Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu nông sản hàng hóa của việt nam sang thị trường ...

Tài liệu Các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu nông sản hàng hóa của việt nam sang thị trường một số nước asean

.PDF
96
1
147

Mô tả:

.. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH ĐỖ THÙY LƢƠNG CÁC GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU NÔNG SẢN HÀNG HÓA CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƢỜNG MỘT SỐ NƢỚC ASEAN LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Chuyên ngành: Quản lý Kinh tế Thái Nguyên – 2012 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH ĐỖ THÙY LƢƠNG CÁC GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU NÔNG SẢN HÀNG HÓA CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƢỜNG MỘT SỐ NƢỚC ASEAN Chuyên ngành: Quản lý kinh tế Mã số: 60 34 04 10 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS Nguyễn Quốc Tiến Thái Nguyên – 2012 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngày nay, hoạt động xuất khẩu trở nên vô cùng quan trọng đối với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Không có một quốc gia nào phát triển phồn vinh khi vẫn duy trì nền kinh tế đóng cửa và chỉ dựa vào thương mại nội địa. Thông qua hoạt động xuất khẩu, các quốc gia khai thác được lợi thế của mình trong phân công lao động, tạo nguồn thu ngoại tệ quan trọng cho đất nước, chuyển đổi cơ cấu kinh tế và đặc biệt là tạo công ăn việc làm cho người lao động. Từ những năm 1986, Việt nam bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế. Sau hơn 25 năm đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn về mọi mặt. Để làm được điều đó, cùng với việc phát triển các ngành nghề lĩnh vực khác, Việt Nam đã rất năng động trong lĩnh vực ngoại thương, và xuất khẩu đã thực sự có ý nghĩa to lớn trong chiến lược xây dựng và phát triển kinh tế. Nhờ đẩy mạnh xuất khẩu Việt nam mới có điều kiện thuận lợi thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Là một nước nằm ở Đông Nam Á, có khí hậu nhiệt đới gió mùa ấm và ẩm, thuận tiện cho việc phát triển cây trồng vật nuôi,… với dân số gần 90 triệu người, trong đó khoảng 70% tham gia vào các hoạt động sản xuất nông nghiệp, Việt Nam đã xác định nông sản là một mặt hàng xuất khẩu quan trọng nhằm tạo nguồn thu ban đầu rất cần thiết cho phát triển kinh tế của đất nước. Chính vì vậy, nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích sự tham gia của các công ty trong lĩnh vực xuất khẩu hàng nông sản. Mặt hàng nông sản là mặt hàng được Nhà nước hết sức chú trọng trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của mình. Trên lĩnh vực xuất khẩu hàng nông sản nước ta đã đạt được nhiều thành công, nhưng cũng vẫn còn những hạn chế nhất định. Vì vậy, tôi lựa chọn đề tài “Các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu nông sản hàng hóa của Việt Nam sang thị trƣờng một số nƣớc Asean” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2 2. Mục tiêu nghiên cứu * Mục tiêu chung: Nghiên cứu làm rõ và đề xuất các giải pháp đẩy mạnh xuất k hẩu nông sản hàng hóa của Việt Nam sang thị trường một số nước ASEAN, bao gồm: Indonesia, Malaysia, Philippin, Singapore, Thailand (gọi tắt là ASEAN-5). *Mục tiêu cụ thể: Việc nghiên cứu đề tài nhằm đạt được các mục tiêu sau: - Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về xuất khẩu hàng hóa. - Phân tích, đánh giá thực trạng xuất khẩu nông sản hàng hóa của Việt Nam sang thị trường các nước ASEAN-5 và nguyên nhân của tình hình. - Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu nông sản hàng hóa của Việt Nam sang thị trường các nước ASEAN -5 trong thời gian tới. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cƣ́u của luận văn * Đối tượng nghiên cứu : Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cơ sở lý luận về xuất khẩu nông sản hàng hóa và đẩy mạnh xuất khầu nông sản hàng hóa của Việt Nam ra nước ngoài nói chung, sang thị trường các nước ASEAN-5 nói riêng; Thực trạng tình hình xuất khẩu và các giải pháp có thể để đẩy mạnh xuất khẩu nông sản hàng hóa của Việt Nam sang thị trường các nước ASEAN-5. * Phạm vi nghiên cứu: - Phạm vi về nội dung và không gian: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu vào việc xuất khẩu nông sản hàng hóa của Việt Nam sang thị trường các nước ASEAN-5 gồm Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan. - Phạm vi về thời gian : Đề tài tập trung nghiên cứu tì nh hì nh xuất khẩu nông sản hàng hóa của Việt N am sang thị trường các nước ASEAN -5 giai đoạn 1995-2011. 4. Ý nghĩa khoa học của đề tài Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3 - Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ làm rõ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đẩy mạnh xuất khẩu, đồng thời đề xuất các giải pháp có cơ sở khoa học, có tính khả thi để đẩy mạnh xuất khẩu nông sản hàng hóa của Việt Nam sang thị trường các nước ASEAN nói chung, các nước ASEAN-5 nói riêng. - Về mặt thực tiễn : Đề tài được ứng dụng sẽ góp phần nâng cao năng lực và kết quả xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam đang và sẽ xuất khẩu nông sản hàng hóa sang thị trường các nước ASEAN5, đồng thời có thể làm tài liệu tham khảo cho việc xuất khẩu nông sản hàng hóa của Việt Nam sang thị trường các nước thuộc khu vực khác có điều kiện tương tự. 5. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và các danh mục, luận văn gồm 4 chương: - Chương 1: Cơ sở lý luận của việc xuất khẩu hàng nông sản. - Chương 2: Phương pháp nghiên cứu. - Chương 3: Thực trạng xuất khẩu nông sản hang hóa của Việt Nam sang thị trường các nước ASEAN-5. - Chương 4: Giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu nông sản hàng hóa của Việt Nam sang thị trường các nước ASEAN. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 4 CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN 1.1. Các lý thuyết về thƣơng mại quốc tế có liên quan đến xuất khẩu nông sản hàng hóa Trong phần này, tác giả luận giải và tổng hợp cơ sở lý thuyết của đề tài, bao gồm việc phân tích những nội dung cơ bản của chủ nghĩa trọng thương, lợi thế tuyệt đối, lợi thế so sánh, lý thuyết của Heckscher~Ohlin,… Trên cơ sở đó, tác giả sẽ xây dựng khung phân tích áp dụng cho việc thực hiện đề tài. 1.1.1. Chủ nghĩa trọng thƣơng Từ giữa thế kỷ XVI đến thế kỷ thứ XVIII, hầu hết các quốc gia ở châu Âu chịu ảnh hưởng nặng nề bởi chủ nghĩa trọng thương trong việc thống nhất kinh tế và kiểm soát chính trị. Có thể nói chủ nghĩa trọng thương là lý thuyết thương mại quốc tế đầu tiên. Trong thời kỳ đó, vàng và bạc được lưu hành với tư cách là đồng tiền thanh toán trong thương mại quốc tế và cũng là thước đo tài sản của một quốc gia. Theo quan điểm của chủ nghĩa trọng thương, sự giàu có của một quốc gia phụ thuộc vào số lượng vàng và bạc mà quốc gia đó nắm giữ. Để thu được nhiều vàng và bạc thì các quốc gia cần phải xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu. Một quốc gia mà xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu thì đều nhận được sự chi trả bằng vàng, bạc từ phần còn lại của thế giới. Chính vì vậy, các nhà trọng thương đều ủng hộ việc điều tiết thương mại quốc tế theo hướng khuyến khích xuất khẩu. Học thuyết trọng thương đề cao vai trò của Nhà nước trong việc điều khiển kinh tế thông qua bảo hộ (Võ Thanh Thu, 2010). Những người theo chủ nghĩa này kêu gọi sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh tế thông qua việc áp dụng các hàng rào bảo hộ mậu dịch, miễn thuế nhập khẩu cho các loại nguyên liệu phục vụ sản xuất, cấm bán ra nước ngoài sản phẩm thô, thực hiện trợ cấp xuất khẩu. Theo các nhà trọng thương thì lao động là yếu tố cơ bản Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 5 của sản xuất. Chính vì vậy, để tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường thì cần phải hạ thấp lương để giảm chi phí sản xuất. Nhiều học giả cho rằng chủ nghĩa trọng thương là một học thuyết lâu đời, nhưng ảnh hưởng của chủ nghĩa này vẫn còn kéo dài cho đến nay, đặc biệt là trong cách tranh cãi về chính trị và chính sách thương mại của nhiều quốc gia. Một trong những lý do nêu trên là quan điểm cho rằng thâm hụt cán cân thương mại là không có lợi và nhập khẩu sẽ làm giảm việc làm trong nước. Khi một quốc gia bị thâm hụt trong tại khoản vãng lai thì quốc gia đó phải vay vốn từ phần còn lại của thế giới để mua nhiều hàng hoá và dịch vụ từ phần còn lại của thế giới hơn là quốc gia đó bán hàng hoá và dịch vụ cho phần còn lại của thế giới. Tuy nhiên, việc vay vốn này rất có thể cải thiện sức mạnh kinh tế của quốc gia nếu lợi ích từ việc vay vốn này vượt quá chi phí vay. Qua phân tích lý thuyết của chủ nghĩa trọng thương, người ta nhận thấy có một số ưu điểm như sau. Thứ nhất, chủ nghĩa trọng thương đã biết đánh giá được vai trò của thương mại quốc tế, coi đó là nguồn quan trọng mang quý kim về cho đất nước. Thứ hai, chủ nghĩa trọng thương đã sớm nhận rõ vai trò quan trọng của nhà nước trong việc điều tiết quan hệ ngoại thương. Thứ ba, chủ nghĩa trọng thương là lý thuyết kinh tế đầu tiên trong lịch sử được nâng lên như là lý thuyết khoa học. Tuy nhiên, ngoài những ưu điểm đã nêu ở trên, lý thuyết trọng thương về thương mại quốc tế bộc lộ một số nhược điểm nhất định. Thứ nhất, chủ nghĩa trọng thương chưa cho phép giải thích được bản chất của thương mại quốc tế, như cơ cấu xuất nhập khẩu hàng hóa trong thương mại quốc tế và cũng chưa thấy được tính hiệu quả cũng như lợi ích do quá trình chuyên môn hóa và trao đổi mang lại. Thứ hai, chủ nghĩa trọng thương cho rằng một quốc gia chỉ có thể có lợi từ thương mại trên sự hy sinh của một quốc gia khác. Tuy nhiên, thực tế lại cho thấy rằng các quốc gia chỉ mong muốn tham gia vào thương mại quốc tế với nhau khi cả hai quốc gia đều thu được lợi ích từ thương mại. Thứ ba, chủ nghĩa trọng thương hiểu sai về khái niệm “tài Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 6 sản quốc gia”, đo lường sự giàu có của quốc gia bằng quý kim. Ngược lại, ngày nay sự giàu có của một quốc gia được đo lường bỏi khả năng của quốc gia đó về nguồn lực con người, tài nguyên có thể cung cấp được cho sản xuất và dịch vụ. Nguồn lực này càng phong phú, sử dụng càng có hiệu quả thì dòng chảy hàng hoá và dịch vụ thoả mãn con người càng dồi dào, tiêu chuẩn sống của quốc gia càng cao. 1.1.2. Lợi thế tuyệt đối của Adam Smith Adam Smith là một nhà kinh tế học cổ điển người Anh. Trong cuộc đời của mình ông đã có nhiều tác phẩm về kinh tế. Năm 1776, trong tác phẩm “Sự giàu có của quốc gia”, Adam Smith đã không nhất trí với quan điểm “thương mại quốc tế là một trò chơi có tổng lợi ích bằng không” của các nhà trọng thương. Ông bắt đầu bằng một sự thực đơn giản là để cho hai quốc gia thương mại với nhau một cách tự nguyện thì cả hai quốc gia đều phải thu được lợi ích từ thương mại. Nếu một quốc gia có lợi còn quốc gia kia phải chịu thiệt thì quốc gia chịu thiệt sẽ từ chối không tham gia vào thương mại quốc tế nữa. Theo Adam Smith thì thương mại tự do sẽ giúp cho việc phân bổ và sử dụng nguồn lực của thế giới có hiệu quả hơn, và từ đó tạo ra lợi ích cho từng nước tham gia vào hoạt động buôn bán (Đỗ Đức Bình và Nguyễn Thường Lạng, 2004). Cũng nhờ tác phẩm này mà ngày nay nhiều nơi suy tôn Adam Smith là “cha đẻ của kinh tế học”. Để chứng minh rằng thương mại quốc tế mang lại lợi ích cho tất cả các quốc gia tham gia thương mại, Adam Smith đã xây dựng khái niệm lợi thế tuyệt đối. Khái niệm này nói về khả năng của một quốc gia cần sử dụng nguồn lực ít hơn so với các quốc gia khác để sản xuất ra một hàng hóa nào đó. Theo Adam Smith, một quốc gia có lợi thế tuyệt đối hơn so với các quốc gia khác nếu quốc gia đó có khả năng sản xuất nhiều hàng hoá và dịch vụ hơn với cùng một nguồn lực. Ông cho rằng thị trường sẽ điều tiết các hoạt động kinh tế và đóng vai trò là một bàn tay vô hình phân bổ các nguồn lực. Giá đóng vai trò là một nhân tố chủ chốt. Cụ thể là giá tăng lên khi có sự khan hiếm và Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 7 giảm xuống khi có sự dư thừa. Các tác nhân thị trường đảm bảo việc sản xuất hàng hoá và dịch vụ hợp lý. Chấp nhận quan điểm là sự khác biệt về chi phí sản xuất sẽ phi phối sự di chuyển quốc tế về hàng hóa, Adam Smith đã tìm cách giải thích nguyên nhân tại sao chi phí sản xuất tại các quốc gia lại khác nhau. Ông cho rằng hiệu suất của các nhân tố đầu vào quyết định chi phí sản xuất. Hiệu suất này do lợi thế tự nhiên và lợi thế có được tạo ra. Lợi thế tự nhiên bao gồm các yếu tố liên quan đến thời tiết, đất đai và khoáng sản. Trong khi đó lợi thế có được bao gồm các kỹ năng và kỹ thuật đặc biệt. Adam Smith lập luận rằng, do có lợi thế tự nhiên và lợi thế có được, một quốc gia có thể sản xuất hàng hóa với chi phí thấp hơn, và do đó trở nên cạnh tranh hơn so với quốc gia khác. Chính vì vậy, Adam Smith nhìn nhận khả năng cạnh tranh từ mặt cung của thị trường. Adam Smith đã đưa ra một số chỉ trích quan trọng đối với chủ nghĩa trọng thương. Một là, thương mại tự do mang lại lợi ích cho các bên tham gia thương mại. Hai là, chuyên môn hoá sản xuất cho phép thực hiện lợi thế theo quy mô, và như vậy nâng cao hiệu quả và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ba là, trong một môi trường tự do thương mại mà không có sự can thiệp của chính phủ thì phúc lợi công cộng sẽ tăng lên do có sự cạnh tranh. Như vậy, Adam Smith ủng hộ tự do thương mại. Theo ông, tự do thương mại thúc đẩy phân công lao động quốc tế và cho phép các quốc gia có thể tập trung vào sản xuất hàng hóa mà họ có thể sản xuất với chi phí thấp nhất. Tuy nhiên, lợi thế tuyệt đối chỉ giải thích được một phần thương mại quốc tế. Lợi thế tuyệt đối không giải thích được trường hợp khi một quốc gia nào đó lại bất lợi thế hơn so với các quốc gia còn lại trong việc sản xuất tất cả các hàng hoá và dịch vụ thì liệu quốc gia đó có nên tham gia vào thương mại quốc tế hay không. Vì sự hạn chế của lý thuyết lợi thế tuyệt đối trước tình hình phát triển mạnh mẽ của thương mại quốc tế nên đã ra đời lý thuyết lợi thế tương đối, còn gọi là lợi thế so sánh. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 8 1.1.3. Lợi thế so sánh của David Ricardo David Ricardo là nhà duy vật và nhà kinh tế học người Anh gốc Do Thái. Ông được C.Mác đánh giá là người “đạt tới đỉnh cao nhất của kinh tế chính trị tư sản cổ điển”. David Ricardo cho rằng lợi thế tuyệt đối không phải là điều cần hoặc đủ để thương mại diễn ra giữa hai quốc gia. Chẳng hạn, nếu một quốc gia có lợi thế tuyệt đối đối với tất cả mọi hàng hoá và dịch vụ thì quốc gia đó sẽ sản xuất và xuất khẩu mọi thứ và không nhập khẩu thứ gì cả. Nếu quốc gia này muốn xuất khẩu để thu ngoại tệ phục vụ cho việc nhập khẩu thì lợi thế tuyệt đối sẽ không có giá trị nữa. Chính vì vậy, năm 1817, nhà kinh tế học David Ricardo phát triển tư tưởng “lợi thế so sánh” thành thuyết “lợi thế so sánh” hay còn gọi là quy luật “lợi thế tương đối”. Theo nguyên tắc của lợi thế so sánh thì một quốc gia được cho là có lợi thế so sánh về một hàng hoá hay dịch vụ nếu quốc gia đó sản xuất với chi phí cơ hội thấp hơn so với quốc gia khác. Điều đó cũng có nghĩa là bất kì quốc gia nào cũng có lợi khi tham gia vào thương mại quốc tế dù quốc gia đó có hay không có các điều kiện tự nhiên thuận lợi hơn hẳn các quốc gia khác. Quy luật lợi thế so sánh của David Ricardo là một trong những quy luật quan trọng nhất, đặt cơ sở, nền móng cho mậu dịch quốc tế và được ứng dụng rộng rãi nhất. Cho đến nay, bản chất của quy luật lợi thế so sánh của Ricardo vẫn không thay đổi, nó đúng với bất kỳ một quốc gia nào. Theo quy luật này thì thậm chí một quốc gia kém hiệu quả hơn (bất lợi thế tuyệt đối) so với quốc gia kia trong việc sản xuất cả hai hàng hoá thì cả hai quốc gia vẫn có thể thu được lợi ích từ thương mại. Quốc gia đó sẽ chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu hàng hoá mà nó có bất lợi thế tuyệt đối ít hơn (hàng hoá có bất lợi thế so sánh) và nhập khẩu hàng hoá mà nó có bất lợi thế tuyệt đối lớn hơn (hàng hoá có bất lợi thế so sánh). Nói cách khác, một quốc gia sẽ có lợi hơn khi sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng mà quốc gia đó có thể sản xuất với hiệu quả cao Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 9 hơn một cách tương đối hay giá cả thấp hơn một cách tương đối so với quốc gia kia (Trần Văn Hòe và Nguyễn Văn Tuấn, 2007). Ưu điểm của quy luật lợi thế so sánh là nó đi xa hơn lợi thế tuyệt đối của Adam Smith ở chỗ chứng minh rằng tất cả các quốc gia đều có lợi khi giao thương với nhau bất kể quốc gia đó có lợi thế tuyệt đối hay không. Tuy nhiên, lý thuyết này cũng gặp phải một số hạn chế nhất định. Một là, David Ricardo đã dựa trên hàng loạt các giả thiết đơn giản hóa lý thuyết về giá trị lao động để chứng minh cho quy luật này. Trong khi đó trên thực tế lao động không phải là đồng nhất; những ngành khác nhau sẽ có cơ cấu lao động khác nhau, với những mức thu nhập khác nhau. Ngoài ra, hàng hóa sản xuất không chỉ có lợi thế về lao động, nó còn nhiều yếu tố khác như: đất đai, vốn, khoa học-công nghệ… nhất là hiện nay, yếu tố lợi thế về lao động dần dần bị thu hẹp lại giữa các quốc gia, các yếu tố khác như đất đai, vốn, khoa học - công nghệ ngày càng đóng vai trò quan trọng. Hai là, lý thuyết lợi thế so sánh không tính đến cơ cấu về nhu cầu tiêu dùng của mỗi nước. Ba là, lý thuyết không giải thích được nguồn gốc phát sinh thuận lợi của một nước đối với một loại sản phẩm nào đó, cho nên không giải thích triệt để nguyên nhân sâu xa của thương mại quốc tế. Bốn là, các phân tích của Ricardo không đề cập tới chi phí vận tải, bảo hiểm hàng hóa và hàng rào bảo hộ mậu dịch mà các nước dựng lên. Các yếu tố này ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả của thương mại quốc tế. Năm là, học thuyết này không xác định được tỷ lệ giao hoán quốc tế, tức là giá cả quốc tế, căn bản vẫn là hàng đổi hàng. Cuối cùng, trong thực tế có thể xảy ra trường hợp cả hai quốc gia đều có bất lợi thế tuyệt đối giống nhau. Trong trường hợp này, cả hai quốc gia đều không thu được lợi ích từ thương mại. Do đó, quy luật lợi thế so sánh có một trường hợp ngoại lệ, và để cho quy luật luôn luôn đúng thì quy luật này có thể được phát biểu như sau: Thậm chí, nếu một quốc gia kém hiệu quả hơn trong việc sản xuất cả hai hàng hoá Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 10 so với quốc gia khác thì cả hai quốc gia vẫn thu được lợi ích từ thương mại, trừ khi bất lợi thế tuyệt đối của quốc gia này so với quốc gia kia có cùng tỷ lệ đối với cả hai hàng hoá. 1.2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của hoạt động xuất khẩu hàng hóa Xuất khẩu hàng hóa là một bộ phận của hoạt động ngoại thương, là việc buôn bán hàng hoá và dịch vụ cho một quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán với nguyên tắc ngang giá. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hay đối với cả hai quốc gia. Hoạt động xuất khẩu được diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện kinh tế, từ xuất khẩu hàng hoá tiêu dùng đến hàng hoá sản xuất, từ máy móc thiết bị cho đến các công nghệ kỹ thuật cao, từ hàng hoá hữu hình cho đến hàng hoá vô hình. Tất cả các hoạt động trao đổi này đều nhằm mục đích đem lại lợi ích cho các quốc gia tham gia. Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác được lợi thế của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Việc trao đổi hàng hoá mang lại lợi ích cho các quốc gia, do đó các quốc gia đều tích cực tham gia mở rộng hoạt động này. Hoạt động xuất khẩu là hình thức cơ bản của ngoại thương đã xuất hiện từ rất lâu và ngày càng phát triển. Nếu xem xét dưới góc độ các hình thức kinh doanh quốc tế thì xuất khẩu là hình thức cơ bản đầu tiên mà các doanh nghiệp thường áp dụng khi bước vào lĩnh vực kinh doanh quốc tế. Có nhiều nguyên nhân khuyến khích các công ty thực hiện xuất khẩu trong đó có thể là: + Sử dụng khả năng vượt trội (hoặc những lợi thế) của công ty. + Giảm được chi phí cho một đơn vị sản phẩm do nâng cao khối lượng sản xuất. + Nâng cao được lợi nhuận của công ty. + Giảm được rủi ro do tối thiểu hoá sự dao động của nhu cầu. * Đặc điểm: - Hoạt động xuất khẩu diễn ra giữa hai hay nhiều quốc gia. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 11 - Hoạt động xuất khẩu có thể được tiến hành bởi tư nhân, doanh nghiệp trong nước hay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. - Thông thường các sản phẩm xuất khẩu là các mặt hàng lợi thế của quốc gia. * Vai trò của xuất khẩu - Đối với nền kinh tế quốc gia Xuất khẩu tạo vốn bằng ngoại tệ phục vụ cho vấn đề nhập khẩu những hàng hoá không phải là lợi thế của quốc gia. Điều này rất có ý nghĩa, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển, khi họ có nhu cầu nhập khẩu cao máy móc, dây chuyền công nghệ đáp ứng cho quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hoá đất nước. Xuất khẩu góp phần giảm thâm hụt cán cân thương mại do nhập khẩu, cán cân thanh toán của quốc gia sẽ được cải thiện và uy tín nền kinh tế của quốc gia cũng sẽ được nâng cao trên trường quốc tế. Xuất khẩu góp phần giải quyết nhiều vấn đề xã hội của quốc gia. Xuất khẩu tạo thêm vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, từ đó qui mô và chất lượng của nền kinh tế sẽ được nâng cao, sức ép về vấn đề thất nghiệp lên nền kinh tế quốc dân được giảm nhẹ. - Đối với doanh nghiệp Xuất khẩu sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao lợi nhuận, có nguồn thu ngoại tệ để phục vụ nhu cầu nhập khẩu tư liệu sản xuất, dây chuyền công nghệ có vốn để tái đầu tư sản xuất, mở rộng qui mô sản xuất, tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Xuất khẩu là động lực mạnh mẽ cho các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm về giá cả, chất lượng trên thị trường thế giới. Xuất khẩu giúp các doanh nghiệp có cơ hội mở rộng quan hệ kinh doanh với các đối tác nước ngoài, đồng thời có thể học hỏi kinh nghiệm quản lý, tác phong làm việc có hiệu quả của các doanh nghiệp nước ngoài. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 12 1.3. Các hình thức xuất khẩu hàng hóa 1.3.1. Xuất khẩu trực tiếp Trong hình thức này, các nhà xuất khẩu trực tiếp giao dịch và ký kết hợp đồng bán hàng cho các doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài được nhà nước và pháp luật cho phép. Với hình thức này không có sự tham gia của bất kỳ một tổ chức trung gian nào. 1.3.2. Xuất khẩu ủy thác Trong hình thức này, đơn vị xuất khẩu (bên nhận ủy thác) nhận xuất khẩu một lô hàng nhất định với danh nghĩa của mình và nhận được một khoản thù lao theo thỏa thuận với đơn vị có hàng xuất khẩu (bên ủy thác). Xuất khẩu uỷ thác được áp dụng trong trường hợp một doanh nghiệp có hàng hoá muốn xuất khẩu, nhưng vì doanh ngiệp không được phép tham gia trực tiếp vào hoạt động xuất khẩu hoặc không có điều kiện để tham gia. Theo hình thức này, quan hệ giữa người bán và người mua được thông qua người thứ ba gọi là trung gian (người trung gian phổ biến trên thị trường là đại lý và môi giới). 1.3.3. Buôn bán đối lưu Đây là phương thức giao dịch mà trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán hàng đồng thời là người mua, lượng hàng hoá mang trao đổi có giá trị tương đương. Mục đích của hình thức này không nhằm thu về một khoản ngoại tệ mà nhằm thu về một lượng hàng hoá có giá trị bằng giá trị lô hàng xuất khẩu. Hình thức xuất khẩu này giúp doanh nghiệp tránh được sự biến động của tỉ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối, đồng thời có lợi khi các bên không có đủ ngoại tệ để thanh toán cho lô hàng nhập khẩu của mình. Có nhiều hình thức buôn bán đối lưu: hàng đổi hàng (phổ biến), trao đổi bù trừ, chuyển giao nghĩa vụ... 1.3.4. Gia công xuất khẩu Là hình thức xuất khẩu, trong đó một bên (gọi là bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của bên khác (gọi là bên đặt gia công) để chế tạo ra thành phẩm giao lại cho bên đặt gia công và qua đó thu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 13 được một khoản phí như thỏa thuận của cả hai bên. Trong hình thức này bên nhận gia công thường là các quốc gia đang phát triển, có lực lượng lao động dồi dào, có tài nguyên thiên nhiên phong phú. Họ sẽ có lợi vì tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, có điều kiện đổi mới và cải tiến máy móc để nâng cao năng suất sản xuất. Còn đối với nước đặt gia công, họ khai thác được giá nhân công rẻ và nguyên phụ liệu khác từ nước nhận gia công. 1.3.5. Xuất khẩu theo nghị định thư Đây là hình thức mà doanh nghiệp xuất khẩu theo chỉ tiêu mà nhà nước giao cho để tiến hành xuất khẩu một hoặc một số loại hàng hóa nhất định cho chính phủ nước ngoài trên cơ sở nghị định thư đã được ký giữa hai chính phủ. Hình thức này cho phép doanh nghiệp tiết kiệm được các khoản chi phi trong việc nghiên cứu thị trường, tìm kiếm bạn hàng. Mặt khác, thực hiện hình thức này thường không có rủi ro trong thanh thư. Xuất khẩu theo hình thức này có nhiều ưu đãi như: khả năng thanh toán nhanh, rủi ro thấp... 1.3.6. Xuất khẩu tại chỗ Là hình thức kinh doanh mà hàng xuất khẩu không cần vượt qua biên giới quốc gia nhưng khách hàng vẫn có thể mua được. Ở hình thức này, doanh nghiệp không cần phải đích thân ra nước ngoài đàm phán trực tiếp với người mua mà chính người mua lại tìm đến với doanh nghiệp. Do vậy, doanh nghiệp tránh được những thủ tục rắc rối của hải quan, không phải thuê phương tiện vận chuyển, không phải mua bảo hiểm hàng hóa. Hình thức này thường được áp dụng đối với quốc gia có thế mạnh về du lịch và có nhiều tổ chức nước ngoài đóng tại quốc gia đó. 1.3.7. Tạm nhập tái xuất Với hình thức này, một nước sẽ xuất khẩu những hàng hóa đã nhập từ một nước khác sang nước thứ ba. Ưu điểm của hình thức này là doanh nghiệp có thể thu được một khoản lợi nhuận cao mà không phải tổ chức sản xuất, đầu tư vào trang thiết bị, nhà xưởng, khả năng thu hồi vốn cao. Hình thức này Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 14 được áp dụng khi có sự khó khăn trong quan hệ quốc tế giữa nước xuất khẩu và nước nhập khẩu. 1.4. Nội dung chính của hoạt động xuất khẩu hàng hóa 1.4.1. Nghiên cứu tiếp cận thị trường Thị trường là một phạm trù khách quan gắn liền sản xuất với lưu thông hàng hóa. Ở đâu có sản xuất và lưu thông hàng hóa thì ở đó có thị trường. Theo nghĩa rộng, “Thị trường là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu, giữa tập người bán và tập người mua để thực hiện việc mua – bán hàng hóa, dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu của họ”. Theo nghĩa hẹp (trong marketing): Thị trường còn đồng nghĩa với khách hàng. Hàng hóa, dịch vụ nào có người mua, thì ta nói hàng hóa, dịch vụ đó có thị trường và ngược lại. Nghiên cứu thị trường trong kinh doanh thương mại quốc tế là một loạt các thủ tục, kỹ thuật được đưa ra để giúp các nhà kinh doanh có đầy đủ những thông tin cần thiết về thị trường, từ đó có thể đưa ra những quyết định chính xác. Chính vì vậy, nghiên cứu thị trường đóng một vai trò hết sức quan trọng giúp các nhà kinh doanh đạt hiệu quả cao trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Không phải chỉ đối với kinh doanh thương mại quốc tế mà bất cứ trong lĩnh vực nào cũng đòi hỏi các nhà kinh doanh phải có đầy đủ các thông tin, hiểu biết về thị trường mà mình đang hướng tới. Mỗi thị trường hàng hoá cụ thể lại có những quy luật riêng, quy luật này thể hiện qua sự biến đổi nhu cầu cung cấp và giá cả hàng hoá trên thị trường. Nghiên cứu thị trường Lập kế hoạch, chiến lược xuất khẩu Đàm phán và ký kết hợp đồng xuất khẩu Thực hiện hợp đồng xuất khẩu Sơ đồ 1.1: Các bƣớc thực hiện xuất khẩu hàng hoá Việc nghiên cứu thị trường sẽ giúp cho các nhà kinh doanh hiểu được các quy luật vận động trên thị trường đó. Điều này trong kinh doanh quốc tế Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 15 càng đòi hỏi phải nghiên cứu công phu và tỷ mỉ hơn, vì giá cả và khối lượng hàng thường lớn hơn so với thương mại trong nước, hơn nữa là do các nhà kinh doanh trong nước phải tiếp xúc với môi trường kinh doanh mới, có yếu tố quốc tế... Chính vì vậy, việc nghiên cứu thị trường phải có kế hoạch nhất định bao gồm: nhận biết về sản phẩm xuất khẩu, lùa chọn thị trường và tìm hiểu đối tác. Khi nghiên cứu thị trường nước ngoài, doanh nghiệp phải xác định được các vấn đề sau: a- Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu (bán gì?) Đây là một trong những nội dung cơ bản và cần thiết đầu tiên, các doanh nghiệp có ý định gia nhập vào thị trường thương mại quốc tế thì trước tiên phải xác định được mặt hàng mà mình sẽ đưa ra. Mục đích của việc lựa chọn mặt hàng xuất khẩu là để lùa chọn được những mặt hàng kinh doanh phù hợp khả năng của doanh nghiệp, đồng thời đáp ứng được nhu cầu thị trường, từ đó mới mang lại hiệu quả cao trong kinh doanh. Mặt hàng được lựa chọn, ngoài yêu cầu phải đạt tiêu chuẩn phù hợp với thị trường quốc tế còn phải phù hợp với khả năng cung ứng của doanh nghiệp.. Khi lùa chọn mặt hàng xuất khẩu các nhà kinh doanh phải chú ý nghiên cứu những vấn đề sau: - Mặt hàng thị trường đang cần là gì ? - Tình hình tiêu thụ mặt hàng đó như thế nào? - Mặt hàng đó đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống? b, Lựa chọn thị trường xuất khẩu (bán ở đâu) Việc lựa chọn thị trường để xuất khẩu phức tạp hơn nhiều so với việc nghiên cứu thị trường trong nước, bởi ngoài việc nghiên cứu về quy luật vận động của thị trường... còn phải nghiên cứu một số vấn đề khác như: điều kiện tiền tệ, tín dụng, điều kiện vận tải (của thị trường nước ngoài mà mình hướng tới)...Việc lùa chọn thị trường phải chú ý một số vấn đề sau: - Thị trường và dung lượng thị trường - Vấn đề biến động giá cả trên thị trường. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 16 c- Lựa chọn đối tác kinh doanh (bán cho ai?) Trong hoạt động xuất khẩu, để có thể thâm nhập vào thị trường nước ngoài một cách thuận lợi, hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro, doanh nghiệp phải thông qua mét hay nhiều công ty đang hoạt động trên thị trường đó. Họ có kinh nghiệm kinh doanh trên thị trường mình cần hướng tới cũng như địa vị pháp lý để đảm bảo cho hai bên hoạt động một cách thuận lợi. Nhưng khi lựa chọn đối tác cần phải chú ý tới: - Quan điểm kinh doanh của đối tác; - Lĩnh vực kinh doanh của đối tác; - Khả năng về tài chính; - Uy tín và mối quan hệ của đối tác kinh doanh; - Những người đại diện cho công ty kinh doanh và phạm vi trách nhiệm của họ đối với công ty nếu người giao dịch trực tiếp là đại diện của công ty. 1.4.2. Xây dựng kế hoạch, chiến lược xuất khẩu Dựa vào kết quả thu được từ việc nghiên cứu thị trường, các đơn vị kinh doanh xuất khẩu cần xây dựng một kế hoạch kinh doanh cụ thể. Đây là bước chuẩn bị trên giấy tờ, dự đoán về diễn biến của quá trình xuất khẩu hàng hoá cũng như mục tiêu sẽ đạt được khi thực hiện quá trình này. Kế hoạch kinh doanh là phương án hoạt động cụ thể của doanh nghiệp nhằm đạt được các mục tiêu xác định trong kinh doanh. Một kế hoạch kinh doanh có cơ sở khoa học và thực tiễn dựa trên cơ sở phân tích chuẩn xác và đúng dắn về thị trường, bạn hàng cũng như về nội lực của công ty mình sẽ góp phần vào thành công trong kinh doanh. 1.4.3. Đàm phán và ký kết hợp đồng xuất khẩu Sau khi nghiên cứu về thị trường, mặt hàng xuất khẩu, tìm hiểu đối tác và đàm phán để thoả thuận mọi điều kiện có liên quan thì doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu và đối tác sẽ thực hiện bước tiếp theo là ký kết hợp đồng. Khi đã ký kết hợp đồng có nghĩa giữa doanh nghiệp kinh doanh xuất Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 17 khẩu và đối tác cùng ràng buộc với nhau thông qua các điều khoản quy định trong hợp đồng. 1.4.4. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu Sau khi đã ký kết hợp đồng, người xuất khẩu sẽ tổ chức thực hiện hợp đồng mình đã ký kết. Căn cứ vào nội dung hợp đồng, doanh nghiệp tiến hành sắp xếp các công việc phải làm, ghi thành bảng theo dõi tiến độ thực hiện hợp đồng. Chuẩn bị hàng hoá Xin giấy phép xuất khẩu Thuê tầu Kiểm nghiệm hàng hoá Làm thủ tục hải quan Giải quyết Hoàn thành Mua bảo Giao hàng khiếu nại bộ CTTT hiểm lên tầu Sơ đồ 1.2: Các bƣớc tiến hành việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu 1.5. Các nhân tố tác động đến xuất khẩu hàng hóa - GDP bình quân đầu người: Việc đưa yếu tố cung của nước xuất khẩu (PGDPit) và yếu tố cầu của nước nhập khẩu (PGDPjt) dựa trên cơ sở lý thuyết là mức thu nhập bình quân đầu người của nước xuất khẩu cao chứng tỏ khả năng sản xuất phục vụ xuất khẩu, còn mức thu nhập bình quân đầu người của nước nhập khẩu cao cho thấy mức cầu về nhập khẩu cao hơn. Tình hình phát triển kinh tế của thị trưòng xuất khẩu có ảnh hưởng tới nhu cầu và khả năng thanh toán của khách hàng, do đó có ảnh hưởng đến hoạt đông xuất khẩu của doanh nghiệp. Chính vì vậy, theo dự đoán của mô hình, khi các yếu tố khác không đổi thì thương mại giữa các quốc gia có quy mô GDP bình quân đầu nguời cao thường là cao (Frankel, 1993). - Dân số: Cho đến nay, trên phương diện lý thuyết, ảnh hưởng của dân số đến hoạt động thương mại vẫn chưa được xác định một cách nhất quán. Một mặt, dân số đông có thể khuyến khích phân công lao động và do đó cho phép các ngành công nghiệp đạt được lợi thế theo quy mô. Và như vậy, thương mại với các nước bạn hàng sẽ tăng lên. Điều đó có nghĩa là dân số có tác động tỷ lệ thuận đối với xuất khẩu (Oguledo and Macphee, 1994). Mặt Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 18 khác, quốc gia đông dân thường có diện tích tự nhiên lớn, và do đó sẵn có nguồn tài nguyên thiên nhiên. Hiệu ứng hấp thu của thị trường trong nước làm cho quốc gia này ít phục thuộc vào thương mại quốc tế. Do đó, dân số có tác động tỷ lệ nghịch với quy mô xuất khẩu (Endoh, 2000). Chính vì vậy, dân số có tác động tỷ lệ thuận hay tỷ lệ nghịch đối với thương mại hoàn toàn phụ thuộc vào hiệu ứng nào vượt trội hơn (hiệu ứng lợi thế theo quy mô hay hiệu ứng hấp thu). - Khoảng cách về mặt địa lý giữa các quốc gia: Trên thực tế, khoảng cách về mặt địa lý giữa các quốc gia thể hiện chi phí thương mại, bao gồm chi phí vận chuyển, chi phí về thời gian, chi phí bảo hiểm, tiếp cận thông tin về thị trường. Tất cả các nhân tố này có tác động rất lớn đến thương mại. Thương mại quốc tế diễn ra giữa các quốc gia càng xa nhau thì chi phí này càng lớn. Chính vì vậy, các quốc gia thường có xu hướng ít trao đổi buôn bán với đối tác thương mại ở xa. Nói cách khác, khoảng cách về mặt địa lý có tác động tỷ lệ nghịch với kim ngạch xuất khẩu nói chung, và với kim ngạch xuất khẩu nông sản nói riêng (Martinez-Zarzoso, 2003). - Độ mở của nền kinh tế: Mặc dù thương mại quốc tế mang lại nhiều lợi ích cho các quốc gia tham gia thương mại, nhưng trên thực tế không một quốc gia nào cho phép hàng hoá và dịch vụ ra vào quốc gia mình một cách tự do. Thông thường mỗi quốc gia đều có chính sách thương mại quốc tế riêng của nước mình phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của từng nước. Để can thiệp vào dòng chảy thương mại quốc tế, các quốc gia sử dụng nhiều biện pháp và công cụ (thuế quan và rào cản phi thuế quan). Các rào cản này đã làm cản trở đáng kể luồng hàng hoá và dịch vụ di chuyển giữa các quốc gia. Như vậy, quốc gia có độ mở của nền kinh tế cao sẽ có xu hướng trao đổi buôn bán và lệ thuộc vào thương mại nhiều hơn. - Năng lực sản xuất của ngành nông nghiệp: Trên phương diện lý thuyết, nông sản sản xuất ra nhằm phục vụ tiêu dùng trong nước và thị trường quốc tế. Nhìn chung, các quốc gia có năng lực sản xuất nông nghiệp cao sẽ có Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan