Ôn thi môn Văn: Bí quyết viết mở bài
Mở bài là giới thiệu vấn đề cần bàn luận trong bài làm cơ sở cho phần thân và kết bài,
đồng thời tạo không khí để thu hút người đọc, bởi vậy mở bài đóng một vai trò rất quan
trọng. Không ít bạn cảm thấy “cứng tay” và mất nhiều thời gian cho phần mở bài trong
bài văn nghị luận.
NGUYÊN TẮC VIẾT MỞ BÀI:
Hai nguyên tắc mở bài mà các bạn phải luôn tâm niệm là:
- Nêu đúng vấn đề đặt ra trong đề bài.
- Chỉ được phép nêu những ý khái quát về vấn đề cần nghị luận.
Một mở bài hay và đúng cần có các yếu tố sau:
- Ngắn gọn (khoảng 3-4 câu). Phần mở bài quá dài dòng không những khiến bạn mất
thời gian mà còn khiến bạn bị … cạn kiệt ý tưởng cho phần thân bài. Hãy hé mở những gì
mình định viết ở phần thân bài thôi nhé.
- Đầy đủ: phải nêu được vấn đề cần nghị luận; phạm vi tư liệu, thao tác nghị luận
chính).
- Độc đáo: gây được sự chú ý cho người đọc về vấn đề cần nghị luận bằng cách nêu,
cách liên tưởng khác lạ, bất ngờ cho người đọc. Bạn sẽ dễ chiếm cảm tình của người viết
nhất bằng cách này, bởi nó làm bạn nổi bật giữa hàng trăm bài văn khác.
- Tự nhiên: ngôn từ giản dị, mộc mạc, tránh sáo rỗng, tránh gượng ép. Điều này sẽ
gây cho người đọc cảm giác mơ hồ, khó chịu về sự giả tạo.
Nên nhớ đây là bài thi, nếu phần mở bài bạn lạc đề thì không những mất điểm mà còn
mất luôn cảm tình của người chấm đấy!
CÁCH VIẾT MỞ BÀI:
1. Xác định vấn đề cần nêu trong mở bài
Bằng cách đặt và trả lời cho câu hỏi: Bài làm cần viết về cái gì? Từ đó xác định kiến
thức cần nêu. Hãy dùng bút tô đậm những từ chìa khóa trong đề ra và lấy đó làm từ trọng
điểm cho phần mở bài của mình nhé.
Cách xác định vấn đề: Xác định vấn đề bàn luận là điều căn cốt nhất vì nếu xác định
sai thì coi như toàn bộ nội dung bài viết sẽ chệch hướng hoàn toàn (lạc đề). Muốn xác
định được vấn đề thh ì phải thìm hiểu đề bài. Thông thường đề bài có hai dạng:
- Dạng nổi (Lộ thiên): Là dạng đề mà các yêu cầu về nội dung, hh nh thức, cách thức,
phương hướng, phạm vi, mức độ nghị luận được nêu ra trực tiếp và rõ ràng trong đề bài.
Ở đề bài này vấn đề cần bàn luận đã có sẵn.
Ví dụ 1: Đề bài: Vai tr òṛ của biển với đời sống nhân loại.
Vấn đề trọng tâm đă được nói rõ ở đề bài đó là khẳng định vai tr ṛò quan trọng của
biển đối với sự tồn tại và phát triển của nhân loại.
Ví dụ 2: Tình yêu với biển đảo quê hương của thanh niên Việt Nam
Vấn đề cần tìm đã rất rõ ràng đó là tình yêu biển đảo của thanh niên Việt Nam.
Lưu ý: Nhiều khi đề có đoạn dẫn rất dài hãy chú ý quan sát để tìm vấn đề được chỉ rõ
ngay trong đề. Ở những trường hợp này nhiều đề bài sau khi nêu nội dung (Đoạn trích
thơ, văn hoặc nhận định) thường có yêu cầu thí sinh phải làm rõ điều gì đó. Đấy chính là
vấn đề cần lý giải.
