Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bảo vệ quyền con người của trẻ em bằng pháp luật hình sự việt nam...

Tài liệu Bảo vệ quyền con người của trẻ em bằng pháp luật hình sự việt nam

.PDF
287
86
115

Mô tả:

MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng, biểu Trang MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 9 1.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước về bảo vệ quyền con người của trẻ em bằng 9 pháp luật hình sự .................................................................................................................................................................... ...... 1.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước về bảo vệ quyền con người của trẻ em bằng 20 pháp luật hình sự .......................................................................................................................................................................... 1.2.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 27 ............................................................ 1.43. Giả thuyết nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu 29 ............................................................................................. KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ................................................................................................................................................... 30 Chƣơng 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ BẢO 31 VỆ QUYỀN CON NGƢỜI CỦA TRẺ EM BẰNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ 2.1. Khái niệm quyền con người của trẻ em và bảo vệ quyền con người của trẻ em bằng 31 pháp luật hình ......................................................................................... .................................................................................. bằng sự pháp luật hình sự 2.1.1. Khái niệm bảo vệ quyền con người của trẻ em bằng pháp luật hình sự Đo vệ quyền con người của trẻ em bằng pháp luật hình sự .................................luật hình Formatted: Font: 13 pt, Not Bold, Italic, Vietnamese, Not Superscript/ Subscript, Condensed by 0.2 pt sự...ệm trước pháp luật.ঽ 坰‫ ڊ‬뷰Е quyệ quyền con người của trẻ em bằng pháp luật hình sự ...............iệm về quyền con người của trẻ em; thứ ba là phạm vi quyền con người của trẻ em 2.2. Sự cần thiết và phương thức Bbảo vệ quyền con người của trẻ em bằng pháp luật hình 43 sự .. 2.2.2. Các phương th. bền con người của tườg th. bền con ngườiáp luh. ình 2.3. Chính 48 sách pháp luật hình sự trong bảo vệ quyền con người của trẻ em ..................................... 2.4. Các chuẩn mực quốc tế và kinh nghiệm lập pháp một số quốc gia trên thế giới trong 51 Formatted: Font: (Default) Times New Roman, 13 pt, Not Bold, Italic, Vietnamese, Not Superscript/ Subscript, Condensed by 0.4 pt việc bảo vệ quyền con người của trẻ em bằng pháp luật hình sự ..................... ........................................ KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ................................................................................................................................................... 76 CHƢƠNG 3: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ BẢO 78 VỆ QUYỀN CON NGƢỜI CỦA TRẺ EM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 3.1. Khái quát lịch sử lập phápquy định của pháp luật hình sự Việt Nam về vấn đề 78 bảo vệ quyền con người ........................................................................................... của trẻ em................................................................................ bằng pháp luật hình sự 3.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về bảo vệ quyền con người 94 của trẻ em .......................................................................................................................... .. ............................................................... 3.3. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về bảo vệ quyền con người của 119 trẻ em ở Việt Nam .................................................................................... .................................................................................... KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ................................................................................................................................................... 142 CHƢƠNG 4: YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG 144 BẢO VỆ QUYỀN CON NGƢỜI CỦA TRẺ EM BẰNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM 4.1. Yêu cầu tăng cường bảo vệ quyền con người của trẻ em ở Việt Nam .............................. 144 4.2. Các giải pháp tăng cường bảo vệ quyền con người của trẻ em bằng pháp luật 147 hình sự ở Việt Nam............................. ............................................................................................... ........................................ KẾT LUẬN CHƢƠNG 4 ............................................................................................................................. .................... 174 KẾT LUẬN ............................................................................................................................. ...................................................... 176 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................................. 