó, Luật Đầu tư 2005 đã đưa ra các khái niệm về “đầu tư”, “đầu tư trực tiếp”, “đầu tư nước ngoài” nhưng lại không đưa ra khái niệm về “đầu tư trực tiếp nước ngoài”. Tuy nhiên, có thể hiểu rằng FDI là hình thức đầu tư do nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư tại Việt Nam hoặc nhà đầu tư Việt Nam bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư ở nước ngoài theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Vậy từ những khái niệm trên chúng ta có thể hiểu một cách khái quát về FDI là hình thức đầu tư dài hạn của chủ đầu tư nước này vào nước khác theo một phương thức mà đôi bên thoả thuận nhằm tìm kiếm lợi ích và giành quyền quản lý nhất định trong lĩnh vực đầu tư. 1.2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài - Đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu là đầu tư tư nhân với mục đích hàng đầu là tìm kiếm lợi nhuận. - Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một tỉ lệ tối thiểu trong vốn pháp định hoặc vốn điều lệ theo quy định của pháp luật từng nước để có thể giành quyền kiểm soát doanh nghiệp nhận đầu tư. - Tỷ lệ đóng góp của các bên trong vốn điều lệ hoặc vốn pháp định sẽ quy định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên, đồng thời lợi nhuận và rủi ro cũng được phân chia theo tỷ lệ này. - Thu nhập của chủ đầu tư phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh 5 Kho¸ luËn tèt nghiÖp nghiệp nhận đầu tư và mang tính chất thu nhập kinh doanh chứ không phải lợi tức. - Chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. - Đầu tư trực tiếp nước ngoài thường kèm theo chuyển giao công nghệ cho nước tiếp nhận đầu tư. 2. Phân loại đầu tư trực tiếp nước ngoài Đầu tư trực tiếp nước ngoài thường được thực hiện theo một số hình thức, phương thức chủ yếu sau đây. - Công ty liên doanh: là hình thức công ty được hình thành với sự tham gia của một hoặc nhiều bên của nước nhận đầu tư và nước đầu tư; cho ra đời một pháp nhân mới ở nước nhận đầu tư và hoạt động dưới sự chi phối của pháp luật của nước nhận đầu tư. - Hình thức công ty 100% vốn nước ngoài: là hình thức công ty hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của tổ chức, cá nhân nước ngoài và do bên nước ngoài tự thành lập, tự quản lý và hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh; cho ra đời một pháp nhân mới ở nước nhận đầu tư và hoạt động dưới sự chi phối của pháp luật của nước nhận đầu tư. - Hợp đồng hợp tác kinh doanh: là hình thức đầu tư được ký giữa một hoặc nhiều nhà đầu tư nước ngoài với một hoặc nhiều doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế để tiến hành một hay nhiều hoạt động kinh doanh ở nước chủ nhà trên cơ sở quy định về trách nhiệm và phân phối kết quả kinh doanh mà không thành lập một công ty, xí nghiệp hay không ra đời một tư cách pháp nhân nào mới. - Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (BOT): là văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài về phương thức xây dựng, kinh doanh các công trình kết cấu hạ 6 Kho¸ luËn tèt nghiÖp tầng trong một thời hạn nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam. - Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh (BTO): là văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài về phương thức xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, sau khi xây dựng xong nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam, Chính phủ Việt Nam dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý. - Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao (BT): là văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài về phương thức xây dựng công trình kết cầu hạ tầng, sau khi xây dựng xong nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam, Chính phủ Việt Nam tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý. 3. Vai trò của FDI đối với các nước đang phát triển 3.1. Tác động tích cực 3.1.1. Bổ sung nguồn vốn và công nghệ Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là nguồn vốn đầu tư dài hạn, tồn tại chủ yếu dưới hình thức công nghệ, đất đai, nhà xưởng... nên có độ ổn định cao hơn rất nhiều so với đầu tư chứng khoán nước ngoài, vì vậy ít có khả năng gây sốc cho nền kinh tế khi có khủng hoảng. Bên cạnh đó FDI chủ yếu là nguồn vốn đầu tư tư nhân, các chủ đầu tư tự tiến hành hoạt động đầu tư và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh vì vậy hiệu quả của FDI thường cao hơn so với các hình thức đầu tư khác đồng thời FDI cũng không để lại gánh nặng về nợ cho ngân sách nhà nước như vay thương mại hay gây 7 Kho¸ luËn tèt nghiÖp ra các sức ép về kinh tế, chính trị, xã hội như ODA. Không chỉ có vậy, FDI cũng góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của các nguồn vốn trong nước cũng như tạo điều kiện cho nguồn vốn của Nhà nước tập trung vào các vấn đề kinh tế - xã hội ưu tiên như cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi xã hội... Ngoài ra, đi kèm với nguồn vốn FDI thường có sự chuyển giao công nghệ dành cho các nước nhận đầu tư mà công nghệ cũng là một yếu tố mà các nước đang phát triển còn đang rất thiếu và rất cần cho quá trình phát triển của mình. 3.1.2. Tạo việc làm và phát triển nguồn nhân lực Đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp các nước đang phát triển tận dụng được lợi thế về nguồn lao động dồi dào song song với việc góp phần đào tạo, nâng cao trình độ nguồn nhân lực với một đội ngũ lao động lành nghề, có tác phong công nghiệp, kỉ luật và đặc biệt là có khả năng tiếp thu khoa học kĩ thuật hiện đại trong lao động sản xuất. Ngoài ra, ở các doanh nghiệp liên doanh, chủ đầu tư nước chủ nhà còn có cơ hội được tiếp cận và học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nhà đầu tư nước ngoài trong sản xuất kinh doanh. 3.1.3. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực Hiện nay, đầu tư trực tiếp nước ngoài đang trở thành một yếu tố tạo ra sự chuyển biến tích cực trong cơ cấu kinh tế của nước nhận đầu tư. FDI chủ yếu tập trung vào các ngành công nghiệp và dịch vụ do đó nguồn vốn này có thể đáp ứng được nhu cầu phát triển các ngành này ở các nước đang phát triển.Với tỷ trọng nguồn vốn FDI vào các ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng, nguồn vốn này đã góp phần làm tăng tỷ trọng về sản lượng, việc làm cũng như giá trị xuất khẩu của các ngành này trong nền kinh tế của các 8 Kho¸ luËn tèt nghiÖp nước nhận đầu tư trong khi tỉ trọng của các ngành sản xuất truyền thống như nông nghiệp và khai thác giảm mạnh. 3.1.4. Nâng cao năng lực xuất khẩu và mở rộng thị trường xuất khẩu Sự xuất hiện của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đi kèm với công nghệ, máy móc, thiết bị hiện đại đã giúp các nước nhận đầu tư nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các mặt hàng xuất khẩu. Bên cạnh đó, thông qua các mối quan hệ sẵn có của các nhà đầu tư nước ngoài, hàng hóa của các doanh nghiệp FDI có thể tiếp cận thị trường thế giới dễ dàng hơn. Như vậy, FDI vừa làm tăng năng lực xuất khẩu vừa mở rộng thị trường xuất khẩu cho các nước nhận đầu tư. 3.1.5. Mở rộng hợp tác quốc tế, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế Trong các hoạt động kinh tế đối ngoại, đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng có ý nghĩa quan trọng với vai trò thúc đẩy thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài khác như ODA hay tín dụng quốc tế... Quan hệ thương mại của các nước cũng mở rộng theo quá trình phát triển của các doanh nghiệp có FDI và song song với đó là sự tham gia từng bước vào phân công lao động quốc tế của nước nhận đầu tư. Có thể nói, hoạt động FDI đã làm phong phú, đa dạng thêm các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước nhận đầu tư. Nền kinh tế trong nước dần hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới, tạo điều kiện tham gia vào các hiệp định hợp tác kinh tế song phương và đa phương. 3.2. Tác động tiêu cực 3.2.1. Nguy cơ chịu sự lệ thuộc về kinh tế Nguồn vốn FDI chủ yếu do các tập đoàn, công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia chi phối. Vì vậy các nước tiếp nhận phải phụ thuộc vào vốn, công nghệ, thị trường và hệ thống mạng lưới tiêu thụ của các đối tượng này. Nếu các nước tiếp nhận đầu tư chỉ biết dựa vào nguồn vốn FDI mà không chú 9 Kho¸ luËn tèt nghiÖp trọng đúng mức đến việc khai thác các nguồn vốn đầu tư khác từ nội lực của nền kinh tế thì nguy cơ lệ thuộc và mất độc lập về kinh tế là khó tránh khỏi. Các công ty đa quốc gia có thể dùng quyền lực kinh tế của mình gây ảnh hưởng bất lợi đến tình hình kinh tế - xã hội của nước chủ nhà. 3.2.2. Những hạn chế trong quá trình chuyển giao công nghệ Mục tiêu của bất kỳ nhà đầu tư nào cũng đều muốn thu hồi vốn nhanh và có được nhiều lợi nhuận. Do đó việc chuyển giao công nghệ cũng cơ bản nhằm hai mục đích này và thường diễn ra theo hai khuynh hướng chủ yếu đều gây ra những tác động tiêu cực cho nước chủ nhà: - Đưa các thiết bị công nghệ hiện đại vào nhằm thu hồi vốn và lợi nhuận nhanh mà không tính đến chất lượng và số lượng lao động hiện có của nước sở tại. Kết quả là mặc dù tăng vốn đầu tư, mở rộng sản xuất, có thêm nhiều ngành nghề mới nhưng người lao động vẫn thiếu việc làm, số lao động dư thừa vẫn không được giải quyết. - Tận dụng các công nghệ cũ, lạc hậu để chuyển giao cho các nước nhận đầu tư. Do máy móc thiết bị lạc hậu nên chi phí sản xuất lớn, giá thành sản phẩm cao dẫn đến khả năng cạnh tranh thấp làm cho các nước nhận đầu tư khó có thể đuổi kịp các nước phát triển. Bên cạnh đó còn là các tác hại khác như ô nhiễm môi trường, không có điều kiện để tiếp nhận khoa học, công nghệ cũng như đào tạo nguồn nhân lực hiện đại. 3.2.3. Sức ép cạnh tranh lớn đối với các doanh nghiệp trong nước Do sở hữu ưu thế về vốn, về công nghệ hiện đại, thị trường tiêu thụ cũng như trình độ tổ chức quản lý... các chủ đầu tư hoàn toàn có đủ điều kiện để giành thế chủ động trong sản xuất kinh doanh ngay tại nước tiếp nhận đầu tư. Do đó bằng con đường cạnh tranh hợp quy luật, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoàn toàn có thể thôn tính các công ty nội địa hoặc ngay 10 Kho¸ luËn tèt nghiÖp bản thân trong nội bộ các doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, sau một thời gian hoạt động, do hạn chế về trình độ quản lý cũng như thiếu kinh nghiệm, phía nước nhận đầu tư thường bị phía đối tác nước ngoài mua lại cổ phần và doanh nghiệp liên doanh trở thành doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đó là một thực tế mà nước nhận đầu tư cần phải cân nhắc khi thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. 3.2.4. Nguy cơ đối với cán cân thanh toán của nước nhận đầu tư Ảnh hưởng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với cán cân thanh toán của nước nhận đầu tư là một vấn đề cần phải được chú ý. Thông thường nhà nước sở tại rất khó kiểm soát được giao dịch ngoại thương của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, bởi vì hầu hết các giao dịch này là giao dịch nội bộ công ty của các tập đoàn tư bản đa quốc gia. Nhờ giao dịch trong nội bộ, các công ty này có thể định giá các sản phẩm do mình sản xuất ra hoặc các nguồn đầu tư theo mức giá có lợi nhất cho họ nhằm để trốn thuế hoặc né tránh sự kiểm soát của nhà nước sở tại. Đặc điểm này đã khiến các nước tiếp nhận đầu tư khó có khả năng kiểm soát nguồn ngoại tệ để duy trì và làm chủ cán cân thanh toán, gây trở ngại cho việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và làm giảm tác động tích cực của dòng vốn này lên cán cân thanh toán của nước chủ nhà. Như vậy đối với các nước tiếp nhận đầu tư, tác dụng của đầu tư trực tiếp nước ngoài phải được nhìn nhận thấu đáo trên cả hai mặt tích cực và tiêu cực của nó. Những mặt trái của đầu tư trực tiếp nước ngoài hoàn toàn không có nghĩa là phủ nhận những lợi thế cơ bản của nó mà chỉ để các nước nhận đầu tư lưu ý rằng không nên hy vọng quá nhiều vào nguồn vốn này và cần phải có những chính sách hợp lý, những biện pháp quản lý hữu hiệu để phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Bởi vì mức độ thiệt hại mà đầu tư trực tiếp nước ngoài gây ra cho 11 Kho¸ luËn tèt nghiÖp nước chủ nhà nhiều hay ít phụ thuộc rất nhiều vào chính sách, năng lực, trình độ quản lý, trình độ chuyên môn của nước nhận đầu tư. 4. Các nhân tố tác động đến hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của một quốc gia Việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của một quốc gia sẽ chịu sự ảnh hưởng của các yếu tố về tình hình chính trị, chính sách, pháp luật, vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, trình độ phát triển kinh tế, các đặc điểm văn hoá-xã hội bởi các nhóm yếu tố này có thể làm tăng khả năng sinh lãi hoặc rủi ro cho các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư ở quốc gia đó. Vì vậy chính những yếu tố này trở thành những chỉ tiêu quan trọng để nhà đầu tư cân nhắc và lựa chọn địa điểm đầu tư và đưa ra quyết định đầu tư. 4.1. Tình hình chính trị Có thể nói ổn định chính trị của nước chủ nhà là yếu tố hấp dẫn hàng đầu đối với các nhà đầu tư, yếu tố này lại càng đặc biệt đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Bởi vì tình hình chính trị ổn định là điều kiện tiên quyết để đảm bảo các cam kết của chính phủ đối với các nhà đầu tư về sở hữu vốn đầu tư, các chính sách ưu tiên đầu tư và định hướng phát triển của nước nhận đầu tư. Đồng thời, sự ổn định chính trị còn là tiền đề cần thiết để ổn định tình hình kinh tế-xã hội, nhờ đó giảm được tính rủi ro cho các nhà đầu tư. Một nước không thể thu hút được nhiều FDI nếu tình hình chính trị luôn bất ổn định. Một vấn đề khác cũng được các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm, đó là định hướng đầu tư của nước chủ nhà. Vì các nhà đầu tư nước ngoài thường có chiến lược kinh doanh dài hạn nên họ rất cần sự rõ ràng, ổn định trong định hướng đầu tư của nước chủ nhà. 4.2. Chính sách - pháp luật 12 Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vì quá trình đầu tư có liên quan rất nhiều các hoạt động của các tổ chức, cá nhân và được tiến hành trong thời gian dài nên các nhà đầu tư nước ngoài rất cần có một môi trường pháp lý hợp lý và ổn định của nước chủ nhà. Môi trường này gồm các chính sách, quy định đối với đầu tư nước ngoài và tính hiệu lực của chúng trong thực hiện. Một môi trường pháp lý hấp dẫn đầu tư nước ngoài nếu có các chính sách, quy định hợp lý và tính hiệu lực cao trong thực hiện. Đây là những căn cứ pháp lý quan trọng không chỉ để đảm bảo quyền lợi của các nhà đầu tư nước ngoài mà còn là những cơ sở cần thiết cho họ tính toán làm ăn lâu dài ở nước chủ nhà. 4.3. Vị trí địa lý - điều kiện tự nhiên Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên bao gồm các yếu tố về khoảng cách, địa điểm, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, dân số... Đây là những yếu tố tác động quan trọng đến tính sinh lãi hay rủi ro của các hoạt động đầu tư. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi sẽ giảm được các chi phí vận chuyển, đa dạng hoá các lĩnh vực đầu tư, cung cấp được nguồn nguyên liệu phong phú với giá cả rẻ và tiềm năng tiêu thụ lớn. Các yếu tố này không những làm giảm được giá thành sản phẩm mà còn thu hút được các nhà đầu tư tìm kiếm nguyên liệu tự nhiên và thị trường tiêu thụ. Đây là lợi thế nổi bật của nhiều nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, mức độ hấp dẫn còn phụ thuộc vào chất lượng của thị trường lao động và sức mua của dân cư. 4.4. Trình độ phát triển kinh tế Trình độ phát triển kinh tế là các mức độ phát triển về quản lý kinh tế vĩ mô, cơ sở hạ tầng, chất lượng cung cấp dịch vụ cho các hoạt động kinh doanh của nhà đầu tư nước ngoài và mức độ cạnh tranh của thị trường nước 13 Kho¸ luËn tèt nghiÖp chủ nhà. Có thể nói đây là các yếu tố có tác động mạnh hơn các chính sách ưu đãi về tài chính của nước chủ nhà đối với các nhà đầu tư. 4.5. Đặc điểm phát triển văn hoá - xã hội Đặc điểm phát triển văn hoá-xã hội của nước chủ nhà được coi là hấp dẫn đầu tư nước ngoài nếu có trình độ giáo dục cao và nhiều sự tương đồng về ngôn ngữ, tôn giáo, các phong tục tập quán với các nhà đầu tư nước ngoài. Các đặc điểm này không chỉ giảm được chi phí đào tạo nguồn nhân lực cho các nhà đầu tư nước ngoài mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho họ hoà nhập vào cộng đồng nước sở tại. Như vậy, qua phân tích trên cho thấy một môi trường đầu tư được gọi là thuận lợi nếu các yếu tố trên tạo được sức hấp dẫn cho các nhà đầu tư. Mức độ thuận lợi của môi trường đầu tư sẽ tạo ra các cơ hội đầu tư cho nhà đầu tư nước ngoài. II. KHÁI QUÁT VỀ NGÀNH CÔNG NGHIỆP DẦU KHÍ CỦA VIỆT NAM 1. Tầm quan trọng của ngành công nghiệp dầu khí đối với nền kinh tế Việt Nam Dầu mỏ và khí thiên nhiên là nguồn năng lượng quý giá và có giá trị kinh tế cao. Đây là nguồn năng lượng mới và có tính vượt trội so với các nguồn năng lượng khác. Dầu mỏ được chế biến thành các dạng năng lượng như xăng, dầu được sử dụng rộng rãi trong ngành giao thông vận tải (đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không) cũng như ngành công nghiệp điện năng phục vụ cho sản xuất và đời sống xã hội. Mặt khác, các sản phẩm chế biến từ dầu mỏ là nguồn nguyên liệu cho các ngành công nghiệp hóa chất và ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Ngoài ra, khí thiên nhiên còn là nguồn năng lượng sạch rất quan trọng có thể thay thế cho các loại chất đốt truyền thống như than, củi, dầu hỏa… góp phần làm giảm bớt ô nhiễm môi 14 Kho¸ luËn tèt nghiÖp trường. Với những ưu điểm đó, dầu khí đã trở thành một nguồn năng lượng quan trọng, giữ vị trí chiến lược trong nền kinh tế quốc dân của nhiều quốc gia trên thế giới cũng như nền kinh tế toàn cầu. Đối với Việt Nam, nhu cầu đối với dầu khí và các sản phẩm từ dầu khí đối với công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là ngày càng lớn. Trung tâm khoa học công nghệ quốc tế đã tính toán nhu cầu dầu thô của nước ta tính đến năm 2005 là 13,7 triệu tấn, năm 2010 là 18 triệu tấn và năm 2020 là 31,2 triệu tấn. Cùng với đó, nhu cầu khí đốt năm 2005 là 4,5 tỉ m 3, năm 2010 là 8,8 tỉ m3 và năm 2020 là 16,7 tỉ m3. Số liệu trên đã cho thấy nhu cầu rất lớn về dầu thô và khí đốt của Việt Nam trong vòng 10 năm tới. Cụ thể hơn, dầu khí và các sản phẩm dầu khí là nguồn năng lượng, nguồn nguyên liệu quan trọng đối với các ngành khác như công nghiệp điện, công nghiệp chế biến, phân bón cho nông nghiệp, vật liệu cho ngành xây dựng cơ bản… Có thể nói ngành dầu khí là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Không chỉ có vậy, dầu thô còn là một sản phẩm xuất khẩu giữ vị trí chiến lược đối với rất nhiều nước trong đó có Việt Nam. Nguồn thu nhập khổng lồ từ xuất khẩu dầu thô góp phần tăng đầu tư phát triển đối với các ngành khác. Ngành dầu khí phát triển sẽ làm tăng tổng sản phẩm quốc dân, tăng kim ngạch xuất khẩu, khắc phục tình trạng nhập siêu, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, tạo công ăn việc làm cho người lao động… Do đó, để ngành dầu khí thực sự trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn phục vụ cho công nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, một nguồn vốn rất quan trọng đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, trở nên ngày một cấp thiết bởi vì chỉ có vốn đầu tư nước ngoài mới có thể đáp ứng được những yêu cầu mang tính đặc thù của ngành công nghiệp dầu khí. 2. Đặc thù của ngành công nghiệp dầu khí 15 Kho¸ luËn tèt nghiÖp 2.1. Hoạt động của ngành công nghiệp dầu khí đòi hỏi khối lượng vốn đầu tư lớn so với các ngành khác Do hoạt động của ngành công nghiệp dầu khí được tiến hành theo nhiều quá trình khác nhau: Quá trình tìm kiếm, thăm dò dầu khí; quá trình khoan và khai thác dầu khí, quá trình chế biến và phân phối sản phẩm dầu khí. Trong đó, quá trình tìm kiếm, thăm dò và khoan khai thác dầu khí phải đầu tư nhiều nhất. Do đó, quy mô vốn đầu tư lớn là đặc trưng của ngành công nghiệp dầu khí khác biệt so với các ngành công nghiệp khác. Mỗi lĩnh vực hoạt động của ngành dầu khí lại đòi hỏi lượng vốn đầu tư thích hợp để đạt hiệu quả kinh tế cao. Do tính chất đặc thù chứa đựng nhiều rủi ro nên ngoại trừ ở những nước có trữ lượng dầu khí lớn với xác suất thành công trong thăm dò khai thác cao như Vênêzuêla, Iraq, Kuwait… giá thành khai thác dầu khí ở các nước khác thường rất cao và được thể hiện qua bảng 1.1 Bảng 1.1: Giá thành khai thác dầu thô (Đơn vị: USD/thùng) Châu Mỹ Tây Âu Trung Cận Đông Đông Á, Đông Nam Á, châu Phi Nước/Khu vực Mỹ Giá thành khai thác trung bình 14,88 4,08 10,51 0,83 2,53 Giá thành khai thác thấp nhất và cao nhất 2-20 3-15 5-20 0,4-4 2-12 La-tinh Nguồn: Tạp chí dầu khí - Số 3 (2001) Để hình dung rõ hơn về sự đòi hỏi nguồn vốn đầu tư khổng lồ của ngành dầu khí chúng ta có thể thấy qua bảng 1.2 16 Kho¸ luËn tèt nghiÖp Bảng1.2:Chi phí cho các hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí của Việt Nam Công việc Chi phí 1 giếng khoan thăm dò trên đất liền 3-5 triệu USD 1 giếng khoan thăm dò ngoài biển 8-15 triệu USD Thẩm lượng tính thương mại của mỏ Khoan 7-10 giếng Phát triển 1 mỏ dầu tầm trung (50 triệu tấn) 3 tỷ USD 1 ngày khoan ngoài biển 150 ngàn USD Thu nổ, xử lý 1000 km địa chấn 4-5 triệu USD Xử lý sự cố kẹt cần khoan, phun trào không khống Hàng chục triệu USD chế được, mất dung dịch khoan Nguồn: PetroVietnam Công tác vận chuyển dầu khí vào bờ cũng đòi hỏi một lượng vốn đầu tư rất lớn, vì hầu hết các mỏ dầu khí đều nằm ở xa bờ. Quá trình vận chuyển dầu khí vào bờ phải sử dụng hệ thống thiết bị chuyên dụng và phương tiện kỹ thuật hiện đại với giá thành hàng trăm triệu USD. Một đề án xây dựng công trình dầu khí từ mỏ vào đất liền cần một lượng vốn đầu tư trung bình 1 triệu USD cho 1 km đường ống. Ngay cả từng công trình nhỏ, hạng mục nhỏ cũng đòi hỏi lượng vốn đầu tư khổng lồ nếu so sánh với các ngành công nghiệp khác. Lĩnh vực chế biến các sản phẩm dầu khí như : hóa dầu, sản xuất dầu mỡ, chất dẻo, phân bón… cũng đòi hỏi lượng vốn đầu tư ban đầu rất lớn với thời gian thu hồi vốn dài. Chính đặc điểm này đòi hỏi ngành dầu khí phải huy động vốn bằng các nguồn vốn từ cả trong nước và nước ngoài. 2.2. Hoạt động dầu khí thường gặp nhiều rủi ro Dầu khí là ngành có phạm vi hoạt động rất rộng từ vài chục đến vài trăm km2; các mỏ dầu phân bố không đều giữa các vùng khác nhau nên quá trình đầu tư bị phân tán, độ rủi ro cao do phụ thuộc vào điều kiện địa chất. Có những quốc gia phải mất hàng chục năm mới có thể phát hiện ra những mỏ 17 Kho¸ luËn tèt nghiÖp dầu có giá trị công nghiệp (Canada mất 40 năm, Việt Nam mất gần 30 năm tìm kiếm và thăm dò mới phát hiện ra các mỏ như mỏ Bạch Hổ, mỏ Đại Hùng, Lan Tây, Sư tử Đen…). Bên cạnh đó, xác suất thành công trung bình trong tìm kiếm thăm dò dầu khí trên thế giới hiện nay rất thấp, chỉ khoảng 10%. Ngoài những rủi ro về địa hình, địa chất ảnh hưởng đến xác suất phát hiện mỏ, rủi ro về kỹ thuật và các rủi ro khác như chiến tranh, thiên tai, hỏa hoạn, thời tiết, tỷ giá hối đoái, tỷ lệ lạm phát, giá cả thị trường… thường hay xảy ra dẫn tới sự thua lỗ của các nhà đầu tư vào lĩnh vực dầu khí. Do đó việc đầu tư vào ngành công nghiệp dầu khí phải chấp nhận mạo hiểm với những rủi ro mang tính đặc thù của lĩnh vực này. 2.3. Ngành công nghiệp dầu khí là ngành đòi hỏi trình độ khoa học công nghệ cao Hoạt động của ngành công nghiệp dầu khí thường hay gặp rủi ro rất lớn nhất là trong giai đoạn thăm dò và khai thác. Do đó, để giảm thiểu rủi ro, ngành công nghiệp dầu khí phải sử dụng các phương tiện kĩ thuật hiện đại với hàm lượng công nghệ cao nhằm tăng độ chính xác trong quá trình thăm dò và xác định vị trí cũng như đánh giá trữ lượng của các mỏ dầu và mỏ khí, cũng như để có thể chế biến dầu thô thành các sản phẩm thương mại có giá trị lớn. Có thể nói, kĩ thuật hiện đại và công nghệ tiên tiến là đặc trưng nổi bật của ngành công nghiệp dầu khí từ thăm dò, khai thác cho đến chế biến. 2.4. Hoạt động của ngành công nghiệp dầu khí thường mang tính quốc tế cao Do mang các đặc trưng cần vốn đầu tư lớn, có độ rủi ro cao và yêu cầu áp dụng khoa học - công nghệ hiện đại nên ngành dầu khí đòi hỏi phải có sự 18 Kho¸ luËn tèt nghiÖp hợp tác quốc tế giữa các quốc gia trên cơ sở chia sẻ rủi ro và các bên cùng có lợi. Hiện nay trên thế giới, không có một nước nào kể cả một cường quốc như Mỹ có khả năng tự mình sản xuất tất cả các loại máy móc thiết bị phục vụ cho ngành công nghiệp dầu khí. Bởi vậy, hoạt động dầu khí thường có nhiều công ty mang quốc tịch khác nhau cùng tham gia đầu tư vào các khâu khác nhau từ tìm kiếm - thăm dò, khai thác đến chế biến dầu khí. Bên cạnh đó các công ty cung cấp dịch vụ cũng như các sản phẩm, thiết bị phục vụ ngành công nghiệp dầu khí cũng tham gia và giữ vai trò quan trọng trong hoạt động dầu khí. Ngoài ra, xu hướng toàn cầu hóa, cạnh tranh quốc tế đang ngày một mạnh mẽ buộc các quốc gia phải tính đến yếu tố này trong chính sách thu hút vốn đầu tư vào ngành công nghiệp dầu khí của mình. 3. Tiềm năng về dầu khí, khả năng tự thăm dò, khai thác và chế biến các sản phẩm dầu khí của Việt Nam 3.1. Tiềm năng về dầu khí của Việt Nam Việt Nam là quốc gia có tiềm năng dầu khí. Các mỏ dầu khí đã được phát hiện ở đồng bằng sông Hồng, bể Nam Côn Sơn, và Cửu Long thuộc thềm lục địa Nam Việt Nam từ năm 1975, nhưng với trữ lượng không đáng kể nên đến trước năm 1990, trữ lượng dầu khí của Việt Nam vẫn chưa được thống kê trên thế giới. Chỉ sau khi phát hiện và khai thác dầu từ móng nứt nẻ trước Đệ Tam của mỏ Bạch Hổ ở bể Cửu Long và phát hiện mỏ khí Lan Tây Lan Đỏ ở bể Nam Côn Sơn, trữ lượng dầu khí của Việt Nam mới được đưa vào bảng thống kê của thế giới vào năm 1992. Theo thống kê của BP (BP Statistical Review of World Energy), trữ lượng dầu của khu vực châu Á Thái Bình Dương trong đó có Việt Nam là 47,7 tỷ thùng chiếm chỉ khoảng 19 Kho¸ luËn tèt nghiÖp 4% trữ lượng dầu thế giới. Mặc dù trữ lượng dầu của Việt Nam tăng khoảng 1,7 lần vào năm 2004 so với năm 1992 từ 250,9 triệu tấn lên 420 triệu tấn nhưng vẫn rất nhỏ và chỉ chiếm 7,8% trữ lượng của khu vực châu Á - Thái Bình Dươngvà đứng thứ 6 sau Malaysia. Về khí, trữ lượng khí của Việt Nam dù đã tăng 3 lần từ 120 tỷ m3 năm 1992 lên 395 tỷ m3 năm 2004 nhưng chỉ chiếm 2,4% trữ lượng của khu vực châu Á - Thái Bình Dương và xếp thứ 9, sau Papua New Guinea. Tổng trữ lượng và tiềm năng dầu khí có khả năng thu hồi của Việt Nam vào khoảng 4300 triệu tấn dầu quy đổi, đã phát hiện 1208,89 triệu tấn, chiếm khoảng 28% tổng tài nguyên dầu khí của Việt Nam trong đó trữ lượng dầu khí có khả năng thương mại là 814,7 triệu tấn chiếm khoảng 67% tài nguyên dầu khí đã phát hiện. Trữ lượng dầu khoảng 420 triệu tấn và 394,7 tỷ m 3 khí. Trữ lượng dầu đã khai thác là 169,94 triệu tấn, khí đồng hành và không đồng hành đã khai thác khoảng 37,64 tỷ m3 trong đó lượng khí đưa vào bờ sử dụng chỉ đạt 18,67 tỷ m3 (50%), số khí còn lại được dùng tại mỏ và đốt bỏ để bảo vệ môi trường. Tính đến 31/12/2004, trữ lượng còn lại là 250,06 tấn dầu và 357 tỷ m3 khí. Nghiên cứu xu hướng biến động trữ lượng dầu khí cho thấy Việt Nam có sự tăng nhanh trữ lượng đối với cả dầu và khí. Sự gia tăng này có được là do sự hình thành hàng loạt hợp đồng dầu khí đã được kí kết và hoạt động thăm dò sôi nổi mở rộng ra toàn thềm lục địa đến vùng nước sâu 200m. Mặt khác khoan thăm dò và phát hiện mỏ Bạch Hổ đầu tiên đã phát hiện dầu trong móng trước Đệ Tam bổ sung trữ lượng lớn nhằm duy trì và tăng sản lượng khai thác. Hiện tại Việt Nam có 8 mỏ/cụm mỏ đang khai thác dầu thô với sản lượng khai thác chủ yếu từ đá móng granite nứt nẻ (khoảng 80%) trong đó có 3 mỏ/khu vực mỏ có khí đồng hành và 2 mỏ/khu vực mỏ đang khai thác khí 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng