Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Chênh lệch tham nhũng và dòng vốn fdi đầu tư vào các quốc gia khu vực đông nam á...

Tài liệu Chênh lệch tham nhũng và dòng vốn fdi đầu tư vào các quốc gia khu vực đông nam á

.PDF
81
525
79

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH NGUYỄN NGỌC MINH TUẤN CHÊNH LỆCH THAM NHŨNG VÀ DÒNG VỐN FDI ĐẦU TƯ VÀO CÁC QUỐC GIA KHU VỰC ĐÔNG NAM Á LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH - 2016 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH NGUYỄN NGỌC MINH TUẤN CHÊNH LỆCH THAM NHŨNG VÀ DÒNG VỐN FDI ĐẦU TƯ VÀO CÁC QUỐC GIA KHU VỰC ĐÔNG NAM Á Chuyên ngành: TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG Mã số : 60340201 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. TRẦN NGỌC THƠ TP.HỒ CHÍ MINH - 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi. Những dữ liệu, kết quả mà tôi trình bày trong bài nghiên cứu là hoàn toàn trung thực, có nguồn gốc từ các tổ chức đáng tin cậy và được tôi tổng hợp và xử lý. TÁC GIẢ LUẬN VĂN NGUYỄN NGỌC MINH TUẤN MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng Tóm tắt PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT. MỐI QUAN HỆ CỦA THAM NHŨNG VÀ FDI TRONG CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY ......................................... 5 1.1 Khái niệm Đầu tư trực tiếp nước ngoài ................................................................. 5 1.2 Khái niệm Tham nhũng ......................................................................................... 8 1.3 Khái niệm Chênh lệch tham nhũng ....................................................................... 9 1.4 Tổng quan lý thuyết ............................................................................................ 14 1.4.1 Lý thuyết Chi phí giao dịch .............................................................................. 14 1.4.2 Mô hình OLI của Dunning ............................................................................... 15 1.5 Mối quan hệ giữa tham nhũng, chênh lệch tham nhũng và FDI trong các nghiên cứu trước đây............................................................................................................. 17 1.6 Hạn chế của các nghiên cứu trước ..................................................................... 25 CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI FDI VÀ THAM NHŨNG ......................................................................... 28 2.1 Xu hướng dòng vốn FDI trên thế giới................................................................. 28 2.2 Xu hướng dòng vốn FDI ở khu vực châu Á........................................................ 29 2.3 Tình hình tham nhũng của các nước trong khu vực Đông Nam Á ..................... 16 CHƯƠNG 3: DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU ..................................................................................... 35 3.1 Dữ liệu nghiên cứu .............................................................................................. 35 3.2 Phương pháp và mô hình nghiên cứu.................................................................. 44 3.3 Giả thuyết nghiên cứu và kỳ vọng dấu................................................................ 46 CHƯƠNG 4: TRÌNH BÀY KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ KẾT LUẬN ......... 49 4.1 Tổng quan dữ liệu và cách thức khắc phục ......................................................... 49 4.2 Kết quả nghiên cứu ............................................................................................. 52 CHƯƠNG CUỐI: PHẦN KẾT .............................................................................. 57 Đóng góp, phát triển mới của luận văn ..................................................................... 57 Hướng phát triển đề tài trong tương lai ..................................................................... 58 Tài liệu tham khảo DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Association of Hiệp hội các quốc gia Đông Southeast AsianNations Nam Á CPI Corruption Perceptions Index Chỉ số nhận thức tham nhũng FDI Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội IMF International Monetary Fund Quỹ Tiền tệ quốc tế MNE Multinational Enterprises Doanh nghiệp đa quốc gia ASEAN OLI Ownership, Location, Internalization paradigm Mô hình chiết trung Organisation for Economic Tổ chức hợp tác và phát triển Cooperation and Development kinh tế TCT Transaction Cost Economics Lý thuyết chi phí giao dịch TI Transparency International Tổ chức Minh Bạch Thế Giới United Nations Conference on Diễn đàn thương mại và phát Trade and Development triển Liên Hiệp Quốc United Nations Development Chương trình Phát triển Liên Programme Hợp Quốc WB World Bank Ngân hàng Thế giới WTO World Trade Organization Tổ chức Thương Mại Thế Giới OECD UNCTAD UNDP DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Bảng 1.1 Tổng kết các nghiên cứu của các tác giả trước Bảng 2.1 Dòng vốn đầu tư FDI chia theo các vùng miền trên thế giới 2012-2014 Bảng 2.2 Bàng 2.3 Danh sách 10 nước châu Á nhận đầu tư FDI nhiều nhất năm 2013 và 2014 So sánh chỉ số nhận thức tham nhũng của các nước Đông Nam Á (2003-2015) Bảng 3.1 Mô tả các biến quan sát trong mô hình hồi quy Bảng 3.2 Tổng quan các biến của mô hình hồi quy Bảng 4.1 Tổng hợp kết quả hồi quy của cả 3 mô hình TÓM TẮT Đã có nhiều nghiên cứu về mối quan hệ giữa tham nhũng và dòng vốn FDI đầu tư vào quốc gia đó; nhưng kết quả rất khác nhau. Một số nghiên cứu cho thấy tác động ngược chiều giữa mức độ tham nhũng và dòng vốn FDI mà quốc gia đó nhận được. Nhưng các nghiên cứu khác chỉ ra tham nhũng tác động cùng chiều đến dòng vốn FDI. Trong bài nghiên cứu này, tôi lặp lại các nghiên cứu trước đây và đưa thêm khái niệm “chênh lệch tham nhũng”, là sự khác biệt về tham nhũng giữa hai nước. Từ đó, áp dụng vào các nước trong khu vực Đông Nam Á, thời gian từ 2003 đến 2015 và nghiên cứu trên 3 mô hình, tương ứng với 3 biến: (1) tham nhũng; (2) chênh lệch tham nhũng dương và (3) chênh lệch tham nhũng âm. Ở đây, chênh lệch tham nhũng dương là các quan sát mà nước đầu tư có mức độ tham nhũng cao hơn nước chủ nhà; và ngược lại đối với chênh lệch tham nhũng âm. Kết quả cho thấy, tham nhũng cao có dấu hiệu thu hút đầu tư FDI nhiều hơn, nhưng độ thu hút không lớn. Chênh lệch tham nhũng dương có tác động ngược chiều đến dòng vốn đầu tư FDI. Điều này có thể giải thích rằng sự tương đồng về thể chế của hai quốc gia thúc đẩy dòng vồn đầu tư FDI giữa hai nước. Chênh lệch tham nhũng âm cũng có tác động ngược chiều, nhưng hệ số khá nhỏ. Các nhà đầu tư ở nước ít tham nhũng cũng có xu hướng đầu tư vào các nước có tình trạng tham nhũng cao. Có thể giải thích rằng một số nhà đầu tư có kiến thức và kinh nghiệm trong việc ứng phó với tham nhũng đã sử dụng nó giống như lợi thế cạnh tranh so với các nhà đầu tư khác nên ưu tiên đầu tư vào các nước chủ nhà có mức độ tham nhũng cao. TỪ KHÓA - Chênh lệch tham nhũng - FDI 1 PHẦN MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài Sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008, các nước phát triển cũng như đang phát triển phải đối mặt với vấn đề nguồn vốn để phục hồi nền kinh tế của nước mình. Một số những nguồn vốn được quan tâm nhất đó là dòng vồn FDI. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một hình thức đầu tư quốc tế dựa trên cơ sở của quá trình chuyển dịch tư bản giữa các nước. Do đó, FDI có vai trò rất quan trọng đó là tạo ra cơ hội cho các nước kém phát triển tiếp cận nguồn vốn từ bên ngoài đầu tư vào trong nước. Tại các nước có chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài hợp lý, FDI không chỉ làm tăng cung về vốn đầu tư mà còn có vai trò thúc đẩy chuyển giao công nghệ; đặc biệt là thúc đẩy quá trình tích tụ vốn con người, một nhân tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Do vậy, dòng vốn FDI luôn luôn được coi là một trong những nguồn vốn quan trọng của bất kỳ nước nào, cả các nước phát triển cũng như đang phát triển. Không phải bất kỳ nước nào cũng sẽ thu hút được nguồn vốn đầu tư trực tiếp như mong muốn, bởi nó phụ thuộc rất nhiều yếu tố: kinh tế, chính trị, vốn con người, mục đích, đầu tư,… Do vậy, làm sao để thu hút FDI cũng là vấn đề mà các nước luôn quan tâm, bởi lẽ tùy thuộc vào đặc điểm kinh tế, tốc độ phát triển của mỗi nước mà có những chính sách khuyến khích khác nhau. Hơn nữa, nhiều ý kiến cho rằng hối lộ và tham nhũng đang cản trở hoạt động đầu tư, làm xói mòn sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nói riêng và của toàn nước đó nói chung. Đó là cảnh báo của Phòng Thương mại châu Âu tại Việt Nam (EuroCham) trong hội nghị “Tổng kết 25 năm thu hút FDI” (Hà Nội, ngày 27-3-2013). Hiệp hội doanh nghiệp Úc (AuCham) và Phòng Thương mại Mỹ tại Việt Nam (AmCham) cũng nhấn mạnh: Cải cách hành chính tại Việt Nam chậm và đặc biệt có rất nhiều vấn đề xung quanh sự thiếu minh bạch, quan liêu, tham nhũng. 2 Do đó, để xác định và làm rõ mối quan hệ giữa tham nhũng và dòng vốn FDI đầu tư vào các nước khu vực Đông Nam Á, tác giả chọn đề tài “Chênh lệch tham nhũng và dòng vốn FDI đầu tư vào các quốc gia khu vực Đông Nam Á” để thực hiện nghiên cứu của mình. Ngoài ra, vào năm 2014, hai tác giả Jose R.Godinez và Ling Liu đưa ra và sử dụng khái niệm “chênh lệch tham nhũng” ở các nước Châu Mỹ Latin. Bài nghiên cứu này cũng sẽ giới thiệu khái niệm “chênh lệch tham nhũng” và đưa vào nghiện cứu ở các nước Đông Nam Á. Mục tiêu nghiên cứu Bài nghiên cứu sẽ phân tích và giải thích 3 câu hỏi sau: 1. Liệu rằng mức độ tham nhũng của một nước trong khu vực Đông Nam Á có ảnh hưởng đến dòng vốn FDI từ các nước trên thế giới đầu tư vào nước này hay không? 2. Liệu rằng chênh lệch tham nhũng dương (từ nước đầu tư tham nhũng hơn đến nước chủ nhà ít tham nhũng hơn) có ảnh hưởng đến dòng vốn FDI luân chuyển giữa hai nước này hay không? 3. Ngược lại, chênh lệch tham nhũng âm (từ nước đầu tư tham nhũng ít hơn đến nước chủ nhà) có ảnh hưởng đến dòng vốn FDI luân chuyển giữa hai nước này hay không? Phương pháp nghiên cứu Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng để xem xét sự ảnh hưởng của tham nhũng và chênh lệch tham nhũng lên dòng vốn FDI. Dữ liệu thu thập dạng bảng micro-panel-data với số năm xem xét rất ít so với số đơn vị chéo. Quá trình xử lý hồi quy, tùy từng trường hợp và các lỗi vi phạm mô hình khác nhau chẳng hạn như hiện tượng phương sai thay đổi, hiện tượng tự tương quan,…, tác giả sẽ sử dụng phương pháp hồi quy GLS có khắc phục hiện tượng phương sai thay đổi và/hoặc hiện tượng tự tương quan nếu có. 3 Phạm vi và đối tượng nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu là các nước trong khu vực Đông Nam Á, bao gồm 11 nước: Brunei, Indonesia, Campuchia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines, Singapore, Thái Lan, Đông Timor và Việt Nam. Thời gian nghiên cứu từ năm 2003 đến năm 2015. Đối tượng quan sát là các cặp quốc gia: nước đầu tư – nước chủ nhà. Dữ liệu đầu tư FDI giữa các cặp quốc gia này được lấy từ số liệu đầu tư chéo giữa các nước trên thế giới từ năm 2003 đến 2015 của Hiệp hội Liên Hiệp Quốc về Thương Mại và Phát Triển (UNCTAD). Từ các quan sát này, tác giả thu thập các dữ liệu khác: Chỉ số Nhận thức tham nhũng (Corruption Perceptions Index), Chênh lệch tham nhũng, Chỉ số Phát triển con người (Human Development Index), Chỉ số Luật pháp (Rule of Law), Chỉ số Quan liêu (Bureaucracy), Chỉ số Tự do kinh tế (Economic Freedom), Chỉ số Trình độ học vấn (Education Attainment), Chỉ số Lạm phát (Inflation), Chỉ số Phát triển hạ tầng (Infrastructure), Chỉ số Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product), Chỉ số Thất nghiệp (Unemployment rate). Bố cục luận văn Kết cấu của luận văn được trình bày như sau: Chương 1: Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI. Khái niệm tham nhũng. Định nghĩa chênh lệch tham nhũng và cách đo lường. Tổng quan cơ sở lý thuyết. Trình bày mối quan hệ của tham nhũng, chênh lệch tham nhũng đối với dòng vốn đầu tư FDI trong các nghiên cứu trước đây. Chương 2: Trình bày tổng quan về tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI và tình hình tham nhũng trên phạm vi thế giới, khu vực châu Á và khu vực Đông Nam Á. Chương 3: Trình bày về dữ liệu nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và mô hình nghiên cứu. Đồng thời, nêu các giả thuyết nghiên cứu và kỳ vọng dấu của các mô hình. 4 Chương 4: Trình bày về kết quả nghiên cứu và kết luận. Trong phần này, người đọc sẽ nhận thấy sự tác động của tham nhũng và chênh lệch tham nhũng đến dòng vốn FDI đầu tư vào các nước khu vực Đông Nam Á. Từ đó, tác giả đưa ra một số khuyến nghị của đề tài. 5 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT. MỐI QUAN HỆ CỦA THAM NHŨNG VÀ FDI TRONG CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY 1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một hoạt động kinh doanh quốc tế dựa trên cơ sở của quá trình dịch chuyển tư bản giữa các nước, chủ yếu do các pháp nhân hoặc thể nhân thực hiện theo hình thức nhất định; trong đó chủ đầu tư tham gia trực tiếp vào quá trình điều hành, quản lý và sử dụng vốn đầu tư. Theo Wikipedia: FDI là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước ngoài và nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền sản xuất kinh doanh cơ sở này. Theo IMF: FDI là hình thức đầu tư ra khỏi biên giới nước, trong đó người đầu tư trực tiếp đạt được một phần hay toàn bộ quyền sở hữu lâu dài một doanh nghiệp ở một nước khác. Quyền sở hữu này tối thiểu phải là 10% tổng số cổ phần của doanh nghiệp. Theo OECD (1996) cho rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài phản ánh mục tiêu có được một lợi ích lâu dài của một thực thể thường trú trong một nền kinh tế (chủ đầu tư trực tiếp) với một thực thể trong một nền kinh tế khác của các nhà đầu tư (doanh nghiệp đầu tư trực tiếp). Các lợi ích lâu dài này ngụ ý sự tồn tại của một mối quan hệ lâu dài giữa các nhà đầu tư trực tiếp, doanh nghiệp và một mức độ đáng kể ảnh hưởng đến quản lý của doanh nghiệp. Đầu tư trực tiếp liên quan đến cả giao dịch ban đầu giữa hai thực thể và tất cả các giao dịch vốn giữa họ và giữa các doanh nghiệp trực thuộc, trong trường hợp cả hai đã hợp nhất hay vẫn chưa hợp nhất. Theo tổ chức thương mại thế giới WTO: “FDI xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư, hoặc nước chủ nhà) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà họ quản lý ở nước ngoài là các công ty kinh doanh. 6 Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay được gọi là "công ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công ty". Theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc một tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp dồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định của Luật này”. Tóm lại: FDI là một khoản đầu tư với những quan hệ lâu dài theo đó một tổ chức trong một nền kinh tế (nhà đầu tư trực tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác. Đặc điểm của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Dunning (1993) đã chỉ ra có 3 nhân tố chính của dòng vốn FDI là dựa vào động cơ sau sự đầu tư đó là sự trông mong của các nhà đầu tư. Yếu tố thứ nhất của dòng vốn FDI đó chính là tìm kiếm thị trường (market-seeking). Dòng vốn FDI này chủ yếu hướng tới các thị trường trong nước và trong khu vực hay còn gọi là dòng vốn FDI thay thế. Dòng vốn FDI thứ hai đó là dòng vốn tìm kiếm nguồn lực (resource-seeking), dòng vốn này nhằm hướng đến tìm kiếm nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động rẻ. Một dòng vốn nữa đó là tìm kiếm hiệu quả (efficiency-seeking). Do đó, nguồn vốn FDI có những đặc điểm sau: - Chênh lệch về năng suất cận biên của vốn các nước. Helpman và Sibert, Richard S.Eckaus cho rằng có sự khác nhau về năng suất cận biên (số có thêm trong tổng số đầu ra mà một nhà sản xuất có được do dùng thêm một đơn vị của yếu tố sản xuất) của vốn giữa các nước. Một nước thừa vốn thường có năng suất cận biên thấp hơn, còn một nước thiếu vốn thường có năng suất cận biên cao hơn. Tình trạng này sẽ dẫn đến sự di chuyển dòng vốn từ nơi dư thừa sang nơi khan hiếm nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Vì chi phí sản xuất của các nước thừa vốn thường cao hơn các nước thiếu vốn. Tuy nhiên như vậy không có nghĩa là tất cả những hoạt động nào có năng xuất cận biên cao mới được doanh nghiệp đầu tư 7 sản xuất mà cũng có những hoạt động quan trọng, là sống còn của doanh nghiệp thì họ vẫn tự sản xuất cho dù hoạt động đó cho năng suất cận biên thấp. - Chu kỳ sản phẩm. Đối với hầu hết các doanh nghiệp tham gia kinh doanh quốc tế thì chu kỳ sống của các sản phẩm này bao gồm 3 giai đoạn chủ yếu là: giai đoạn sản phẩm mới; giai đoạn sản phẩm chín muồi và giai đoạn sản phẩm chuẩn hóa. Akamtsu Kaname (1962) cho rằng sản phẩm mới, ban đầu được phát minh và sản xuất ở nước đầu tư, sau đó mới được xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Tại nước nhập khẩu, ưu điểm của sản phẩm mới làm nhu cầu trên thị trường bản địa tăng lên, nước nhập khẩu chuyển sang sản xuất để thay thế sản phẩm nhập khẩu này bằng cách chủ yếu dựa vào vốn, kỹ thuật của người ngoài (giai đoạn sản phẩm chín muồi). Khi nhu cầu thị trường của sản phẩm mới trên thị trường trong nước bão hòa, nhu cầu xuất khẩu lại xuất hiện (giai đoạn chuẩn hóa). Hiện tượng này diễn ra theo chu kỳ và do đó dẫn đến sự hình thành FDI. Raymond Vernon (1966) lại cho rằng khi sản xuất một sản phẩm đạt tới giai đoạn chuẩn hóa trong chu kỳ phát triển của mình cũng là lúc thị trường sản phẩm này có rất nhiều nhà cung cấp. Ở giai đoạn này, sản phẩm ít được cải tiến, nên cạnh tranh giữa các nhà cung cấp dẫn tới quyết định giảm giá và sau đó dẫn tới quyết định cắt giảm chi phí sản xuất. Đây là lý do để các nhà cung cấp chuyển sản xuất sản phẩm sang những nước cho phép chi phí sản xuất thấp hơn. - Lợi thế đặc biệt của các công ty đa quốc gia. Stephen H.Hymes (2960, công bố năm 1976), John H.Dunning (1981), Rugman A. (1987) và một số người cho rằng các công ty đa quốc gia có những lợi thế đặc thù (chẳng hạn năng lực cơ bản) cho phép công ty vượt qua những trở ngại về chi phí ở nước ngoài nên họ sẵn sàng đầu tư trực tiếp ra người ngoài. Khi chọn địa điểm đầu tư, những công ty đa quốc gia sẽ chọn nơi nào có các điều kiện cho phép họ phát huy các lợi thế đặc thù nói trên. Những công ty đa quốc gia thường có lợi thế lớn về vốn và công nghệ đầu tư ra các nước có sẵn nguồn nguyên liệu, giá nhân công rẻ và thường là thị trường tiêu thụ tiềm năng. Nhưng đồng thời, môi trường đầu tư cũng phải đảm bảo những tiêu chí nhất định để hoạt động của doanh nghiệp thành công. 8 - Tiếp cận thị trường và giảm xung đột thương mại. Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một biện pháp để tránh xung đột thương mại song phương. Ví dụ, Nhật Bản hay bị Mỹ và các nước Tây Âu phàn nàn do Nhật Bản có quan hệ thặng dư thương mại còn các nước kia bị thâm hụt thương mại trong quan hệ song phương. Để đối phó, Nhật Bản đã tăng cường đầu tư trực tiếp vào các thị trường đó. Họ sản xuất và bán ô tô, máy tính ngay tại Mỹ và Châu Âu, để giảm xuất khẩu các sản phẩm này từ Nhật Bản sang. Họ còn đầu tư trực tiếp vào các nước thứ ba, từ đó xuất khẩu sang thị trường Bắc Mỹ và Châu Âu. - Khai thác chuyển giao công nghệ. Không phải FDI chỉ đi theo hướng từ nước phát triển hơn sang nước kém phát triển hơn, chiều ngược lại thậm chí còn mạnh mẽ hơn nữa. - Tiếp cận nguồn tài nguyên thiên nhiên. Để có nguồn nghiên liệu thô, nhiều công ty đa quốc gia tìm các đầu tư vào những nước có nguồn tài nguyên phong phú. Làn sóng đầu tư trực tiếp ra người ngoài của Nhật Bản và thập nhiên 1950 là vì mục đích này. FDI của Trung Quốc hiện nay cũng có mục đích tương tự. 1.2 Khái niệm tham nhũng Tham nhũng thường được định nghĩa theo nghĩa hẹp như là hành động lạm dụng quyền hạn để chuộc lợi cho bản thân (Roy & Oliver, 2009). Định nghĩa này bị bác bỏ trong các báo cáo đo lường về Chỉ số nhận thức tham nhũng của các nước (Transparency International, 2010). Ví dụ như tham nhũng trong khu vực công sẽ tác động phá hủy dần dần lên tính thống nhất trong toàn bộ hệ thống của một nước: nó có thể làm giảm hiệu quả hoạt động, bóp méo chính sách công, làm chậm quá trình truyền dẫn thông tin, tác động làm giảm thu nhập nhận được và gia tăng tình trạng nghèo nàn của toàn bộ nước đó (Chen, Ding, & Kim, 2010). Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International) tham nhũng là lợi dụng quyền hành để gây phiền hà, khó khăn và lấy của dân. Tham ô là hành vi lợi dụng quyền hành để lấy cắp của công. Tham nhũng và tham ô là một hệ quả tất yếu của nền kinh tế kém phát triển, quản lý kinh tế - xã hội lỏng 9 lẻo, yếu kém tạo ra nhiều sơ hở cho các hành vi tiêu cực, hiện tượng tham nhũng và các tệ nạn có điều kiện phát triển và tại đó một phần quyền lực chính trị được biến thành quyền lực kinh tế. Tham nhũng và tham ô làm chậm sự phát triển kinh tế-xã hội, làm giảm lòng tin của công dân vào nhà nước, đến chừng mực nào đó nó gây mất ổn định chính trị, kinh tế - xã hội. Theo tài liệu đào đạo của Thanh tra Chính Phủ Việt Nam tham nhũng được hiểu là hành vi của bất kỳ người nào có chức vụ, quyền hạn hoặc được giao nhiệm vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc nhiệm vụ được giao để vụ lợi. Theo Từ điển Tiếng Việt, tham nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu nhân dân lấy của. Tài liệu hướng dẫn của Liên hợp quốc về cuộc đấu tranh quốc tế chống tham nhũng (năm 1969) định nghĩa tham nhũng trong một phạm vi hẹp, đó là sự lợi dụng quyền lực nhà nước để trục lợi riêng... Theo pháp luật Việt Nam quy định (tại Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005), tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi. Người có chức vụ, quyền hạn chỉ giới hạn ở những người làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc hệ thống chính trị; nói cách khác là ở các cơ quan, tổ chức, đơn vị có sử dụng ngân sách, vốn, tài sản của Nhà nước. Việc giới hạn như vậy nhằm tập trung đấu tranh chống những hành vi tham nhũng ở khu vực xảy ra phổ biến nhất, chống có trọng tâm, trọng điểm, thích hợp với việc áp dụng các biện pháp phòng, chống tham nhũng như: kê khai tài sản, công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị, xử lý trách nhiệm của người đứng đầu. 1.3 Khái niệm chênh lệch tham nhũng Tham nhũng thường được hiểu là hành động lạm dụng quyền lực để trục lợi cá nhân. Có rất nhiều nghiên cứu trước đây chỉ ra sự tác động của tham nhũng đến sự lựa chọn của các công ty đa quốc gia khi quyết định đầu tư vào đất nước nào. Các nghiên cứu thực nghiệm cũng đã cho thấy tác động ngược chiều giữa 10 tham nhũng và dòng vốn FDI đổ vào nước đó. Hai tác giả Habib M. & Zurawicki L., trong nghiên cứu “Country-level investments and the effect of corruption Some empirical evidence” công bố năm 2001 đã thu thập dữ liệu của 111 nước trên thế giới trong thời gian 5 năm từ 1994 đến 1998. Nghiên cứu này cũng chỉ ra tham nhũng của một nước có tác động cản trở dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI vào nước đó. Tuy nhiên, hai tác giả khác là Peter Egger và Hannes Winner trong nghiên cứu “Evidence on corruption as an incentive for foreign direct investment” công bố trên tạp chí European Jounal of Political Economy năm 2005 thì lại chỉ ra kết quả ngược lại. Trong nghiên cứu này, tác giả nghiên cứu thực nghiệm trên 73 nước phát triển cũng như đang phát triển, trong khoảng thời gian 5 năm từ 1995 đến 1999 đã công bố kết quả: có tương quan dương giữa tham nhũng và vốn đầu tư FDI vào nước đó. Ngoài ra, còn có nhiều tranh luận khác về tương quan của tham nhũng và dòng vốn FDI. Vào năm 2004, hai tác giả Eden L. & Miller S. công bố nghiên cứu “Distance matters: Liability of foreignness, institutional distance and ownership strategy” đề cập đến vấn đề đầu tư nước ngoài, trong đó, các công ty đa quốc gia đầu tư vào nước chủ nhà sẽ bị ràng buộc bởi trách nhiệm của người ngoại quốc (thuật ngữ của tác giả: liability of foreignness - LOF). Đồng thời, Eden L. & Miller S. cũng đề cập đến khái niệm “institutional distance” (tạm dịch là “khoảng cách thể chế”) để mô tả sự khác biệt về thể chế của hai nước. Từ khái niệm này, tác giả Jose R.Godinez và Ling Liu năm 2014 công bố bài viết “Corruption Distance and FDI flows into Latin America” trên tạp chí International Business Review phát triển thêm khái niệm “Corruption Distance” (tạm dịch là “chênh lệch tham nhũng”) để phân tích tác động đến dòng vốn FDI đầu tư vào các nước Châu Mỹ Latin. Do đó, nghiên cứu này cũng kế thừa khái niệm chênh lệch tham nhũng từ các tác giả đi trước, và ứng dụng vào nghiên cứu ở các nước trong khu vực Đông Nam Á. 11 Định nghĩa Chênh lệch tham nhũng là sự khác biệt về tham nhũng giữa hai nước. Trong quá trình phát triển và hoạt động kinh tế, mỗi nước đã tự hình thành nên những nét đặc trưng riêng cho môi trường kinh doanh ở đất nước mình. Chẳng hạn như tham nhũng, các công ty trong nước đã làm quen và thích nghi với tình trạng tham nhũng trong nước. Thậm chí, các công ty đã hình thành nên những hành vi và chiến lược kinh doanh tương ứng với tình trạng tham nhũng trong nước. Tuy tham nhũng tăng thêm chi phí ngoài sổ sách đối với doanh nghiệp nhưng nó cũng là chất bôi trơn cho các giao dịch, Meon & Weill (2010). Vấn đề là khi một công ty đa quốc gia đến từ nước đầu tư và bỏ vốn FDI vào một nước chủ nhà nào đó. Môi trường kinh doanh khác biệt, tình trạng tham nhũng khác biệt liệu có ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của công ty này. Khái niệm chênh lệch tham nhũng đã được đưa ra vì những lý do sau: Thứ nhất, sự khác biệt về thể chế mới chính là nguyên nhân tác động đến quyết định lựa chọn nước đầu tư của công ty đa quốc gia. Nhưng chúng ta không thể xây dựng một mô hình phức tạp để đánh giá nét đặc trưng riêng của từng nước và sau đó so sánh giữa các nước này với nước khác được. Thay vào đó, chúng ta sử dụng khái niệm chênh lệch tham nhũng, như là một tập hợp con của tập hợp khác biệt thể chế giữa hai nước, Jose R.Godinez và Ling Liu (2014). Thông thường, khi có một giao dịch giữa khu vực tư và khu vực công, tham nhũng thường là áp lực của khu vực công đối với khu vực tư (Habib và Zurawicki, 2002). Do đó, khi khảo sát mức độ tham nhũng của một quốc gia thì cũng đồng nghĩa với việc thu thập nhận định của khu vực tư (các doanh nhân, nhà đầu tư nước ngoài, …) về vấn đề tham nhũng của khu vực công (Transparency International, 2010). Có thể nói, tham nhũng gắn liền với khu vực công nhiều hơn là khu vực tư. Cho nên, chênh lệch tham nhũng thể hiện được phần nào khoảng cách về thể chế giữa hai nước. Thứ hai, có sự khác biệt trong hành vi đầu tư FDI từ một nước rất tham nhũng đến một nước ít tham nhũng hơn so với hành vi đầu tư từ một nước ít tham 12 nhũng đến một nước tham nhũng nhiều hơn (Habib & Zurawicki, 2001). Các công ty đa quốc gia đến từ nước tham nhũng cao đã có kinh nghiệm trong việc đối phó với tham nhũng, thậm chí họ đã phát triển hành vi hối lộ và các mánh khóe khác để khai thác yếu tố tham nhũng như là một chất bôi trơn cho hoạt động kinh doanh. So với các công ty khác, đây là một lợi thế và họ sẽ tận dụng kiến thức về tham nhũng này khi hoạt động ở các nước chủ nhà ít tham hơn. Ngược lại, các công ty đa quốc gia đến từ các nước tham nhũng thấp (thường là các nước đã phát triển) thì khá nghiêm khắc đối với vấn đề tham nhũng, họ xem đây là rào cản đối với việc đầu tư của mình. (Godinez & Liu, 2014). Do đó, có 2 nhóm với 2 hành vi đầu tư FDI khác nhau: (1) nhóm chênh lệch tham nhũng dương: là các cặp quốc gia mà nước đầu tư tham nhũng hơn so với nước chủ nhà; và (2) nhóm chênh lệch tham nhũng âm: là các cặp quốc gia mà nước đầu tư ít tham nhũng hơn so với nước chủ nhà. Đo lường Tham nhũng được đo lường bằng chỉ số nhận thức tham nhũng (CPI) được tổ chức Minh Bạch Thế Giới công bố hàng năm. Chỉ số CPI được tính dựa trên số liệu từ nhiều tổ chức khác nhau trên thế giới, chẳng hạn như: Chỉ số quản trị bền vững (Sustainable Governance Indicator) của Quỹ Bertelsmann, niên giám cạnh tranh thế giới của Viện phát triển quản lý (International Institute for Management Development), chỉ số hiệu suất quốc gia và đánh giá thể chế (Country Performance and Institutional Assessment) của Ngân hàng thế giới,… Các chỉ số phải đảm bảo những nguyên tắc do tổ chức Minh Bạch Thế Giới đưa ra và giám sát. Thang đo là số điểm từ 0 đến 100 (trước năm 2010, thì thang đo từ điểm 0 đến điểm 10 nhưng không quá khó để chúng ta tự quy về thống nhất thang đo 100 điểm). Với điểm 100 là nước đó không tham nhũng, tình hình kinh tế vô cùng trong sạch và lành mạnh. Các nước càng tham nhũng thì càng có chỉ số nhận thức tham nhũng thấp và ngược lại. Dựa vào chỉ số nhận thức tham nhũng này, chúng
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan