Chất sử thi qua hai tác phẩm: Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành và Những đứa
con trong gia đình – Nguyễn Thi.
Ra đời trong một giai đoạn lịch sử đặc biệt, với hai cuộc kháng chiến chống Pháp
và chống Mĩ gian khổ, ác liệt nhưng cũng rất hào hùng của dân tộc , văn học 19451975 là nền văn học của chủ nghĩa yêu nước. Mỗi nhà văn sáng tác trong giai đoạn
này phải là một chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, dùng ngòi bút của mình để ngợi ca
cổ vũ cuộc kháng chiến của toàn dân tộc và văn học trở thành một bộ phận không
thể thiếu trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng, góp phần vào thắng lợi vĩ đại của
dân tộc. Do vậy văn học giai đoạn này là tiếng nói chung của cả cộng đồng dân tộc
trước thử thách quyết liệt : Tổ quốc còn hay mất; độc lập tự do hay là nô lệ. Các
tác phẩm trong văn học ra đời trong giai đoạn này hầu hết đều mang đậm khuynh
hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn chính là từ sự chi phối của thời đại. Nhà văn
Nguyễn Trung Thành và Nguyễn Thi chính là cũng vậy, họ cùng ngợi ca những
con người anh hùng nhưng không ai giống ai, mỗi nhà văn lại có một lối khắc họa
nhân vật riêng và chúng ta biết đến cả hai như những cây bút đóng góp tích cực
vào nền văn học phục vụ Cách mạng, cổ vũ chiến đấu. Có thể nói “Rừng xà nu”
của Nguyễn Trung Thành hay “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi
đều là những tác phẩm xuất sắc mang đậm khuynh hướng sử thi và chủ nghĩa anh
hùng Cách mạng.
Hoà trong dòng chảy văn học dân tộc, khuynh hướng sử thi là một đặc điểm tiêu
biểu làm nên giá trị đặc sắc cho nhiều mảng tác phẩm. Từ những thi phẩm gắn bó
cùng thời đại như: Việt Bắc (Tố Hữu), Đất nước (Nguyễn Đình Thi), Đất Nước
(Nguyễn Khoa Điềm)... đến những áng văn hiện thực như: Đất (Anh Đức), Người
mẹ cầm súng (Nguyễn Thi), Đất nước đứng lên (Nguyễn Trung Thành)... đều mang
dáng dấp, đặc trưng tiêu biểu. Và nhìn chung, nội dung mà tác phẩm mang khuynh
hướng sử thi đề cập thường liên quan đến số phận, vận mệnh cộng đồng; nhân vật
trung tâm tiêu biểu cho phẩm chất, khát vọng của cả cộng đồng và được khắc hoạ
theo lối lí tưởng hoá trong không gian nghệ thuật hoành tráng.
Trong tiến trình lịch sử văn học dân tộc, sự chi phối của thời đại luôn có ảnh hưởng
sâu rộng đến trào lưu, quan điểm văn chương,... Đặc biệt, nền văn học Việt Nam
giai đoạn 1945-1975 là một sự chuyển mình hòa theo dòng chảy lịch sử với hai
cuộc chiến tranh vệ quốc vô cùng cam go và ác liệt. Giữa bối cảnh lịch sử đầy gian
khổ ấy, văn học không thể đứng bên lề sự chi phối tất yếu của thời đại. Chính vì
vậy, chủ nghĩa cá nhân ở giai đoạn này đã lùi lại để cho cái ta chung hòa cùng cuộc
chiến đấu oanh liệt của dân tộc. Văn học trong giai đoạn này đóng vai trò quan
trọng là một thứ vũ khí phục vụ Cách mạng, cổ vũ chiến đấu:
Dùng cán bút làm đòn xoay chế độ
Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền.
(Sóng Hồng)
Gánh trên vai trách nhiệm và sứ mệnh thiêng liêng, trọng đại đối với vận mệnh dân
tộc, nền văn học của chủ nghĩa yêu nước mang đậm khuynh hướng sử thi trong
nhiều thể loại với nhiều tác phẩm. Tác phẩm mang khuynh hướng sử thi trong giai
đoạn này thường có nội dung đề cập đến sự kiện mang tầm lịch sử, gắn với số phận
của toàn dân tộc. Nhân vật trung tâm ở đây là những con người gắn bó số phận
mình với số phận đất nước và kết tinh những phẩm chất cao quý của cộng đồng –
trước hết đại diện cho giai cấp, cho dân tộc và thời đại. Với người cầm bút, cũng
nhân danh cộng đồng mà ngưỡng mộ, ngợi ca người anh hùng với những chiến
công chói lọi. Trên phương diện nghệ thuật, khuynh hướng sử thi thể hiện ở cách
xây dựng nhân vật mang tầm vóc, kích cỡ sử thi, được đặt trong sự liên tưởng, so
sánh theo lối thi vị hóa, lí tưởng hóa. Đặc biệt, không gian nghệ thuật của tác phẩm
gợi nên tất cả sự trang nghiêm, hoành tráng. Nhìn chung, khuynh hướng sử thi của
văn học giai đoạn 1945-1975 là sự tiếp nối và phát triển mạnh mẽ khuynh hướng
sử thi trong văn học dân tộc nói chung giữa bối cảnh lịch sử của hai cuộc chiến đấu
chống Pháp và chống Mĩ cứu nước.
“Rừng xà nu” được viết ra vào giữa năm 1965, trong những ngày bắt đầu cuộc
chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ ở miền Nam nước ta. Đó là những ngày sôi sục,
quyết liệt, hào hùng: dân tộc ta bước vào cuộc chiến đấu một mất một còn với đế
quốc Mỹ. Tuy kể về những sự kiện xảy ra trước đó mấy năm nhưng truyện ngắn
này đã tiếp được hơi thở hào hùng của thời đại và hiện thực được mô tả mang đậm
ý nghĩa phổ quát. Chuyện của làng Xô Man trở thành chuyện của cả “Đất nước
đứng lên” trong cuộc đối đầu lịch sử, và “ Rừng xà nu” như một biểu tượng của
tinh thần bất khuất, kiên cường của đồng bào Tây Nguyên nói riêng và đồng bào cả
nước nói chung.
Hình tượng lớn bao trùm tác phẩm là hình tượng những cây xà nu, rừng xà nu. Đó
là nguồn mạch cảm hứng dạt dào, gợi nhà văn suy ngẫm về mạch sống của đất
nước, của nhân dân. Nếu như truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành
là một bản trường ca bất tận, thì hình ảnh rừng xà nu vừa là khúc nhạc dạt dào, vừa
là âm nền cho mọi sự biến hoá về tiết tấu, vừa là cái vĩ thanh láy lại ở cuối truyện
gợi âm hưởng vang vọng trong lòng bạn đọc. Giữa bản nhạc đó, xà nu như một tiết
tấu trữ tình xen lẫn vào từng khuôn, từng cung bậc. Xà nu gắn bó với cuộc sống tự
ngàn đời của dân làng Xô Man: ngọn khói xà nu cay xè mắt bao thế hệ con người,
tấm phên có phết nhựa xà nu gắn liền với bao ngôi nhà, ngọn đuốc xà nu góp mặt
trong từng góc bếp cho đến buổi họp nhà ưng... Xà nu gắn bó, hoà nhập, ăn sâu
vào tiềm thức con người. Xà nu trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp phẩm chất và số
phận của con người Tây Nguyên.
Xà nu hiện lên với một vẻ đẹp xanh rờn hùng vĩ – “đứng trên đồi xà nu ấy trông ra
xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp chân
trời”. Miêu tả xà nu, Nguyễn Trung Thành chưa bao giờ miêu tả một thân cây riêng
lẻ mà luôn có ý thức đặt nó bên cạnh cộng đồng những cây xà nu khác, tất cả đã
tạo nên một vẻ đẹp của sự đông đảo, rộng lớn và hùng vĩ. Những cánh rừng xà nu
tít tắp, ngút ngàn, chiếm lĩnh tất cả mảnh đất ngọn đồi cũng như tâm tư tình cảm
của con người Tây Nguyên. Cũng giống như con người Tây Nguyên tự bao đời,
những cây xà nu lớn nhỏ khác nhau nhưng đều mang một vẻ đẹp khỏe khoắn và
hoang sơ của rừng núi – “ ấy là một thứ cây hùng vĩ mà cao thượng, man dại và
trong sạch, mỗi cây cao vút, ứa nhựa, tán lá vừa thanh nhã vừa rắn rỏi mênh mông,
tưởng như đã sống ngàn đời, còn sống đến ngàn đời sau, từng cây, hàng vạn, hàng
triệu cây vô tận...”. Và đáng quý hơn, bên trong cái vẻ đẹp man dại đó là một sức
sống tràn trề, mãnh liệt. Dưới nòng đại bác, “cả cánh rừng xà nu hàng vạn cây
không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngay nửa thân mình,
đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt,
long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục
máu lớn...”. Tưởng chừng dưới sức phá huỷ khủng khiếp của bom đạn, rừng xà nu
có nguy cơ tàn lụi, nhưng không “cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm
cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Thế
mới biết cuộc sống thật là kỳ diệu, cuộc sống trên mảnh đất Tây Nguyên ấy vẫn cứ
tiếp diễn, vẫn cứ sinh sôi, nảy nở như thách thức sự khắc nghiệt của hoàn cảnh. Đó
là một sức sống bất diệt, mà mỗi thân cây xà nu kiên cường, bất khuất là một mắc
xích không thể tách rời. Cũng như mỗi con người nơi đây, luôn đoàn kết, đồng
lòng để đối mặt với kẻ thù hiểm ác. Họ đã sống và chiến đấu kiên cường, bao lớp
người đã ngã xuống, thế hệ sau vẫn tiếp tục. Họ kết thành một tập thể nhân dân anh
hùng hiên ngang giữa mưa bom bão đạn như bạt ngàn rừng kia, mặc cho một ngày
hai lần đại bác, những cây xà nu vẫn vươn lên cao vút, hướng thẳng về phía mặt
trời. Và ham ánh nắng mặt trời đến kỳ lạ là cái đặc biệt mà Nguyễn Trung Thành
đã phát hiện ở sinh thể thú vị này – “nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng,
thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên xuống từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số
bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng”. Những cây xà nu nhờ ánh nắng mặt
trời mà lớn lên, phô ra tất cả vẻ đẹp của nhựa sống tràn trề, ngào ngạt. Rừng xà nu
vươn thẳng, vút cao dưới ánh mặt trời cũng như biết bao dân làng Xô Man với khát
vọng lí tưởng mãnh liệt, giữa khó khăn, gian khổ và cả hi sinh, mất mát vẫn một
lòng hướng đến ánh sáng Cách mạng. Dưới ánh sáng Cách mạng họ trở nên hùng
vĩ, đẹp đẽ lạ thường, một vẻ tinh khiết, trong ngần mà sáng chói cũng như những
cây xà nu khoe hương thơm ngào ngạt dưới ánh mặt trời, họ toả ngát hương với lí
tưởng cao đẹp và một tấm lòng nồng nàn yêu quê hương đất nước. Đó không chỉ là
khát vọng của một làng Xô Man mà còn đại diện cho phẩm chất quý báu của biết
bao con người Tây Nguyên, của đồng bào miền Nam giữa những năm tháng chiến
tranh ác liệt.
Cánh rừng xà nu mênh mông vô tận gợi lên cho câu chuyện một không khí hoang
vu hùng vĩ, của đại ngàn mà ở đó ghi lại số phận những con người của làng Xô
Man. Những đoạn rừng xà nu ngổn ngang gãy đổ trong mưa đạn, những cây lớn đã
chết, những cây con vẫn tiếp tục vươn lên, những cây lớn ngã xuống đã có thế hệ
cây con mọc lên thay thế, cứ như vậy, tầng tầng tầng lớp lớp xà nu đã duy trì cái
màu xanh bền bỉ của núi rừng. Dân làng Xô Man cũng vậy, dưới làn đạn kẻ thù,
không biết bao nhiêu người đã ngã xuống, trước có, sau có, từ anh Xút, bà Nhan,
đến Mai, rồi con Mai đã hi sinh... đất chép tội dày thêm, tội ác quân thù chồng chất
và tấm lòng yêu nước, căm thù giặc của nhân dân càng lúc càng ngút lên cao vợi.
Dân làng ra sức chiến đấu, cụ Mết cầm giáo, Tnú cầm súng, rồi đến Dít, đến
Heng... họ vẫn mãi chiến đấu cho lí tưởng và khát vọng của dân tộc – cuộc đấu
tranh không ngừng không nghỉ với khí thế sục sôi. Ý chí và quyết tâm đó cứ thế
truyền lại, truyền lại cho thế hệ mai sau. Có thể nói hình ảnh rừng xà nu như thổi
một cơn gió của Tây Nguyên vào tác phẩm. Rừng xà nu chiếm lĩnh và trở thành
không gian nghệ thuật cho truyện ngắn – không gian bao bọc câu chuyện về cuộc
đời và số phận những con người Tây Nguyên.
Cây xà nu xuyên suốt cả tác phẩm, khi thì tách ra, khi thi hoà nhập với con người,
trở thành biểu tượng của con người. Và, Tnú – nhân vật chính của tác phẩm – là
một cây xà nu trẻ khỏe, hiên ngang, kiên cường, bất khuất, bất diệt trong đại ngàn
xà nu của mảnh đất Tây Nguyên.
Tnú mồ côi cha mẹ từ nhỏ, anh lớn lên trong vòng tay yêu thương của dân làng và
trải qua nhiều mất mát đau thương. Đó là một cuộc đời đầy bi tráng, một số phận
bất hạnh nhưng cũng là một tâm hồn trong sáng, tốt đẹp, giàu tình cảm yêu thương.
Đặc biệt, tình cảm của anh dành cho dân làng, cho mảnh đất quê hương, cho vợ
con mình thật dạt dào và tha thiết. Sống từ nhỏ trong vòng tay của dân làng, Tnú đã
gắn bó với mọi người như gia đình ruột thịt, ta bắt gặp trên đôi môi Tnú sự bồi hồi,
mừng rỡ khi anh trở về làng, gọi tên, nhận mặt, thăm hỏi từng người. Và đặc biệt là
đối với già làng Mết, ba năm xa cách, Tnú rất đỗi sung sướng nhận thấy ông cụ vẫn
“quắc thướt như xưa... ngực căng như một cây xà nu lớn.”
Tình yêu quê hương đã chan hoà trong tình thương mến những con người của quê
hương, tình làng nghĩa xóm trong tâm hồn Tnú mặn mà, sâu nặng. Tnú yêu con
người, yêu từng cánh rừng, con suối quê hương. Anh lặng ngắm hồi lâu cánh rừng
xà nu trong nắng, thấy hết sự huỷ diệt của bom đạn kẻ thù, thấy hết sức sống mãnh
liệt của xà nu. Khi chia tay, Tnú bịn rịn, bâng khuâng giã từ cánh rừng như giã từ
một người ruột thịt. Và ta hiểu rằng rừng cây mảnh đất quê hương gắn bó với bao
kỉ niệm êm đềm, dữ dội, dù hạnh phúc hay đau thương thì đó vẫn là một nỗi nhớ
niềm thương trong lòng Tnú.
Tình cảm Tnú thật sự làm ta cảm động, đặc biệt là tình cảm anh dành cho vợ con
mình. Anh thương con bằng tình thương của một người cha hiền hậu, quan tâm
chăm sóc: Tnú đã xé đôi tấm dồ của mình làm tấm áo choàng ủ ấm cho con. Rồi
khi vợ con mình bị bọn ác ôn đánh đập, anh liều mình lao vào giữa đám dã thú để
che chở vợ con. Và bi kịch lớn nhất của đời Tnú, Tnú không cứu sống được vợ con
mình, bàn tay Tnú bị đốt đến thương tật suốt đời. Nhưng bàn tay ấy có đáng là bao
với nỗi đau mất vợ và con – một nỗi đau tinh thần quá lớn. Vậy mà Tnú không gục
ngã, Tnú đứng lên, hiên ngang như cây xà nu trong mưa bom bão đạn.
Tnú cũng bình thường, ít nói như mọi người khác trong dân làng Xô Man này,
nhưng bên trong cái thầm lặng đó, là một trái tim luôn dạt dào, ấm áp tình cảm yêu
thương.
Tnú còn là hiện thân của một người chiến sĩ thời đại sớm giác ngộ Cách Mạng, yêu
nước và tuyệt đối trung thành với Cách Mạng. Bản lĩnh Cách Mạng đã hun đúc
trong con người anh từ nhỏ, đó là một tuổi thơ anh hùng, cùng Mai xung phong
vào rừng nuôi cán bộ. Bản tính Tnú gan lì, nhưng đã biết nghe lời anh Quyết, tin
yêu anh bằng tình cảm chân thành trong sáng. Và tình cảm Cách Mạng ấy đã dược
thử thách qua biết bao khốn khó, gian lao, bao đau khổ, hi sinh và mất mát. Trong
bi kịch lớn nhất đời mình, khi vợ và con trai đều đã chết, khi mười đầu ngón tay bị
giặc đốt, đau đớn tột cùng, căm hờn ứa máu, đối mặt với cái chết, với kẻ thù nhưng
Tnú vẫn hướng về Cách mạng, luôn giữ vững lòng trung thành, giữ vững tư thế
hiên ngang, bất khuất của người cộng sản.
Trước sự hung hiểm, tàn bạo và độc ác của kẻ thù, Tnú hiện lên với vẻ đẹp như
một cây xà nu cường tráng của dân làng Xô Man – thật kiên cường, bất khuất. Lần
đầu bị giặc bắt, suốt ba năm bị giam cầm, tra khảo, đánh đập, Tnú vẫn không khai,
vẫn giữ trọn phẩm chất Cách mạng. Rồi anh vượt ngục trở về, thành lập đội du
kích chiến đấu bảo vệ dân làng, quyết tâm tiêu diệt kẻ thù. Bản lĩnh của một người
cộng sản chân chính đã giúp Tnú không chịu khuất phục trước mọi khó khăn, giữ
vững lòng nhiệt thành Cách Mạng. Lần thứ hai bị giặc bắt là lần Tnú xông ra cứu
vợ con mình. Một lần nữa Tnú đối mặt với nỗi đau, với cái chết cận kề gang tấc.
Kẻ thù đã đốt bàn tay Tnú, mười ngón tay rực lửa, “mười ngón tay đã biến thành
mười ngọn đuốc”, khủng khiếp, ghê sợ, cảm thương và đầy căm giận... chúng ta
như đau cùng Tnú, đau nỗi đau thể xác, đau nỗi đau tinh thần sâu sắc. Nhưng, kì
diệu thay, đau thương đã hoá thành sức mạnh, bản lĩnh kiên cường đã vượt qua
giới hạn chịu dựng của con người, giữa tất cả đau đớn, mất mát, cái chết, Tnú nghĩ
tới anh Quyết, nghĩ về Cách mạng, Tnú đã chiến thắng chính mình. Từ thế bị động,
bị dồn đến đường cùng, người con của dân làng Xô Man đã cùng dân làng vùng
dậy. Tnú thét lên một tiếng, ngay lập tức tiếng thét ấy chuyển thành nhiều tiếng
thét dữ dội hơn, tiếng “giết!” – kẻ thù đã nằm xuống dưới những lưỡi dao, lưỡi rựa,
dưới ý chí kiên cường, dưới sự gan dạ, dưới tinh thần bất khuất của Tnú và dân
làng Xô Man. Sức mạnh của sự đoàn kết, của quyết tâm tiêu diệt kẻ thù đã chiến
thắng tất cả.
Truyện ngắn “Rừng xà nu”, đã khắc hoạ thành công hình ảnh nhân vật Tnú, mang
một vẻ đẹp tình cảm dạt dào, một bản lĩnh kiên cường, gan dạ, Tnú là biểu tượng,
là sự tập trung những vẻ đẹp nhân cách, lẽ sống của cộng đồng nhân dân Xô Man.
Con người Tnú rực sáng cho sức sống anh hùng của cộng đồng người dân Tây
Nguyên yêu quê hương, giàu lòng nhân hậu, trung thành với Cách Mạng, kiên
cường, bất khuất đoàn kết trong tiêu diệt kẻ thù chung.
Tnú là một chiến sĩ Cách mạng gan dạ, kiên cường mà dường như những phẩm
chất ấy luôn hiện hữu qua một hình ảnh đầy ấn tượng trong tác phẩm: đôi bàn tay
anh. Đôi bàn tay Tnú cũng bình thường như bao nhiêu đôi bàn tay khác nhưng đã
được chạm khắc và nổi bật như một đôi bàn tay huyền thoại. Đôi bàn tay Tnú cũng
đẹp bình thường như bao người dân làng Xô Man khác. Đôi bàn tay mười ngón
thon dài như những cây xà nu con vươn lên trong nắng, đôi bàn tay của biết bao
công việc bình thường: đi hái củi, đi lấy nước, lấy đá... từ đỉnh núi Ngọc Linh. Đó
là biểu trưng cho một đôi bàn tay lao động rắn khỏe, thể hiện sự linh hoạt, tháo vác
trong cuộc sống hằng ngày. Không những thế, đôi bàn tay ấy là đầu mối thể hiện
tình cảm yêu thương. Tnú cũng ít nói như những người Xô Man này, nhưng trái
tim anh cũng như họ, có những ngôn ngữ thể hiện riêng bằng những hành động
quan tâm và yêu thương sâu sắc. Đôi bàn tay ấy đã tự đập đá vào đầu mình, chảy
máu như một sự hối hận; đôi bàn tay đã xé đôi tấm dồ dành một nửa cho đứa con
bé bỏng của mình; đôi bàn tay đã nắm lấy tay Mai và đôi cánh tay như cánh lim
chắc chắn ôm lấy mẹ con họ, chở che. Đôi bàn tay vẹn nguyên lành lặn đã đi hết
một hành trình với bao niềm vui và cảm xúc yêu thương, bao kỷ niệm gắn với Mai
và con nhỏ, gắn với một thời kỳ gian khổ chống giặc và hạnh phúc vô bờ khi được
bên cạnh vợ con. Đôi bàn tay bằng xương thịt bình thường cũng thật phi thường
biết mấy.
Cũng giống như cánh rừng xà nu vẫn thuỷ chung gắn bó với dân làng Xô Man từ
ngàn đời, tâm hồn và trái tim Tnú nổi bật một vẻ đẹp trung thành, chung thuỷ; và
đôi bàn tay Tnú là đôi bàn tay tình nghĩa sắc son, thuỷ chung trong tình cảm với
Mai, với làng Xô Man và tuyệt đối trung thành với Cách mạng. Tnú và Mai là một
khúc nhạc trong trẻo, hoang sơ của rừng già. Tuổi thơ, Tnú đã cùng Mai vào rừng
nuôi cán bộ, hai bàn tay đã nắm chặt với nhau trên một chặng đường dài, từ nét
chữ i tờ ngày ấy và sẽ còn nắm mãi nếu Mai không bị giết bởi tay bọn ác ôn...
Trong suốt những tháng ngày kỉ niệm, đôi bàn tay Tnú cùng Mai vượt qua mọi khó
khăn, chia sẻ với nhau hạnh phúc ngọt ngào và đã che chở cho Mai đến giây phút
cuối cùng. Giây phút mẹ con Mai chết là giây phút bi phẫn nhất trong cuộc đời
Tnú, lửa kẻ thù hay lửa của bao uất ức sôi sục đã thiêu đốt đôi bàn tay đẹp đẽ xưa.
Thằng lính quấn giẻ tẩm dầu xà nu bôi lên mười đầu ngón tay Tnú, thằng Dục cầm
cây lửa gí sát vào mặt, rồi chân và tay anh. Một ngón tay Tnú bốc cháy, hai ngón,
ba ngón,... “ mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc”. Lửa đã thiêu đốt thể xác,
lửa bên trong là sự đấu tranh mãnh liệt và gay gắt của tâm hồn. Một bên là sự đau
đớn vô cùng, một bên là ý chí kiên cường của người chiến sĩ, và hơn thế đó là cái ý
chí quyết tâm chống chịu tới cùng, trong hoàn cảnh ấy chỉ một tiếng kêu la cũng đủ
làm vỡ tan tất cả. Nhưng Tnú không khóc, đau thương đến chết Tnú vẫn luôn ý
thức rằng “người cộng sản không thèm kêu van...”, bởi vì “khóc là nhục, rên hèn,
van yếu đuối”, người chiến sĩ khóc trước những khó khăn, van rĩ trước những nỗi
đau đồng nghĩa với sự thất bại và chịu khuất phục. Giữa việc thắng tâm hồn mình,
thắng số phận mình, Tnú mạnh mẽ hiên ngang giữ vững một tinh thần oai hùng và
một tấm lòng trung thành tuyệt đối. Đôi bàn tay cháy ngùn ngụt trong lửa đỏ, phải
chăng còn là một ẩn dụ tuyệt đẹp cho quá trình tu luyện, hun đúc của người chiến
sĩ nhân dân Tnú. Và như thế, bàn tay Tnú lại đẹp hơn theo một vẻ khác, vẻ đẹp của
chất vàng nhân phẩm, của tinh thần Cách mạng. Nhìn đôi bàn tay Tnú, đôi bàn tay
bị cụt mỗi ngón một đốt đã thô lại, không hoàn hảo và thậm chí đáng sợ, ai cũng
biết rằng bàn tay ấy, con người ấy đã trải qua đau thương dữ dội. Nhưng không ai
có thể ngờ rằng, trong cùng một lúc bi kịch giáng xuống cuộc đời Tnú là quá sức
chịu đựng với con người bình thường. Trong cùng một lúc, hai người thân yêu duy
nhất bị giết dưới bàn tay tàn bạo của kẻ thù, trong cùng một lúc đôi bàn tay bị thiêu
trong lửa đỏ rực – hai nỗi đau tâm hồn, một nỗi đau thể xác hoà nhập lại thành một
nỗi đau quá lớn, không cùng. Trong sự tàn bạo của chiến tranh, đôi bàn tay Tnú
phải chăng là biểu tượng, đại diện cho biết bao nỗi mất mát, hi sinh đau đớn.
Những yêu thương khô lại, lòng căm thù khắc sâu trên đôi bàn tay mỗi ngón bị cụt
một đốt để rồi biến thành sức mạnh diệt thù. Và đó là biểu tượng cao nhất cho lòng
trung thành tuyệt đối của Tnú, của dân làng Xô Man, của nhân dân Tây Nguyên
anh hùng.
Những con người như Tnú đã làm nên vẻ đẹp cho tác phẩm, đằng sau hình ảnh nổi
bật của nhân vật trung tâm là một tập thể nhân dân anh hùng. Cả làng Xô Man từ
già đến trẻ, từ lớn đến bé đều dũng cảm, hiên ngang trước quân thù. Cụ Mết, một
già làng quắc thước, “ngực căng như một cây xà nu lớn” là tập trung cho mọi sức
sống, tư tưởng, tình cảm của dân làng. Đó là hình ảnh một chiến sĩ dũng cảm đồng
thời cũng hết sức bình tĩnh, khôn khéo. Cụ buông vai Tnú ra để anh chạy đến che
chở vợ con nhưng một mặt, ông cụ chạy vào rừng tìm đám thanh niên trong làng
để giải cứu Tnú – “Tau thấy chúng nó trói mày bằng dây thừng. Tau cũng chỉ có
hai bàn tay không. Tau không ra, tau quay đi vào rừng, tau đi tìm bọn thanh niên...
Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!...”. Và tiếng cụ ồ ồ: “Chém! Chém
hết!”, thằng Dục nằm dưới lưỡi mác của cụ. Cách hành động của cụ không phải là
hành động tự phát nhất thời mà là hành động có tổ chức, rõ ràng và quyết đoán. Có
thể Tnú vì tình thương yêu vợ con nên anh không thể đứng yên nhưng cụ Mết,
trong hoàn cảnh ấy càng bình tĩnh và sáng suốt hơn. Già làng đã biết tập trung sức
mạnh của tập thể, của nhân dân để chống lại quân thù hiểm ác. Và cụ Mết là hình
ảnh một người chỉ huy tài giỏi – một cây xà nu cổ thụ rợp bóng che chở, dẫn dắt
dân làng Xô Man đồng thời cũng là người lưu giữ và nuôi dưỡng cho mạch nguồn
truyền thống của mảnh đất Tây Nguyên anh hùng. Kể chuyện về Tnú cụ hăng say
và đầy tự hào: “Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi bay còn sống phải nói lại cho
con cháu...”. Ông cụ đã kết nối sợi dây thiêng liêng của mạch nguồn truyền thống
từ thế hệ này qua thế hệ khác để nó trường tồn mãi trong lịch sử quê hương đất
nước, thấm sâu vào mỗi một cá nhân. “Ông cụ Mết của tôi... ông là cội nguồn, là
Tây Nguyên của thời Đất nước đứng lên trường tồn đến hôm nay. Ông như lịch sử
bao trùm, nhưng không che lấp sự đi tới nối tiếp và mãnh liệt, ngày càng mãnh liệt
hơn, sành sỏi hơn và tự giác hơn của các thế hệ sau...” (Nguyễn Trung Thành).
Sau hình ảnh cụ Mết, tác giả còn khắc họa biết bao con người cụ thể đã anh dũng,
bất khuất trong chiến đấu. Đó là những con người sẵn sàng xả thân hi sinh cho
Cách mạng như bà Nhan, anh Xút...; những ai đang sống và tiếp tục cuộc tranh đấu
ác liệt với quân thù từ cụ Pâng, anh Brôi đến bé Heng. Và Dít, cô bí thư chi bộ
kiêm chính trị viên xã đội là một cây xà nu non tơ tràn trề sức sống, trong bão táp
bom đạn kẻ thù vẫn lớn lên phơi phới, tỏa sáng tinh thần Cách mạng. Ngày còn
nhỏ, Dít bị địch bắn xả xung quanh, váy áo rách tươm nhưng đôi mắt vẫn mở to
không hề run sợ. Cũng như Tnú, như chị Mai, Dít một mình xung phong đi làm
liên lạc, vận chuyển thức ăn, vũ khí cho du kích. Dít là một thiếu niên gan dạ, dũng
cảm chẳng khác gì một anh hùng. Dít cũng như hình ảnh chị Mai năm nào sẽ noi
theo cụ Mết, noi theo anh Tnú cùng dân làng chống giặc, bảo vệ quê hương.
Nhà văn đã xây dựng nhân vật với nhiều cái tên, nhiều lứa tuổi, nhiều thế hệ để
khắc họa nên bức tranh tập thể anh hùng, tất cả nhằm tập trung ca ngợi sức mạnh
của khối đại đoàn kết dân tộc – cội nguồn sản sinh những anh hùng cho quê hương,
Tổ quốc. Và họ, tiêu biểu cho cuộc đấu tranh nhân dân ở một mảnh đất cụ thể,
đồng thời cũng chính là hình ảnh xông pha quyết liệt trong chiến đấu của nhân dân
miền Nam Việt Nam để bảo vệ Tổ quốc, thống nhất nước nhà.
Một lần nữa, đọc “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành ta không thể không chú
ý đến cái không khí trang trọng, cái âm hưởng ngân vang mà tác giả đã tạo nên.
Tạo nên từ những lời nói giản dị, ồm ồm, chắc nịch của cụ Mết, từ cái giọng kể
trang trọng của cụ về cuộc đời Tnú cho mọi người, cho con cháu, ta nghe như một
già làng “kể khan” về những trang sử thi huyền thoại Đăm Săn, Xinh Nhã, Đăm –
bri, về những trang lịch sử bi thương mà hào hùng của cộng đồng. Ta hồi hộp theo
dõi những bước chân anh hùng Tnú và dân làng với những ngôn ngữ hùng tráng,
mạnh mẽ, ta như cùng tác giả “chiêm ngưỡng” tượng đài người chiến sĩ Tây
Nguyên qua một “khoảng cách sử thi” giữa con người và hiện thực được kể lại.
Đồng thời cách khắc hoạ hình ảnh hùng tráng, quyết liệt, sống động trong tác phẩm
cũng góp phần tạo nên sức âm vang. Sự phối hợp độc đáo giữa giọng kể, ngôn ngữ,
hình ảnh và nhiều yếu tố khác đã khiến “Rừng xà nu” như một khúc ca hùng tráng
giữa đại ngàn hoang dại.
Nếu như Nguyễn Trung Thành xây dựng “Rừng xà nu” trên chất nền Tây Nguyên
hùng tráng và có phần gân guốc thì Nguyễn Thi lại mang đến một không khí Nam
Bộ gần gũi, chân chất, bộc trực đến từng lời nói qua tác phẩm của mình – “Những
đứa con trong gia đình”. Ở đó, nhà văn khắc họa hình ảnh những con người bình dị
của quê hương sông nước mà chất anh hùng hòa lẫn với vẻ thuần phác, tự nhiên.
“Những đứa con trong gia đình” được viết ngay trong những ngày đầu kháng chiến
ác liệt ở chiến trường miền Nam năm 1966 đã hòa vào dòng chảy văn học dân tộc
để cổ vũ, ngợi ca tinh thần yêu nước và truyền thống Cách mạng hào hùng. Truyện
ngắn là câu chuyện của một gia đình, chuyện của những con người giữa bao nhiêu
con người cùng thời đại nhưng là cả một thiên lịch sử, một bản anh hùng ca đầy tự
hào. Qua dòng hồi tưởng của Việt, một đứa con trong gia đình Cách mạng, mỗi
một cá nhân dưới mái nhà ấy hiện lên với tất cả phẩm chất anh hùng, bất khuất
trong đấu tranh. Truyền thống ấy được nuôi dưỡng ngay trong huyết mạch của mỗi
thế hệ và được hun đúc bằng lòng căm thù giặc sâu sắc. Tất cả những chiến công
và cả những đau thương mất mát mà cả gia đình đã trải qua được chú Năm ghi
chép cẩn thận vào cuốn sổ gia đình. Đó là cả một dòng sông chở đầy chiến tích –
đau thương có, tự hào có, mà mỗi một khúc sông là một thế hệ tiếp nối nhau: ông
nội, bà nội, bố mẹ, bác Hai, thím Năm của Việt đều quyết tâm chống lại hành động
bạo tàn của giặc, kiên cường, bất khuất trước kẻ thù và hi sinh trong tư thế hiên
ngang. Cuốn sổ ấy là vật thiêng liêng mà ở đó khắc sâu nỗi căm hờn trước giặc thù
qua từng thế hệ: tía Việt vì tham gia du kích mà bị bọn giặc chặt đầu; mẹ Việt bị
giặc bắn chìm xuồng chết đuối; người bị bắn vào giữa bụng; người bị roi quật giữa
sân đình... tất cả đã hun đúc nên lòng căm thù ngùn ngụt trong những thế hệ sau
với quyết tâm diệt thù. Hai chị em Chiến và Việt lớn lên trong gia đình Cách mạng,
mang trong mình truyền thống đấu tranh anh hùng nhưng đồng thời cũng đã từng
chịu đựng không ít đau thương, mất mát. Cả hai đều sôi sục lòng căm thù và quyết
tâm chiến đấu, họ sẽ viết tiếp khúc sông còn dang dở trong cuốn sổ của chú Năm...
Như một kỉ vật thiêng liêng của gia đình, cuốn sổ là một dòng sông chiến tích để
nhắc nhở, khích lệ mỗi thế sau tiếp nối dòng chảy bất tận ấy. Hình ảnh chú Năm
gợi ta liên tưởng đến cụ Mết trong tác phẩm “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung
Thành. Cũng như già làng Mết, kể về cuộc đời Tnú với tất cả sự tự hào để con cháu
mai sau cùng ghi nhớ mà noi theo, chú Năm lưu giữ truyền thống gia đình Cách
mạng với tất cả sự nâng niu, quý trọng và đầy tự hào vào một cuốn sổ. Chú là
người cuối cùng của thế hệ cha ông trong gia đình Cách mạng, trở thành người
chú, người cha đầy trách nhiệm thay thế cha mẹ Việt chăm sóc, giúp đỡ, dạy bảo
và động viên hai chị em. Chính chú đã góp phần hun đúc nên bản lĩnh Cách mạng
ở Chiến và Việt, khuyến khích hai chị em tham gia tòng quân: “Chú sẽ chia cho
mỗi người một khúc mà ghi vào...”. Và chú Năm, không chỉ là một sử gia ghi chép
tất cả truyền thống gia đình thành một dòng sông mà trên dòng chảy ấy, chú còn
khơi thêm những khúc sông mới trong trẻo, sôi nổi và mạnh mẽ hơn ở thế hệ con
cháu mình. Có thể nói mỗi một con người –một khúc sông đều mang tất cả tinh
thần và quyết tâm cống hiến, hi sinh vì Tổ quốc. Chính vì vậy mà con sông gia
đình đã trở thành con sông chiến đấu của cả quê hương, đất nước; truyền thống
Cách mạng của một gia đình nhưng là đại diện cho cả nhân dân miền Nam với
truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất, gan dạ phi thường trước kẻ thù.
Một gia đình với bề dày truyền thống như thế tất yếu sinh ra những đứa con kiên
cường và quả cảm. Chiến và Việt, hai chị em với những tính cách khác nhau nhưng
đều tiêu biểu cho phẩm chất anh hùng. Với chị Chiến, một cô gái đảm đang và giàu
tình cảm, ngòi bút nhà văn đã khắc họa thật sâu sắc. Qua hồi tưởng của Việt, chị
Chiến rất giống má, trước mỗi việc Chiến bàn, Việt tưởng chừng như đang nghe
má dặn dò, chỉ bảo. Rồi từ cái thở dài, cái cựa mình của chị đều khiến Việt thấy “in
như má vậy”. Chiến đảm đang, tháo vác trong mọi công việc. Trước khi lên đường
nhập ngũ, chị sắp xếp việc nhà đâu ra đấy gọn gàng và chu toàn hết sức. Má đã ra
đi, giờ đây chẳng phải nói ra nhưng chị đã lo lắng, chăm sóc các em và thu xếp mọi
việc chẳng khác gì má cả. Với Việt và thằng Út, Chiến luôn dành cho các em sự
yêu thương, nhường nhịn. Dường như bàn tay chị đã đảm đương và che lấp đi phần
nào sự thiếu vắng của người mẹ thương yêu. Cái cách Chiến tính toán cũng thật kĩ
lưỡng mà gọn gàng, chu đáo: từ việc viết thư cho chị Hai, trao công ruộng lại chi
bộ, gửi thằng Út sang nhà chú Năm,... đến việc chuyển bàn thờ, lo giỗ cho ba má
đều được chị quyết thật rành rọt cứ như chị đã nghĩ ngợi, suy tính từ trước. Việc
nhà Chiến đảm đang, việc nước chị cũng đầy tinh thần trách nhiệm. Sinh ra và lớn
lên trong gia đình Cách mạng, chứng kiến và chịu đựng nhiều đau thương, mất
mát, ý thức về truyền thống đấu tranh và quyết tâm diệt thù luôn nung nấu trong
lòng chị. Chiến hăng hái ghi tên tòng quân. Thái độ của Chiến cũng mạnh dạn và
quyết đoán, rành mạch như chính lúc chị thu xếp việc nhà vậy, đồng thời ở đó cũng
nổi bật một tinh thần trách nhiệm của một chiến sĩ Cách mạng thực thụ. Chiến tự
dặn mình phải tuyệt đối trung thành với Cách mạng, chiến đấu dũng cảm, chiến
đấu đến cùng và sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc: “Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!”.
Lúc vào đơn vị giải phóng, ở đâu Chiến cũng hăng hái xung phong đi đầu, cố gắng
hoàn thành nhiệm vụ và lập công. Dường như trên khúc sông của Chiến, chị đã ra
sức chiến đấu để kế thừa và phát huy truyền thống cha ông bằng một nhiệt tình
Cách mạng và bản lĩnh gan dạ của một người chiến sĩ. Có thể nói Chiến không chỉ
là một cô gái Nam Bộ đảm đang và giàu tình cảm mà ở chị còn thể hiện lòng yêu
nước sâu sắc, ý thức trách nhiệm và lòng dũng cảm “quyết tử cho Tổ quốc quyết
sinh”.
Cũng như chị, Việt là một thanh niên giàu tình cảm, yêu nhà, yêu nước, gan dạ,
kiên cường và chiến đấu không mệt mỏi. Việt có một tuổi thơ hồn nhiên, tinh
nghịch và hiếu động: thích câu cá, bắn chim, thích tranh phần hơn với chị... Đặc
biệt, tuổi thơ ấy gắn với hình ảnh người mẹ hiền từ: “lúc má bơi thuyền, má sẽ ghé
lại, xoa đầu Việt, đánh thức Việt dậy, rồi lấy xoong cơm đi làm đồng để ở dưới
xuồng lên cho Việt ăn...”. Qua hồi tưởng của Việt, má Việt hiện ra là một người
phụ nữ Nam Bộ đảm đang, giàu tình thương và hết lòng chăm lo cho gia đình, con
cái. Một mặt, má Việt phải vất vả làm lụng nuôi con, mặt khác phải đương đầu với
những đe dọa, hạch sách của giặc. Và người phụ nữ ấy nổi bật lên sự kiên cường,
bất khuất trước kẻ thù, đã hi sinh trong tư thế hiên ngang, vững vàng. Người mẹ ấy,
khi sống cũng như lúc chết, không lúc nào nguôi ngoai tình yêu thương và trách
nhiệm nuôi dạy các con. Đó là hình ảnh một người mẹ đời thường nhưng ẩn giấu
bên trong là một trái tim vĩ đại, tiêu biểu cho hình tượng người phụ nữ Việt Nam:
kiên cường, bất khuất, trung hậu, đảm đang. Ngay những lúc thiếp đi tỉnh dậy giữa
rừng thì những hình ảnh thân yêu ấy vẫn ám ảnh và Việt ước gì lại được gặp má.
Trong đêm cuối ở quê, Việt tưởng như má hiện về qua ánh đom đóm... Càng
thương má bao nhiêu, Việt càng sục sôi căm thù và nung nấu quyết tâm trả thù bấy
nhiêu. Ngày má chết rồi, ý nghĩ đi bộ đội càng thôi thúc Việt hơn bao giờ hết. Anh
tranh giành xin đi tòng quân với chị khi chưa đủ tuổi, rồi lại nổi giận đùng đùng
khi chị Chiến ngăn – “Bộ mình chị biết đi trả thù à?”. Việt thương má, thương chị
và trong anh luôn mang một tình yêu đằm thắm với gia đình, với quê hương. Chính
tình cảm gắn bó thiết tha đó đã trở thành động lực thôi thúc Việt chiến đấu và hi
sinh quên mình. Là một thiếu niên mới lớn nhưng Việt ý thức sâu sắc về thù nhà nợ
nước. Chính Việt đã thầm nhủ khi khiêng bàn thờ sang gửi chú Năm: “Chúng con
đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nước nhà độc lập con lại đưa má về”.
Khi vào quân giải phóng, Việt chiến đấu gan dạ và dũng cảm, quyết lập chiến công
để cùng chị trả thù cho ba má. Việt là một khúc sông trên dòng sông gia đình và là
khúc sông trong trẻo. Việt không nghĩ ngợi và lo âu nhiều như chị Chiến, thậm chí
còn lăn kềnh ra ván mà cười khì: “Chị có bị chặt đầu thì chặt chớ chừng nào tôi
mới bị”. Việt vẫn là một thiếu niên hồn nhiên nhưng ý thức diệt thù, bản lĩnh gan
dạ thì chẳng thua gì chị và chiến công thì thật đáng tự hào: Việt đã hạ được một xe
bọc thép của địch. Việt sẽ chiến đấu để viết tiếp vào cuốn sổ gia đình thiêng liêng.
Ở anh luôn sôi nổi một tinh thần chiến đấu, dù bị thương, lạc đơn vị, cô độc giữa
chiến trường Việt vẫn đấu tranh với thương tật, cố duy trì sự sống. Anh không
nguôi nghĩ về đơn vị, về đồng đội: cái cằm nhọn hoắt ra của anh Tánh, nụ cười và
cái nheo mắt của anh Công mỗi lần anh động viên Việt tiến lên... Tất cả như một
động lực càng thôi thúc Việt gắng sức tìm về đơn vị. Dẫu cho bị thương nhưng lúc
nào Việt cũng lăm lăm cây súng bên mình để nếu gặp địch thì xả súng ngay. Có thể
nói tinh thần chiến đấu không mệt mỏi luôn hiện diện ở Việt trong bất cứ hoàn
cảnh nào, ngay cả lúc hầu như không còn đủ sức lực.
Cả hai chị em Chiến và Việt đều quả cảm, gan dạ và kiên cường như bao thế hệ đi
trước. Tất cả xuất phát từ sự kế thừa và phát huy truyền thống anh hùng của cha
ông. Trên dòng sông gia đình ấy, họ đã ghi tên mình ở mỗi chặng và ra sức bồi đắp
cho dòng sông những chiến tích đầy tự hào . Họ là những khúc sông trong trẻo góp
nên dòng chảy con sông gia đình đồng thời hòa vào dòng chảy của dân tộc để cùng
chiến đấu. Có lẽ chính sự gắn bó giữa tình cảm gia đình và tình yêu Tổ quốc, giữa
truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã tạo nên sức mạnh to lớn, vĩ đại
của con người Việt Nam và cả dân tộc Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ cứu
nước.
Nguyễn Thi đã khắc họa chân dung những anh hùng của miền quê hương sông
nước rất đỗi tự nhiên và bộc trực trong từng lời nói. Tính hiện thực và trữ tình
trong tác phẩm, vì vậy càng hài hòa, gắn bó hơn. Không chỉ dừng lại ở đó mà qua
ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ trong tác phẩm, âm điệu huyền thoại sử thi trở nên
phóng khoáng và đa dạng hơn.
Có thể nói Nguyễn Trung Thành và Nguyễn Thi đã góp vào dòng chảy văn học dân
tộc những tác phẩm mang tầm sử thi đầy ấn tượng và đặc sắc. Cả hai nhà văn, cùng
một thế hệ, đã gắn cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của mình cùng những năm tháng
ác liệt nhất trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc. Qua tác phẩm của
mình, “Rừng xà nu” và “Những đứa con trong gia đình”, Nguyễn Trung Thành và
Nguyễn Thi đã trực tiếp ngợi ca nhân dân anh hùng, góp phần tích cực hoàn thành
sứ mệnh của nền văn học dân tộc giai đoạn 1945-1975 và để lại những bản anh
hùng ca đầy hiện thực, thiêng liêng, bất diệt. Tất cả xuất phát từ lòng cảm phục và
lòng tự hào dân tộc của mỗi con người. Với góc nhìn và không gian nghệ thuật rất
riêng, ngòi bút của mỗi nhà văn hướng đến xây dựng hình tượng nhân vật đặc sắc
riêng, mang đậm dấu ấn của mỗi tác giả. Ở Nguyễn Trung Thành, chất sử thi đã
hòa cùng chất Tây Nguyên trong nhân vật Tnú làm sáng rõ hình tượng người anh
hùng của cả làng Xô Man vững chải như một cây xà nu cao lớn –đứa con của núi
rừng. Có lẽ sự thành công ở những trang viết của Nguyễn Trung Thành bắt nguồn
từ sự thấu hiểu sâu sắc mảnh đất và con người Tây Nguyên. Cho nên tác phẩm viết
về Tây Nguyên mà đặc biệt là truyện ngắn “Rừng xà nu” vừa thấm đẫm sắc màu
hoang sơ, hùng vĩ của núi rừng nơi đây, vừa ngời sáng vẻ đẹp của con người Tây
Nguyên: hồn nhiên, kiên cường, bất khuất. Bên cạnh chất Tây Nguyên trong bản
anh hùng ca của Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Thi lựa chọn văn phong đậm chất
Nam Bộ để ngợi ca những con người anh hùng của miền đất nơi đây. Có lẽ chính
tình cảm gắn bó thủy chung ân nghĩa với nhân dân miền Nam đã mang đến cho
nhà văn một cảm hứng dạt dào về đất và người Nam Bộ. Những con người hồn
nhiên, bộc trực, căm thù ngùn ngụt quân cướp nước đã đi vào trang viết của nhà
văn như những anh hùng với nét rất riêng trong tâm lí, ngôn ngữ, thể hiện tính cách
riêng của con người Nam Bộ. Chính vì vậy, mỗi tác phẩm đều mang một giá trị đặc
sắc, một ấn tượng độc đáo, tiêu biểu cho phong cách mỗi tác giả.
Chất sử thi qua hai truyện ngắn “Rừng xà nu” – Nguyễn Trung Thành và “Những
đứa con trong gia đình” – Nguyễn Thi là hai điểm nhìn, hai cách khắc họa nội dung
nhưng cùng một xuất phát điểm: lòng tự hào về truyền thống đấu tranh kiên cường,
bất khuất của dân tộc ở mọi vùng miền Tổ quốc.
- Xem thêm -