Ví dụ: Hãy phân tích đoạn Mỵ ở nhà thống lý Pá Tra để thấy được nỗi đau và
sức sống tiềm tàng của người phụ nữ mèo vùng Tây bắc.
Ta xác định vấn đề rất nhanh: Thể loại phân tích vấn đề để nêu bật 2 nội dung đề yêu
cầu: Nỗi đau khổ và sức sống tiềm tàng của nhân vật Mỵ
- Dạng chìm: Là dạng đề trong đó người ra đề không cho dữ kiện rõ về các yêu cầu
của nội dung cũng như cách thức, phạm vi…nghị luận. Bởi thế người viết phải phân tích,
tổng hợp, khái quát nội dung vấn đề từ chính nội dung của đoạn văn, đoạn thơ, hoặc tác
phẩm, câu trích…
Ví dụ: Biển đảo quê hương hôm nay với thanh niên Việt Nam
Đề bài đưa ra một vấn đề “nóng” hiện nay, để làm rõ vấn đề cần có suy nghĩ : biển
đảo quê hương hôm nay có vấn đề gì ? Vì sao phải đặt vấn đề đó hôm nay ? trách nhiệm
của thanh niên với biển đảo...
Học sinh khi đọc đề cần xác định thật rõ ràng những yêu cầu của đề theo hướng:
- Về nội dung cần xem yêu cầu vấn đề cần nghị luận có giới hạn ở đâu? giai đoạn
nào? tác phẩm hay đoạn nào? đề tài gì? chủ đề gì ?...
- Về hình thức: quan tâm đến kiểu bài mà đề yêu cầu: Phân tích, bình luận, bình
giảng... hay đi kèm 2 kiểu bài hoặc tổng hợp các kiểu ?
2. Xác định cách nêu vấn đề
Bạn có thể viết mở bài theo 1 trong 3 cách sau:
Mở bài trực tiếp (trực khởi): Là cách giới thiệu ngay vào vấn đề cần nghị luận .
Ví dụ:
Mở bài cho đề bài: Phân tích bài thơ “Chiều tối” trong tập thơ Nhật ký trong tù của
Hồ Chí Minh.
“Chiều tối” là một bài thơ trong tập thơ “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh. Bài
thơ được Bác sáng tác ngay trên đường bị giải đi từ nhà ngục Tĩnh Tây đến nhà lao
Thiên Bảo vào lúc chiều tàn. Ra đời trong hoàn cảnh ấy, bài thơ đã ghi lại bức tranh
thiên nhiên và cảnh sinh hoạt của con người ở vùng rừng núi một cách sinh động.
- Ưu điểm của cách mở bài trực tiếp:
+ Đi thẳng ngay vào bài nên tránh được sự lan man, xa đề hoặc lạc đề.
+ Dễ vận dụng đối với các học sinh có kỹ năng lập luận yếu.
+ Tiết kiệm được thời gian suy nghĩ cho người viết.
- Nhược điểm:
+ Ít tạo được không khí lôi cuốn cho người đọc.
Mở bài gián tiếp (lung khởi):
Là cách mở bài đi từ xa đến gần : nêu ra những ý liên quan đến vấn đề cần nghị luận
để dẫn đến vấn đề cần nghị luận.
Có 4 cách mở bài gián tiếp :
+ Mở bài theo lối diễn dịch:
Ví dụ: Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận là một "bài thơ cuộc đời". Bài thơ được
sáng tác năm 1958 nhân một chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Hòn Gai, Cẩm Phả. Thông qua
một đêm đánh cá của đoàn thuyền lớn trên biển, tác giả ca ngợi kiểu lao động mới mẻ
của người lao động tràn đầy lạc quan tin tưởng, làm chủ thiên nhiên, biển cả bao la. Qua
bài thơ ta cảm nhận được không khí lao động khẩn trương, hăng say, nhộn nhịp của miền
Bắc thời kì xây dựng CNXH.
+ Mở bài theo lối quy nạp
Ví dụ: Cảm nhận về bức tranh xuân trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân”.
Thời gian vẫn trôi đi và bốn mùa luôn luân chuyển. Con người chỉ xuất hiện một lần
trong đời và cũng chỉ một lần ra đi mãi mãi vào cõi vĩnh hằng. Nhưng những gì là thơ, là
văn, là nghệ thuật đích thực…thì vẫn còn mãi mãi với thời gian. Truyện Kiều của Nguyễn
Du là một tác phẩm nghệ thuật như thế, đặc biệt là đoạn thơ viết về Cảnh ngày xuân –
một mùa xuân mới mẻ, tinh khôi và giàu sức sống.
+ Mở bài theo lối tương liên. Tìm 1 vấn đề tương tự (đề tài, chủ đề, hình ảnh, tác
phẩm...) làm cầu nối so sánh với vấn đề của đề bài để tạo đoạn dẫn.
Ví dụ:
Khi đọc Mùa Lạc của Nguyễn Khải ta gặp nhân vật Đào, cô gái có quá khứ đau
thương nhưng đã trỗi dậy mạnh mẽ khi đón nhận cuộc sống mới và những con người
mới ; nhưng đau thương hơn và sự vươn dậy quyết liệt hơn phải kể đến nhân vật phụ nữ
trong tác phẩm viết cùng thời của nhà văn Tô Hoài
+ Mở bài theo lối tương phản (đối lập): Tìm 1 vấn đề đối lập tạo thế bắc cầu để giới
thiệu vấn đề cần bàn.
Ví dụ:
Chúng ta đã gặp không ít những số phận người phụ nữ bi thương trong các tác phẩm
văn học Việt Nam, đó là một nàng Vũ Nương oan khuất, một nàng Kiều bi kịch, một Chị
Dậu tủi hờn... Nhưng khi tiếp cận với dòng văn học cách mạng, vẫn những người phụ nữ
ngày xưa ấy lại trỗi dậy mạnh mẽ đứng dậy làm chủ đời mình. Một trong những nhân vật
văn học nữ tiêu biêu biểu là Mỵ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Nhà văn Tô Hoài.
* Kết cấu của đoạn mở bài theo cách gián tiếp gồm 3 phần :
- Mở đầu đoạn:
+ Viết những câu dẫn dắt có liên quan gần gũi với vấn đề chính cần nghị luận.
+ Tuỳ nội dung vấn đề cần nghị luận mà người viết lựa chọn câu dẫn dắt có thể là
một câu thơ, một câu danh ngôn,hoặc một câu chuyện kể…
- Phần giữa đoạn:
+ Nêu luận đề (nếu bình giảng thơ thì thường là nêu ấn tượng bao trùm mang tư
tưởng chủ đề mà bản thân cảm nhận được).
- Phần kết đoạn: Nêu phương thức nghị luận và phạm vi tư liệu sẽ trình bày.
Ví dụ: Bình luận về mối quan hệ giữa văn học nghệ thuật và hiện thực cuộc sống .
Chứng minh bằng một số tác phẩm văn học.
- Mở bài 1: Có ai đó đã ví sáng tạo nghệ thuật như việc thả diều. Con diều dù có bay
bổng bao nhiêu vẫn phải gắn với mặt đất bằng một sợi dây vững chắc. Ý tưởng ấy gợi
cho ta nhiều suy nghĩ sâu sắc về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực cuộc sống. Hãy
đến với một số tác phẩm văn học lớn, chúng ta sẽ thấy rõ mối quan hệ máu thịt này.
- Mở bài 2: Thần thoại Hy Lạp còn để lại một câu chuyện đầy cảm động về chàng lực
sĩ Ăngtê và đất mẹ.Thần Ăngtê sẽ bất khả chiến bại khi chân chàng gắn chặt vào lòng đất
mẹ Gaia. Có thể ví mối quan hệ giữa văn học và hiện thực cuộc sống hệt như quan hệ
giữa Ăngtê và đất mẹ vậy. Chưa tin ư, bạn hãy đến với những tác phẩm văn học lớn mà
xem.
- Mở bài 3: Trong một lần tâm sự với văn nghệ sĩ, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói:
“Nghệ thuật phải bắt nguồn từ đời sống, thoát ly đời sống,nghệ thuật nhất định sẽ khô
héo”.Văn học là một loại hình cơ bản của nghệ thuật. Lời tâm sự trên đã trực tiếp khẳng
định mối quan hệ giữa văn học và hiện thực cuộc sống. Phân tích một số tác phẩm văn
học lớn, chúng ta sẽ thấy rõ điều đó.
Cách duy nhất khiến bạn không “cứng tay” khi viết mở bài là luyện tập, luyện tập và
luyện tập. Cố lên bạn nhé!
KẾT BÀI THẾ NÀO CHO HAY?
KẾT BÀI HAY MANG LẠI ĐIỂM TỐT
Có một thực tế là khi viết một bài văn, chúng ta thường không mấy để ý đến việc kết
bài (đôi khi là không kịp kết bài hoặc không biết kết như thế nào). Hoặc nếu có kết bài
cũng rất hời hợt. Điều đó rất ảnh hưởng đến kết quả của bài văn. Những kinh nghiệm
sau đây sẽ giúp các em khắc phục được điều đó.
Viết kết bài phải đúng vào nội dung trọng tâm của đề thi. Viết ngắn gọn, không
dài dòng lan man.
2.
Đối với học sinh trung bình thì nên kết bài theo cách đơn giản, ngắn gọn. Kết bài
hướng đến những vấn đề đã phân tích cảm nhận. Ví dụ: Phân tích bài thơ Tây Tiến
– Quang Dũng. Ta phải hình dung bài thơ này có bao nhiêu luận điểm. Sau đó gom
những luận điểm ấy lại. Thầy có thể tóm lược các luận điểm bài thơ Tây Tiến như
sau:
1.
Nỗi nhớ về con đường hành quân gian khổ
Nhớ đêm liên hoan văn nghệ đậm tình quân dân.
Nhớ cảnh vượt thác
Nhớ đoàn binh Tây Tiến lãng mạn hào hoa.
Từ việc gom lại các luận điểm và kết hợp với kiến thức về phong cách tác giả, các em
có thể kết bài như sau:
Tóm lại, bằng tài năng nghệ thuật của một hồn thơ phóng khoáng, lãng mạn và tài hoa.
Quang Dũng đã mang đến cho bạn đọc vẻ đẹp của bài thơ Tây Tiến. Đó là nỗi nhớ về
con đường hành quân gian khổ nhưng hùng vĩ, thơ mộng, nhớ cảnh sinh hoạt quân
dân ấm áp tình người. Và nhất là hình tượng người chiến binh Tây Tiến lãng mạn hào
hoa hào hùng. Bài thơ khép lại rồi mà dường như tinh thần Tây Tiến vẫn ngân nga mãi
trong lòng ta.
3. Với các em khá, các em có thể kết bài bằng lý luận văn học. Suy luận, triết lý để đưa
ra kết bài hay. Vấn đề này thuộc về “bản năng” của người viết. Nên kết bằng câu nhận
định phê bình nào đó hoặc kết lại bằng cách kết hợp một đoạn thơ có nội dung liên
quan.
Ví dụ: Phân tích bài thơ Tây Tiến – Quang Dũng
Ta kết bài như sau:
“Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp” (Sóng Hồng). Quả đúng
như vậy, Tây Tiến đã mang đến cho người đọc “con người và thời đại” của một thời
chống Pháp oanh liệt hào hùng . Qua đó ta thấy được tinh thần Tây Tiến bất tử, một
thời đại bất tử. Cảm ơn nhà thơ Quang Dũng – người đã tạc tháng năm lịch sử vào
hồn người. Xin được mượn mấy lời thơ của Giang Nam thay cho lời kết:
“Tây Tiến biên cương mờ lửa khói
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy, con người ấy
Vẫn sống muôn đời với núi sông”
Thầy Phan Danh Hiếu – Luyện thi Môn Ngữ văn
- Xem thêm -