180 PHỤ LỤC 1 PHỤ LỤC 2 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự CRC Công ước quốc tế về quyền trẻ em NCTN Người chưa thành niên PLHS Pháp luật hình sự TAND Tòa án nhân dân TANDTC Tòa án nhân dân tối cao TNHS Trách nhiệm hình sự Số bảng, biểu Bảng 3.1: Bảng 3.2: Bảng 3.3: Bảng 3.4: Bảng 3.5: Bảng 3.6: Bảng 3.7: Biểu đồ 3.1 Bảng 3.8: Biểu đồ 3.2 Bảng 3.9: Biểu đồ 3.3 Bảng 3.10: Biểu đồ 3.4 Bảng 3.11: Biểu đồ 3.5 Bảng 3.12: Biểu đồ 3.6 Bảng 3.13: DANH MỤC BẢNG, BIỂU Tên bảng, biểu Bảng 3.1: biểu BIỂU caoền trẻ em..BIỂUi xâm phh tình dh phbiểu BIỂU caoền trẻ em..BIỂUi..... Mức hình phạt cao nhất trẻ em phạm tội có thể bị áp dụng theo BLHS 1985 và BLHS 1999 Tổng hợp phạm vi chịu TNHS và phạm vi miễn TNHS của trẻ em So sánh các biện pháp giám sát, giáo dục trong trường hợp miễn TNHS đối với trẻ em phạm tội So sánh mức hình phạt cao nhất mà trẻ em có thể bị áp dụng với một tội phạm so với người phạm tội khác So sánh quyết định hình phạt đối với trẻ em phạm tội và nhóm chủ thể khác Diễn biến tình hình thụ lý và xét xử Tội giết con mới đẻ trong cả nước từ năm 2009 đến năm 2018 Diễn biến tình hình thụ lý và xét xử Tội phá thai trái phép trong cả nước từ năm 2009 đến năm 2018 Diễn biến tình hình thụ lý và xét xử Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em trong cả nước từ năm 2009 đến năm 2018 Diễn biến tình hình thụ lý và xét xử Tội mua dâm người chưa thành niên trong cả nước từ năm 2009 đến năm 2018 Diễn biến tình hình thụ lý và xét xử Tội hiếp dâm trẻ em trong cả nước từ năm 2009 đến năm 2018 Diễn biến tình hình thụ lý và xét xử Tội cưỡng dâm trẻ em trong cả nước từ năm 2009 đến năm 2018 Diễn biến tình hình thụ lý và xét xử Tội giao cấu với trẻ em Trang 84 Formatted: Font: (Default) Times New Roman, 13 pt, Not Bold, Swedish (Sweden) 93 Formatted: Font: (Default) Times New Roman, 13 pt, Not Bold, Swedish (Sweden) 111, 115 115 Formatted: Font: (Default) Times New Roman, 13 pt, Not Bold, Swedish (Sweden) 117 117 120,122 120,122 120,121, 122 120,122 120,122 120,122 120,122 Biểu đồ 3.7 Bảng 3.14: Biểu đồ 3.8 Bảng 3.15: Biểu đồ 3.9 Bảng 3.16: trong cả nước từ năm 2008 đến 2018 Diễn biến tình hình thụ lý và xét xử Tội dâm ô với trẻ em trong 120, 122 cả nước từ năm 2009 đến năm 2018 Bảng thống kê số vụ và số bị cáo phạm các tội xâm phạm quyền 120,121, con người của trẻ em trong cả nước từ năm 2009 đến năm 2018 122 Bảng tổng hợp TNHS áp dụng đối với các bị cáo phạm các tội xâm phạm 120 quyền con người của trẻ em trong cả nước từ năm 2009 đến năm 2018 2, 127 Thống kê số vụ, số bị cáo là người chưa thành niên Bảng 3.17: Biểu đồ 3.10 và bị cáo là trẻ em bị xét xử trong cả nước từ năm 2009 đến năm 2018 Bảng 3.18: Thống kê số bị cáo và TNHS áp dụng đối với NCTN phạm tội trong cả nước từ năm 2009 đến năm 2018 Biểu đồ 3.11 TNHS áp dụng với NCTN phạm tội trong đó có trẻ em phạm tội trong cả nước từ năm 2009 đến năm 2018 130 Formatted: Font: (Default) Times New Roman, 13 pt, Not Bold, Not Superscript/ Subscript, Condensed by 0.2 pt Formatted: Font: (Default) Times New Roman, 13 pt, Not Bold, Not Superscript/ Subscript, Condensed by 0.2 pt Formatted: Font: 13 pt, Not Bold, Not Superscript/ Subscript 130 Formatted: Font: 13 pt, Not Bold Formatted: Font: (Default) Times New Roman, 13 pt, Not Bold, Not Superscript/ Subscript MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu Vấn đề bảo vệ quyền con người của trẻ em luôn luôn được coi là một trong những chính sách hàng đầu của các quốc gia. Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á và thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước về Quyền trẻ em vào ngày 20/2/1990. Mặc dù đã đạt được một số thành tựu to lớn trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, nhưng chúng ta vẫn còn những bất cập, hạn chế và thách thức nhất định liên quan đến việc hiện thực hoá đầy đủ và nâng cao không ngừng khả năng được thụ hưởng quyền con người của trẻ em. Về pháp lý, Hiến pháp năm 2013 đã dành một chương riêng về quyền con người đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho các chính sách và các hoạt động bảo vệ các quyền con người nói chung và quyền con người của trẻ em nói riêng ở nước ta. Từ đó, chúng ta đã có những quy định mang tính cụ thể hóa vấn đề bảo vệ quyền con người của trẻ em như Luật trẻ em 2016, Bộ luật dân sự 2015, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và là một trong những khách thể quan trọng được bảo vệ bằng các chế định về tội phạm và hình phạt trong BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (gọi tắt là BLHS năm 2015). Về thực tiễn thực thi pháp luật, ngày càng nhiều các tổ chức phi chính phủ, tổ chức xã hội về bảo vệ quyền con người của trẻ em được thành lập và hoạt động hiệu quả, nhiều mô hình “nhà an toàn”, “nhà tạm lánh”, làn sóng chống lại các hành vi bạo lực thể chất, tinh thần trẻ em ngày càng được lan rộng và hiệu quả. Tuy nhiên, tình trạng trẻ em bị xâm phạm quyền con người và trẻ em phạm tội vẫn ngày càng gia tăng về số lượng và tính chất nguy hiểm. Thông qua số liệu xét xử hàng năm của Tòa án các cấp về các tội xâm phạm đến các quyền con người của trẻ em cho thấy tình trạng trẻ em Việt Nam bị xâm hại, lạm dụng là rất cao: tính từ năm 2009 đến năm 2018 [80] mỗi năm trung bình có khoảng hơn 1.200 trẻ em bị xâm hại tình dục với hơn 560 vụ hiếp dâm trẻ em, khoảng 664 vụ giao cấu với trẻ em, khoảng 200 vụ dâm ô trẻ em còn lại là các hành vi xâm phạm tình dục khác như cưỡng dâm trẻ em, mua dâm người chưa thành niên (viết tắt NCTN) (trong đó có tới 21,1% là nạn nhân dưới 10 tuổi), có khoảng 3 trẻ em bị chính mẹ đẻ của mình giết hại khi mới sinh ra và khoảng 53 trẻ em bị mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt, ngoài ra còn số lượng trẻ em bị giết hại, bị gây thương tích, bị hành hạ ngược đãi bởi cha mẹ, cơ sở giáo dục. Theo thống kê, có 28 tỉnh, thành phố trong hai năm 2016 hoặc 2017 có từ 30 đến 110 trẻ em bị xâm hại trong các vụ việc xâm hại tình dục, bạo lực trẻ em bị xử lý hình sự (Hà Nội, Tp HCM, Đăk Lăc, Đồng Nai, An Giang, Tây Ninh, Bà Rịa- Vũng Tàu, Kiên Giang, Sơn La, Bình Dương, Hà Giang, Thanh Hóa, Gia Lai, Tiền Giang, Cần Thơ, Quảng Ninh, Bình Phước, Sóc Trăng, Cà Mau, Phú Thọ, Hòa Bình, Yên 1 Formatted: Font: (Default) Times New Roman, 13 pt, Finnish, Not Highlight Bái, Lao Cai, Bạc Liêu, Lâm Đồng, Bình Thuận, Thái Nguyên, Khánh Hòa) [6, tr.7]. Trẻ em bị xâm hại tình dục bởi người thân trong gia đình (bố đẻ, bố dượng, anh, em họ...) là 21,3%; bởi giáo viên, nhân viên nhà trường là 6,2%, bởi người quen, hàng xóm là 59,9%; bởi các đối tượng khác là 12,6% [6, tr.12]. Tuy nhiên, đây mới chỉ là con số thống kê những vụ án đã được đưa ra xét xử hoặc đã được nạn nhân tìm đến sự trợ giúp, còn số Formatted: Font: (Default) Times New Roman, 13 pt, Finnish Formatted: Font: (Default) Times New Roman, 13 pt, Not Highlight Formatted: Font: (Default) Times New Roman, 13 pt, Not Highlight lượng tội phạm ẩn không được đưa ra xử lý do bị hại và gia đình không tố giác hoặc không bị phát hiện mới hoặc đã bị đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án từ giai đoạn trước khi xét xử là tảng băng chìm lớn của thực trạng trẻ em bị xâm hại. Trong một nghiên cứu đã được công bố, đối với nạn nhân của các tội phạm tình dục là phụ nữ và trẻ em gái “100% các nạn nhân rơi vào tình trạng xấu hổ, 96% rơi vào trạng thái hoảng sợ, lo lắng và hay giật mình, 92% rơi vào trạng thái sợ hãi và rối loạn tâm lý, 80,9% thừa nhận mất một thời gian mới trở lại cuộc sống bình thường, 52,3% rơi vào trạng thái mất ngủ, 49% có ý định tự sát, 30,1% có cảm giác ghê sợ đàn ông” [61, tr.37] đã cho thấy ảnh hưởng tiêu cực và mức độ nghiêm trọng của loại tội phạm này. Formatted: Font color: Black, Finnish Bên cạnh đó, cũng theo thống kê của TANDTC, trung bình mỗi năm có khoảng 3941 NCTN bị đưa ra xét xử trong đó số trẻ em phạm tội bị đưa ra xét xử chiếm khoảng 5% [Phụ lục, Bảng 3.17]. Mặc dù chính sách hình sự cũng như sự cụ thể hóa trong pháp luật hình sự (viết tắt là PLHS), pháp luật tố tụng hình sự, pháp luật thi hành án hình sự của Việt Nam đã phần nào khẳng định mục tiêu bảo vệ các quyền con người của trẻ em phạm tội khi các em phải tiếp xúc với hệ thống tư pháp hình sự như các chế định liên quan đến người bào chữa, người đại diện, quyền được tiếp cận thông tin và bảo mật thông tin cá nhân… đến các chế định về phạm vi chịu trách nhiệm hình sự (viết tắt là TNHS), nguyên tắc, mục đích và các biện pháp xử lý hình sự…. Tuy nhiên, việc tiếp tục mở rộng phạm vi bảo vệ cũng như các nội dung bảo vệ quyền con người của nhóm trẻ em này là thực sự cần thiết nhằm hạn chế số lượng trẻ em phạm tội, trẻ em tái phạm, tái phạm nguy hiểm để các em phát triển lành mạnh, tự tin trở thành công dân có ích cho xã hội. Bất kỳ sự xâm hại tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm nào của trẻ em cũng đều xâm phạm đến quyền con người mà các em được bảo vệ. Các quyền ưu tiên mà trẻ em được hưởng hơn các chủ thể pháp luật khác thể hiện chính sách bảo hộ tối đa cho trẻ em. Xuất phát từ yếu tố nội sinh của độ tuổi chưa trưởng thành của các em, cũng như bắt nguồn từ chính sách chung của pháp luật quốc tế cùng với chức năng chính là bảo vệ, PLHS đem đến cho trẻ em sự an toàn và công bằng cho dù các em là đối tượng tác động của tội phạm hay là chủ thể của tội phạm. Trong Bình luận chung số 10 quyền trẻ em trong tư pháp người chưa thành niên của Liên Hợp Quốc đã khuyến nghị rằng: “Trẻ em khác biệt với người trưởng thành về sự phát triển thể chất và tâm lý, ở nhu cầu tình cảm và nhu cầu được giáo dục. Những khác biệt đó là cơ sở để giảm nhẹ tội cho những trẻ em 2 có xung đột với pháp luật. Những khác biệt này và cả những khác biệt khác là lý do để xây dựng một hệ thống tư pháp riêng cho NCTN và đòi hỏi sự đối xử riêng đối với trẻ em” [43, tr.778]. Chính vì thế trẻ em phạm tội hay trẻ em là đối tượng tác động của tội phạm cũng đều là chủ thể được bảo vệ bởi chính sách hình sự đặc thù, riêng biệt. BLHS năm 1999 đã có những quy định thể hiện chính sách bảo vệ quyền con người của trẻ em: trên phương diện bảo vệ trẻ em là đối tượng tác động của tội phạm, BLHS đã tội phạm hóa nhiều hành vi xâm phạm quyền con người của trẻ em như các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và sự phát triển lành mạnh của trẻ em cũng như xác định phạm tội với trẻ em là tình tiết tăng nặng TNHS; trên phương diện bảo vệ trẻ em phạm tội BLHS đã thể hiện chính sách hình sự mang tính ưu tiên đối với trẻ em phạm tội như nguyên tắc xử lý trẻ em phạm tội, độ tuổi và phạm vi chịu TNHS, hình phạt, quyết định hình phạt… đối với nhóm đối tượng này. Tuy nhiên, các quy định này vẫn còn bó hẹp và còn nhiều điểm chưa hợp lý như: còn bỏ lọt hành vi xâm phạm quyền con người của trẻ em nghiêm trọng nhưng chưa được hình sự hóa, hình phạt còn chưa thể hiện tính nghiêm khắc và tính phòng ngừa cao; đối với các quy định bảo vệ trẻ em phạm tội còn chưa phù hợp, đặc biệt các chế tài còn nặng về giam giữ. Bên cạnh đó, Unicef Việt Nam khi đánh giá khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn xét xử các vụ án bị cáo là NCTN để đưa ra sự cần thiết phải thành lập Tòa án chuyên trách đối với NCTN ở Việt Nam đã nhận định “Một trong những nguyên nhân làm người chưa thành niên phạm tội tái phạm chính là vì luật còn thiếu cơ chế hỗ trợ giúp người chưa thành niên phạm tội nhận thức được lỗi lầm của mình để khắc phục các nguyên nhân, điều kiện phạm tội của mình…Các chế tài không tước tự do hạn chế về giáo dục và giá trị phục hồi thấp nên đã khiến các Tòa án ngần ngại áp dụng trong thực tiễn” [94, tr.39]. Với việc khắc phục nhiều hạn chế của BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 đã có nhiều điểm nổi bật về bảo vệ quyền con người của trẻ em như: mở rộng hành vi xâm phạm quyền con người của trẻ em phải chịu TNHS, thu hẹp phạm vi chịu TNHS của trẻ em và các biện pháp tư pháp phục hồi được quy định cụ thể, đa dạng hơn... Tuy nhiên, việc tiếp tục nghiên cứu một cách khoa học, toàn diện, có hệ thống về lý luận và thực tiễn các quy định bảo vệ quyền con người của trẻ em được thể hiện trong BLHS năm 2015, làm rõ những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn xét xử cũng như những nguyên nhân dẫn đến những vướng mắc, bất cập đó để đưa ra những biện pháp góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật, bảo đảm áp dụng PLHS hiệu quả trong bảo vệ quyền con người của trẻ em trên hai phương diện trẻ em là đối tượng tác động của tội phạm và trẻ em là chủ thể của tội phạm trong đề tài “Bảo vệ quyền con người của trẻ em bằng pháp luật hình sự Việt Nam” là rất cần thiết và đảm bảo tính cấp bách của xã hội. 3 Formatted: Level 1, Line spacing: Multiple 1.35 li 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: Việc nghiên cứu đề tài hướng đến làm sáng tỏ các vấn đề lý luận để xây dựng khung lý thuyết về bảo vệ quyền con người của trẻ em bằng PLHS trong đó trẻ em được bảo vệ bao gồm trẻ em là đối tượng tác động của tội phạm và trẻ em là chủ thể của tội phạm; đồng thời làm rõ thực trạng bảo vệ quyền con người của trẻ em bằng PLHS Việt Nam trên cả phương diện lập pháp và áp dụng pháp luật nhằm kiến nghị giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu qu0ả áp dụng của những quy định này, cũng như đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy hơn nữa bảo vệ quyền con người của trẻ em và phòng chống xâm hại quyền con người của trẻ em trong thực tế. Để đạt được mục đích nêu trên, luận án phải giải quyết các nhiệm vụ: Thứ nhất, xây dựng cơ sở lý luận của việc bảo vệ quyền con người của trẻ em bằng PLHS, trong đó làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản như: khái niệm, đặc điểm, sự cần thiết, các phương thức và chuẩn mực quốc tế đối với bảo vệ quyền con người của trẻ em bằng PLHS. Đồng thời trong phần cơ sở lý luận chỉ rõ phạm vi các quyền con người của trẻ em được PLHS bảo vệ để làm cơ sở tiếp cận các chuẩn mực quốc tế và PLHS Việt Nam một cách thống nhất trong luận án. Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy địnhpháp luật về bảo vệ quyền con người của trẻ em bằng PLHS Việt Nam. Thứ ba, nghiên cứu so sánh các quy định bảo vệ quyền con người của trẻ em trong lịch sử PLHS Việt Nam để đánh giá lịch sử lập pháp PLHS nước ta và nghiên cứu so sánh các quy định của PLHS một số quốc gia trên thế giới nhằm tham khảo, học tập các kinh nghiệm và sự tiến bộ trong bảo vệ quyền con người của trẻ em của PLHS các quốc gia đó. Thứ tư, đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng của các quy định bảo vệ quyền con người của trẻ em bằng PLHS Việt Nam hiện nay cũng như các giải pháp nhằm thúc đẩy hơn nữa bảo vệ và phòng chống xâm hại quyền con người của trẻ em trong thực tế. 3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Nhằm đạt được mục đích nghiên cứu và thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu nêu trên, lLuận án tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp luật và thực tiễn về bảo vệ quyền con người của trẻ em bằng PLHS bằng PLHSở Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu: Luận án nghiên cứu vấn đề bảo vệ quyền con người của trẻ em bằng PLHS Việt Nam dưới góc độ khoa học luật hình sự trên cơ sở phương pháp tiếp cận quyền con người với phạm vi những vấn đề nghiên cứu cụ thể sau: 4 Formatted: Not Highlight - Các quan điểm khoa học của các học giả trong nước và một số nước trên thế giới về bảo vệ quyền con người của trẻ em bằng PLHS. - Các chuẩn mực quốc tế về bảo vệ các quyền con người của trẻ em bằng PLHS và các quy định bảo vệ quyền con người của trẻ em bằng PLHS ở một số nước trên thế giới như Liên bang Nga, Cộng hòa liên bang Đức, Trung Quốc, Thụy Điển trên hai phương diện trẻ em là đối tượng tác động của tội phạm và trẻ em là chủ thể của tội phạm. - Hệ thống các quy định bảo vệ quyền con người của trẻ em bằng PLHS Việt Nam từ năm 1945 đến nay. Trong đó đối với trẻ em là đối tượng tác động của tội phạm, luận án tập trung làm rõ PLHS bảo vệ các quyền con người dễ bị tổn thương nhất của trẻ em thông qua nghiên cứu các quy định của PLHS về các tội phạm cụ thể mà dấu hiệu phạm tội với trẻ em là dấu hiệu định tội, là dấu hiệu định khung tăng nặng và là dấu hiệu áp dụng tình tiết tăng nặng TNHS. Đối với trẻ em là chủ thể của tội phạm, luận án hướng đến nghiên cứu các chế định trong Phần chung của BLHS thể hiện trọng tâm chính sách bảo vệ trẻ em phạm tội của nước ta. - Thực tiễn áp dụng pháp luật các tội xâm phạm quyền con người của trẻ em là đối tượng tác động của tội phạm và các chế định áp dụng đối với trẻ em phạm tội trên địa bàn cả nước trong thời gian từ năm 2009 đến năm 2018 với minh chứng củavà khảo sát ngẫu nhiên 435 bản án có trẻ em là đối tượng tác động của tội phạm và trẻ em là chủ thể của tội phạm. 4. Cơ sở phƣơng pháp luận, cách tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở phương pháp luận và cách tiếp cận Luận án sử dụng một số học thuyết, quan điểm làm quan điểm tiếp cận trong quá trình nghiên cứu. Cụ thể: - Phương pháp luận duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mac – Lênin, phương pháp luận này đáp ứng được yêu cầu xem xét đối tượng nghiên cứu trong môi trường vật chất mà nó tồn tại, từ đó đánh giá vấn đề từ những yếu tố quyết định chúng; - Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về quyền con người nói chung, quyền trẻ em nói riêng để làm rõ bản chất, các mối liên hệ và các yêu cầu của việc bảo đảm và bảo vệ các quyền con người nói chung và quyền con người của trẻ em nói riêng; - Lý thuyết về phương pháp tiếp cận dựa trên quyền con người – “lấy quyền con người làm trung tâm để xem xét và giải quyết vấn đề” [26, tr.18]. Với lý thuyết về cách tiếp cận này, luận án lấy chuẩn mực là các quyền con người của trẻ em làm tiêu chí để nghiên cứu, đánh giá và hoàn thiện pháp luật. - Các lý thuyết về phát triển tâm sinh lý trẻ em: 5 Formatted: Font: Italic Thuyết tâm lý – xã hội của Erick Erickson (nhà tâm lý học người Mỹ 1902- 1994): tác giả phân chia cuộc đời của con người thành 8 giai đoạn và mỗi giai đoạn có sự khủng hoảng xã hội, tâm lý khác nhau từ đó đưa đến sự chuyển hóa các mối liên hệ xã hội. Trong đó, giai đoạn thứ 5 – giai đoạn vị thành niên là giai đoạn NCTN trải qua một “cuộc cách mạng sinh lý” để hình thành bản sắc riêng. Thuyết sự phát triển của trẻ em của tác giả Jean Piaget (nhà tâm lý học người Thụy Sỹ 1896 – 1980): tác giả phân chia các giai đoạn phát triển của trẻ em thành 4 giai đoạn từ đó căn cứ vào đặc điểm của mỗi giai đoạn phát triển để có sự hỗ trợ cần thiết cho sự phát triển của trẻ. Những thuyết này giúp cho tác giả luận án nắm bắt được rõ các giai đoạn phát triển của trẻ em, những đặc điểm về tâm sinh lý, thể chất của các em trên cơ sở đó lý giải được cơ sở của các chính sách pháp luật đối với các em và đưa ra các luận điểm mang tính khoa học cho việc hoàn thiện PLHS cũng như các thiết chế khác nhằm bảo vệ tối đa lợi ích tốt nhất cho trẻ em. 4.2. Phương pháp nghiên c t Formatted: Font: Italic Để đạt được mục tiêu và nhiệm vụ đề ra, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phân tích, tổng hợp, so sánh luật học nhằm phân tích, bình luận các quy định của PLHS Việt Nam liên quan đến bảo vệ quyền con người của trẻ em trong lịch sử lập pháp và pháp luật Việt Nam hiện hành đồng thời nghiên cứu kinh nghiệm của PLHS một số quốc gia trên thế giới về bảo vệ quyền con người của trẻ em từ đó so sánh với pháp luật trong nước và rút ra những kinh nghiệm phù hợp với Việt Nam. Bên cạnh đó tác giả sử dụng phương pháp thống kê để phân tích số liệu thực tiễn áp dụng trong hoạt động xét xử các vụ án có trẻ em là đối tượng tác động của tội phạm và trẻ em là chủ thể của tội phạm ở Việt Nam trong thời gian qua từ đó đánh giá những ưu điểm, hạn chế, bất cập. Với phương pháp xã hội học pháp luật tác giả vận dụng để đưa ra các quan điểm, giải pháp về hoàn thiện PLHS, các biện pháp xã hội, văn hóa, giáo dục nhằm bảo vệ tốt hơn nữa quyền con người của trẻ em bằng PLHS Việt Nam. Các phương pháp nghiên cứu được tác giả sử dụng như sau: Chương 2: Đề cập đến những vấn đề lý luận chung về quyền con người của trẻ em, các phương thức bảo vệ quyền trẻ em bằng PLHS và kinh nghiệm một số nước trên thế giới. Phương pháp nghiên cứu là nghiên cứu tổng hợp các công trình đã được công bố liên quan đến đề tài, phân tích quy phạm pháp luật, đối chiếu văn bản, so sánh liên ngành và nghiên cứu lịch sử. Chương 3: Đánh giá thực trạng quy định của PLHS hiện hành và thực tiễn áp dụng của tòa án trong quá trình xét xử các vụ án hình sự trẻ em phạm tội và trẻ em là đối tượng tác động của tội phạm từ đó đánh giá những mặt tích cực cũng như hạn chế và nguyên 6 nhân của những hạn chế trong quá trình áp dụng PLHS để bảo vệ quyền con người của trẻ em để làm tiền để cho việc đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ trẻ em trong PLHS ở chương 4. Do đó, phương pháp nghiên cứu chính ở chương này là phương pháp tổng hợp, phân tích văn bản, thống kê, khảo sát thực tiễn. Chương 4: Trên cơ sở sử dụng phương pháp phân tích, diễn giải các kinh nghiệm của một số nước trên thế giới cũng như từ thực trạng của Việt Nam đã được nêu ở chương 3, tác giả tập trung đưa ra các giải pháp tăng cường bảo vệ trẻ em bằng PLHS đáp ứng nhu cầu trước mắt và lâu dài ở Việt Nam. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Luận án sau khi bảo vệ thành công sẽ là công trình khoa học pháp lý đầu tiên ở cấp độ luận án tiến sĩ nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống và chuyên sâu về bảo vệ quyền con người của trẻ em bằng PLHS Việt Nam . Với hướng tiếp cận lấy quyền con người của trẻ em làm trung tâm, luận án là công trình đầu tiên ở cấp độ nghiên cứu chuyên sâutừ góc độ cả quyền con người của trẻ em là đối tượng tác động của tội phạm và quyền con người của trẻ em là chủ thể của tội phạm. Luận án là công trình đầu tiên xây dựng cơ sở lý luận của việc bảo vệ quyền con người của trẻ em bằng PLHS, trong đó, lần đầu tiên các quyền con người cụ thể của trẻ em được bảo vệ thông qua các quy định của BLHS được nghiên cứu một cách có hệ thống từ chuẩn mực quốc tế đến sự tương thích của PLHS Việt Nam trong lịch sử lập pháp, pháp luật thực định và thực tiễn áp dụng. Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu một cách toàn diện về thực trạng pháp luật, thực trạng áp dụng pháp luật trong thời gian 10 năm ở Việt Nam với sự khảo sát hơn 400 bản án thực tế xét xử đồng thời phân tích, chắt lọc các quy định của PLHS một số quốc gia có tính phù hợp với điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội của Việt Nam, tác giả đã đề xuất định hướng hoàn thiện một số quy định cụ thể của pháp luật về bảo vệ quyền con người của trẻ em và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định này. 6. Ý nghĩa của luận án Về mặt lý luận: Luận án là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học luật hình sự cấp độ luận án của Việt Nam nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện, chuyên sâu và theo hướng tiếp cận mới, hiện đại về vấn đề bảo vệ quyền con người của trẻ em bằng PLHS. Do đó, luận án là công trình có thể đóng góp những tri thức lý luận, pháp lý và thực tiễn trong hệ thống tri thức khoa học luật hình sự và hệ thống tri thức về bảo vệ quyền con người của trẻ em. Về mặt thực tiễn: Những phân tích, so sánh, đánh giá, kiến giải lập pháp và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền con người của trẻ em bằng PLHS ở Việt 7 Nam có thể là tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác lập pháp, công tác bảo vệ trẻ em hiện nay và trong thời gian tới. Ngoài ra, với những tính mới và ý nghĩa lý luận, luận án còn có thể trở thành tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, cán bộ giảng dạy, học tập trong các cơ sở đào tạo đại học, sau đại học chuyên ngành tư pháp hình sự, là tài liệu tham khảo cho các cơ quan bảo vệ pháp luật trong quá trình áp dụng pháp luật và là tài liệu mang tính tra cứu cho các nhà hoạt động xã hội trong lĩnh vực bảo vệ trẻ em. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận án có kết cấu gồm 4 chương như sau: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2: Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền con người của trẻ em bằng pháp luật hình sự Chương 3: Thực trạng bảo vệ quyền con người của trẻ em bằng pháp luật hình sự ở Việt Nam Chương 4: Các giải pháp tăng cường bảo vệ quyền con người của trẻ em bằng pháp luật hình sự ở Việt Nam 8 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tính cấp thiết của đề tài Vấn đề bảo vệ quyền con người của trẻ em luôn luôn được coi là một trong những chính sách hàng đầu của các quốc gia. Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á và thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước về Quyền trẻ em vào ngày 20/2/1990. Mặc dù đã đạt được một số thành tựu to lớn trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, nhưng chúng ta vẫn còn những bất cập, hạn chế và thách thức nhất định liên quan đến việc hiện thực hoá đầy đủ và nâng cao không ngừng khả năng được thụ hưởng quyền con người của trẻ em. 9 Formatted: Justified, Line spacing: Multiple 1.35 li Về pháp lý, Hiến pháp năm 2013 đã dành một chương riêng về quyền con người đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho các chính sách và các hoạt động bảo vệ các quyền con người nói chung và quyền con người của trẻ em nói riêng ở nước ta. Từ đó, chúng ta đã có những quy định mang tính cụ thể hóa vấn đề bảo vệ quyền con người của trẻ em như Luật trẻ em 2016, Bộ luật dân sự 2015, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và là một trong những khách thể được PLHS bảo vệ bằng các chế định về tội phạm và hình phạt. Về thực tiễn thực thi pháp luật, ngày càng nhiều các tổ chức phi chính phủ, tổ chức xã hội về bảo vệ quyền con người của trẻ em được thành lập và hoạt động hiệu quả, nhiều mô hình “nhà an toàn”, “nhà tạm lánh”, làn sóng chống lại các hành vi bạo lực thể chất, tinh thần trẻ em ngày càng được lan rộng và hiệu quả. Tuy nhiên, tình trạng trẻ em bị xâm phạm quyền con người và trẻ em phạm tội vẫn ngày càng gia tăng và tính nguy hiểm cho xã hội cao hơn. Thông qua số liệu xét xử hàng năm của tòa án các cấp về các tội xâm phạm đến các quyền con người của trẻ em cho thấy tình trạng trẻ em Việt Nam bị xâm hại, lạm dụng là rất cao: tính từ năm 2008 đến năm 20171mỗi năm trung bình có khoảng hơn 1.200 trẻ em bị xâm hại tình dục với hơn 500 vụ hiếp dâm trẻ em, khoảng 567 vụ giao cấu với trẻ em, khoảng 167 vụ dâm ô trẻ em còn lại là các hành vi xâm phạm tình dục khác như cưỡng dâm trẻ em, mua dâm NCTN (trong đó có tới 21,1% là nạn nhân dưới 10 tuổi)2,có khoảng 3.6 trẻ em bị chính mẹ đẻ của mình giết hại khi mới sinh ra và khoảng 49 trẻ em bị mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt, ngoài ra còn số lượng trẻ em bị giết hại, bị gây thương tích, bị hành hạ ngược đãi bởi cha mẹ, cơ sở giáo dục cũng như các tội phạm ẩn không được đưa ra xét xử do bị hại và gia đình không tố giác hoặc không bị phát hiện mới là tảng băng chìm lớn của thực trạng trẻ em bị xâm hại. Trong một nghiên cứu đã được công bố, đối với nạn nhân của các tội phạm tình dục là phụ nữ và trẻ em gái “100% các nạn nhân rơi vào tình trạng xấu hổ, 96% rơi vào trạng thái hoảng sợ, lo lắng và hay giật mình, 92% rơi vào trạng thái sợ hãi và rối loạn tâm lý, 80,9% thừa nhận mất một thời gian mới trở lại cuộc sống bình thường, 52,3% rơi vào trạng thái mất ngủ, 49% có ý định tự sát, 30,1% có cảm giác ghê sợ đàn ông”3đã cho thấy ảnh hưởng tiêu cực và mức độ nghiêm trọng của loại tội phạm này. Bất kỳ sự xâm hại tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm nào của trẻ em cũng đều xâm phạm đến quyền con người mà các em được bảo vệ. Các quyền ưu tiên mà trẻ em được hưởng hơn các chủ thể pháp luật khác thể hiện chính sách bảo hộ tối đa cho trẻ 1 Vụ tổng hợp – thống kê TANDTC https://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/lanh-nan-o-ngoi-nha-binh-yen-20161224213416018.htm truy cập ngày 24/12/2016 3 Dương Tuyết Miên (2005), Những hậu quả về tâm lý đối với nạn nhân của tội hiếp dâm, hiếp dâm trẻ em và giải pháp khắc phục, Tạp chí Luật học, số Đặc san về bình đẳng giới, tr.35-40 Formatted: Condensed by 0.3 pt 2 10 Formatted: Default Paragraph Font, Font: (Default) +Body (Calibri), Condensed by 0.3 pt em. Xuất phát từ yếu tố nội sinh của độ tuổi chưa trưởng thành của các em, cũng như bắt nguồn từ chính sách chung của pháp luật quốc tế cùng với chức năng chính là bảo vệ, PLHS đem đến cho trẻ em sự an toàn và công bằng cho dù các em là đối tượng tác động của tội phạm hay là chủ thể của tội phạm. Trong Bình luận chung số 10 quyền trẻ em trong tư pháp người chưa thành niên của Liên Hợp Quốc đã khuyến nghị rằng: “Trẻ em khác biệt với người trưởng thành về sự phát triển thể chất và tâm lý, ở nhu cầu tình cảm và nhu cầu được giáo dục. Những khác biệt đó là cơ sở để giảm nhẹ tội cho những trẻ em có xung đột với pháp luật. Những khác biệt này và cả những khác biệt khác là lý do để xây dựng một hệ thống tư pháp riêng cho người chưa thành niên và đòi hỏi sự đối xử riêng đối với trẻ em”4. Chính vì thế trẻ em phạm tội hay trẻ em là đối tượng tác động của tội phạm cũng đều là chủ thể được bảo vệ bởi chính sách hình sự đặc thù, riêng biệt. Hàng năm, số lượng các vụ việc xâm hại trẻ em bị phát hiện, xử lý đã phần nào đem lại công bằng, giảm bớt những tổn thương cho các em và ổn định cho xã hội. Tuy nhiên, làm thế nào để những tổn thương đó không đến với các em mới thực sự là điều tốt nhất. Do đó cần có những biện pháp, cơ chế ngăn chặn, phòng ngừa và trừng trị, răn đe tội phạm đối với trẻ em là một nhu cầu cấp thiết, trong đó BLHS với các quy định về tội phạm và hình phạt sẽ là công cụ hữu hiệu nhất trong bảo vệ quyền con người của trẻ em và góp phần quan trong trong hoạt động xây dựng môi trường an toàn cho trẻ em. BLHS năm 1999 đã có những quy định thể hiện chính sách bảo vệ quyền con người của trẻ em: trên phương diện bảo vệ trẻ em là đối tượng tác động của tội phạm, BLHS đã tội phạm hóa nhiều hành vi xâm phạm quyền con người của trẻ em như các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và sự phát triển lành mạnh của trẻ em cũng như xác định phạm tội với trẻ em là tình tiết tăng nặng TNHS; trên phương diện bảo vệ trẻ em phạm tội BLHS đã thể hiện chính sách hình sự mang tính ưu tiên đối với trẻ em phạm tộinhư nguyên tắc xử lý trẻ em phạm tội, độ tuổi và phạm vi chịu TNHS, hình phạt, quyết định hình phạt…đối với nhóm đối tượng này. Tuy nhiên, các quy định này vẫn còn bó hẹp và còn nhiều điểm chưa hợp lý như: còn bỏ lọt hành vi xâm phạm quyền con người của trẻ em nghiêm trọng nhưng chưa được hình sự hóa, hình phạt còn chưa thể hiện tính nghiêm khắc và tính phòng ngừa cao; đối với các quy định bảo vệ trẻ em phạm tội còn chưa phù hợp, đặc biệt các chế tài còn nặng về giam giữ. Bên cạnh đó, Unicef Việt Nam khi đánh giá khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn xét xử các vụ án bị cáo là NCTN để đưa ra sự cần thiết phải thành lập Tòa án chuyên trách đối với NCTN ở Việt Nam đã nhận định “Một trong những nguyên nhân làm người chưa thành niên phạm tội tái phạm chính là vì luật còn thiếu cơ chế hỗ trợ giúp người chưa thành niên phạm tội 4 Khoa Luật – ĐHQGHN (2010), Quyền con người – Tập hợp những bình luận và khuyến nghị chung của Ủy ban công ước Liên Hợp Quốc, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; tr.778 11 nhận thức được lỗi lầm của mình để khắc phục các nguyên nhân, điều kiện phạm tội của mình…Các chế tài không tước tự do hạn chế về giáo dục và giá trị phục hồi thấp nên đã khiến các Tòa án ngần ngại áp dụng trong thực tiễn” [76, tr.39]5. Khắc phục những hạn chế nêu trên, BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đã có nhiều điểm nổi bật trong đó có việc mở rộng hành vi xâm phạm quyền con người của trẻ em phải chịu TNHS, thu hẹp phạm vi chịu TNHS của trẻ em và các biện pháp phục hồi được quy định cụ thể, đa dạng hơn. Tuy nhiên, việc đánh giá tính hợp lý của các quy định này dưới góc độ bảo vệ quyền con người của trẻ em chưa có đề tài nào nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện. Từ nhu cầu lý luận và thực tiễn nêu trên, tác giả nhận thấy việc nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam đối với việc bảo vệ trẻ em là đối tượng tác động của tội phạm và trẻ em là chủ thể tội phạm trong đề tài “Bảo vệ quyền con người của trẻ em bằng pháp luật hình sự Việt Nam” đảm bảo tính cấp bách của xã hội. 1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 1.2.1. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc về bảo vệ quyền con ngƣời của trẻ em bằng pháp luật hình sự Trẻ em luôn là đối tượng được đặc biệt quan tâm của xã hội, không chỉ của những nhà làm luật mà cả những học giả chuyên ngành ngoài luật cũng lựa chọn làm đối tượng Formatted: Body Text 2, Indent: First line: 0", Line spacing: Multiple 1.35 li, Tab stops: 0.39", Left nghiên cứu với nhiều góc độ khác nhau. Dưới góc độ nghiên cứu tâm lý - xã hội, trẻ em như một đối tượng để khám phá sự phát triển tâm sinh lý, các nghiên cứu lý giải nguyên nhân của những hành vi lệch chuẩn, hành vi chống đối xã hội và chỉ ra các yếu tố nguy cơ và các yếu tố bảo vệ để phòng chống trẻ em vi phạm pháp luật... Dưới góc độ luật học, các học giả nghiên cứu các quy định của pháp luật nói chung và luật chuyên ngành nói riêng về trẻ em, từ đó chỉ ra những quy định hợp lý và bất hợp lý của pháp luật, đưa ra các kiến giải lập pháp và các kiến giải khác nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về bảo vệ trẻ em. Tuy tiếp cận ở những góc độ khác nhau nhưng tất cả các tác giả đều đi đến một mục đích đưa đến cho trẻ em một môi trường thực sự an toàn, phát triển trong đó chính bản thân các em và xã hội là những nhân tố quan trọng tạo nên. Trong phạm vi nghiên cứu đề tài của mình, tác giả chủ yếu tập trung đi sâu tình hình trẻ em dưới góc độ PLHS và quyền con người với ba hướng tiếp cận: thứ nhất, các công trình nghiên cứu đa ngành luật học về bảo vệ quyền con người của trẻ em; thứ hai, Formatted: Font: 13 pt Formatted: Body Text 2, Line spacing: Multiple 1.35 li, Tab stops: 0.39", Left Formatted: Font: 13 pt, Swedish (Sweden) các công trình nghiên cứu chuyên ngành luật hình sự bảo vệ quyền con người của trẻ em trong trường hợp trẻ em là đối tượng tác động của tội phạm; thứ ba, các công trình nghiên Formatted: Font: 13 pt, Swedish (Sweden) cứu chuyên ngành luật hình sự bảo vệ quyền con người của trẻ em trong trường hợp trẻ Formatted: Font: 13 pt Formatted: Font: 13 pt, Swedish (Sweden) 5 Unicef (2012), Báo cáo tổng quan về cơ sở lý luận và thực tiễn của sự cần thiết thành lập Tòa án chuyên trách đối với người chưa thành niên ở Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội, tr.39 Formatted: Condensed by 0.3 pt Formatted: Condensed by 0.3 pt 12 em là chủ thể của tội phạm. Ngoài ra, bên cạnh giá trị nghiên cứu vấn đề bảo vệ trẻ em Formatted: Font: 13 pt, Swedish (Sweden) thông qua các quy định của BLHS mà luận án còn đưa ra các kiến giải khác để hạn chế Formatted: Font: 13 pt trẻ em phạm tội cũng như trẻ em trở thành nạn nhân của tội phạm vì vậy các công trình về tâm lý học, xã hội học, tội phạm học mà trẻ em đã là đối tượng nghiên cứu cũng là những tài liệu mà chúng tôi đề cập đến và sử dụng trong luận án. 1.2.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu đa ngành luật học về bảo vệ quyền con người Formatted: Body Text 2, Indent: First line: 0", Line spacing: Multiple 1.35 li, Tab stops: 0.39", Left Formatted: Font: 13 pt, Italic của trẻ em nói chung Formatted: Font: 13 pt, Italic * Vị trí quyền con người của trẻ em Ở phương diện chung nhất, “Quyền con người là quyền bẩm sinh vốn có, bình đẳng với tất cả mọi người. Nó không thể bị tước đoạt hay hạn chế tùy tiện bởi bất cứ ai, nhà Formatted: Body Text 2, Level 1, Line spacing: Multiple 1.35 li, Tab stops: 0.39", Left Formatted: Font: 13 pt, Italic, Swedish (Sweden) nước nào, nó không thể phân chia và hạn chế bất cứ một phần hay toàn bộ các quyền con người nào” [49]. Trên cơ sở khái niệm cơ bản về nhân quyền đó, các nhà nghiên cứu Việt Nam cũng đưa ra khái niệm quyền con người dưới lăng kính của pháp luật, gắn với pháp luật và được đảm bảo bằng pháp luật [11, tr.224] [77, tr.14] . vàđồng thời khẳng định việc bảo vệ các quyền con người “mang tính thời sự quốc tế, không những là mục tiêu cơ bản trong cuộc đấu tranh của các dân tộc vì hòa bình, tự do, dân chủ và công lý, mà còn là mối quan tâm thường xuyên của nhân loại tiến bộ trên toàn trái đất” [12, tr.15]. Trẻ em cũng là một thực thể trong xã hội nên quyền con người của trẻ em được hiểu là một bộ phận không thể tách rời của quyền con người nói chung đó và việc bảo vệ quyền con người của trẻ em cũng là vấn đề tất yếu. Bên cạnh đó, trẻ em cũng được xác định là nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội và mặc dù vẫn còn những quan điểm khác Formatted: Font: Swedish (Sweden), Not Expanded by / Condensed by nhau về sự tồn tại của nhóm quyền nhưng xu thế chung của nhân loại vẫn xác định tầm quan trọng của việc xác định sự tồn tại của nhóm quyền nhằm “phản ánh nhu cầu và nhằm bảo đảm sự bình đẳng thực chất về cơ hội giữa các tầng lớp, qua đó là giữa tất cả mọi thành viên trong xã hội nói chung” [44, tr.17] nên quyền con người của trẻ em được xác định là một trong quyền của nhóm người dễ bị tổn thương. Trước khi có khái niệm về quyền trẻ em thì trẻ em bị xác định như những đối tượng phụ thuộc thậm chí như một dạng “tài sản” của cha mẹ. Sự ra đời khái niệm quyền trẻ em đã mở rộng các hoạt động bảo vệ trẻ em từ các khía cạnh đạo đức, xã hội sang khía cạnh pháp lý. Trẻ em trở thành chủ thể hưởng quyền, “các hành động liên quan đến trẻ em không còn chỉ đặt trên nền tảng của tình thương, lòng nhân đạo hay sự che chở nữa mà còn là nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan…” [44, tr.54]. * Bảo vệ quyền con người bằng các chế định luật hình sự 13 Formatted: Font: Swedish (Sweden), Not Expanded by / Condensed by Formatted: Font: Italic, Swedish (Sweden), Not Expanded by / Condensed by Việc bảo vệ quyền con người nói chung trong đó được hiểu bao gồm cả quyền con người của trẻ em nói riêng bằng các quy định của pháp luật hình sựPLHS, pháp luật tố tụng hình sự đã có một quá trình lịch sử lâu đời ở Việt Nam từ thời kỳ phong kiến và kế thừa, phát triển ở các giai đoạn tiếp theo cho đến hiện tại. Trong đó, các quy định của PLHS “đều có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng là nhằm bảo vệ các quyền và tự do của con người và của công dân với tư cách là những giá trị xã hội cao quý nhất được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại…” [14, tr.15]. PLHS bảo vệ các quyền con người thông qua việc ghi nhận về mặt pháp lý, trong hoạt động thi hành pháp luật, xử lý vi phạm pháp luật của nhà nước [24, tr.97] hay sự bảo đảm tối đa về mặt tư pháp [14, tr.15]. Như vậy, điểm cốt lõi của việc bảo vệ quyền con người nói chung và quyền con người của trẻ em nói riêng bằng PLHS là ở chỗchính hệ thống quy định PLHS. Do đó, việc nghiên cứu hoàn thiện các chế định liên quan “phải hướng tới bảo đảm quyền con người, quyền công dân và các điều kiện để mọi người được phát triển toàn diện” [82, tr.274]. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng không thể tách rời vấn đề bảo vệ quyền con người ra khỏi các ngành khác nhau mà cần đặt trong cách tiếp cận đa ngành và đa ngành luật học [104, tr.45] điều này cho phép hiểu rộng hơn rằng nghiên cứu vấn đề bảo vệ quyền con người bằng PLHS không chỉ đơn thuần nghiên cứu các quy định của PLHS mà cần có cái nhìn đa chiều cùng một vấn đề từ đó hướng đến đưa ra phương thức bảo vệ đồng bộ tốt nhất. * Trách nhiệm bảo vệ quyền con người của trẻ em Trọng tâm của bảo vệ trẻ em thì “phòng ngừa là then chốt và quan trọng hàng đầu” [7, tr.197]. Vấn đề nghĩa vụ quốc gia trong việc bảo đảm quyền con người của trẻ em đã được đặt ra khi các quốc gia phê chuẩn, tham gia CRC và các văn bản quốc tế khác liên quan “Các quốc gia thành viên phải thi hành tất cả các biện pháp thích hợp bảo vệ trẻ em tránh khỏi các hình thức phân biệt đối xử hoặc trừng phạt” (Điều 2, CRC). Sách trắng về thành tựu quyền con người của Việt Nam cũng khẳng định: “… việc bảo đảm và thúc đẩy quyền con người trước hết là trách nhiệm và quyền hạn của mỗi quốc gia. Các quốc gia có trách nhiệm xây dựng hệ thống pháp luật trong nước phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế đặc biệt là Hiến chương Liên hợp quốc có tính đến hoàn cảnh của mỗi nước để bảo đảm cho người dân được thụ hưởng quyền con người một cách tốt nhất” [148, tr.5]. Việc “ghi nhận và bảo vệ quyền con người trên thực tế là thể hiện của một nhà nước nhân bản, tiến bộ, dân chủ, văn minh” [24, tr.97]. Bên cạnh việc xây dựng hệ thống pháp luật với đầy đủ chế định bảo vệ các quyền con người của trẻ em, trách nhiệm của nhà nước cần phải có những biện pháp về cơ chế, chính sách bảo đảm cho việc thực hiện các điều khoản đó. Đồng thời chính hệ thống cơ quan nhà nước và cán bộ công chức, viên chức làm việc trong các cơ quan nhà nước đặc biệt liên quan đến lĩnh 14 vực hình sự đó là các chủ thể tiến hành tố tụng hình sự là “chủ thể cơ bản có trách nhiệm bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người” [43, tr.420]. Trước những nguy cơ quyền con người của trẻ em bị xâm hại ngày càng cao việc bảo vệ các quyền con người của trẻ em cần có sự chung tay của nhiều chủ thể từ nhà nước, gia đình, nhà trường và xã hội. Trong đó, nhà nước và các tổ chức quốc tế xây dựng các chương trình hành động về phòng chống buôn bán, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em mang tầm quốc gia và quốc tế đồng thời đề ra các biện pháp mang tính định hướng và cụ thể [7, tr.186-188]. Các thiết chế có trách nhiệm cao tham gia vào công cuộc bảo vệ quyền con người của trẻ em ở Việt Nam bao gồm Bộ công an, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Bộ tư pháp, TANDTC, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ đội biên phòng, Bộ lao động thương binh và xã hội…. Đối với trường hợp trẻ em tham gia tố tụng hình sự, bên cạnh khả năng được bảo vệ thì khả năng bị xâm hại các quyền con người cũng rất cao do đó trách nhiệm trước tiên thuộc về các cơ quan tư pháp, các hành vi vi phạm quyền con người trong hoạt động tư pháp cũng cần được nhận diện để có biện pháp phòng ngừa và biện pháp bảo đảm tôn trọng quyền con người của trẻ em trong trường hợp đó [30, tr.85]. Ngoài ra, việc tăng cường các thiết chế truyền thông trong bảo vệ quyền con người và quyền công dân cũng góp phần thực thi và bảo vệ hiệu quả quyền con người nói chung và quyền con người của trẻ em nói riêng [33, tr.79]. Tuy nhiên, gia đình là nơi trẻ em sinh sống, phát triển tính cách cũng như mọi mặt đời sống khác nên “bảo vệ trẻ em trước tất cả những sự lạm dụng, xâm hại và bóc lột là trách nhiệm hàng đầu và trước tiên thuộc về gia đình” [7, tr.19] sau đó là nhà trường, cộng đồng, xã hội. 1.2.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu chuyên ngành luật hình sự về bảo vệ quyền con Formatted: Font: 13 pt, Italic, Vietnamese người của trẻ em trong trường hợp trẻ em là đối tượng tác động của tội phạm Formatted: Font: 13 pt, Italic, Vietnamese * Các công trình nghiên cứu về các hình thức xâm phạm quyền con người của trẻ em Formatted: Font: 13 pt, Italic, Not Superscript/ Subscript Sự tác động một cách trái pháp luật đến các quyền con người của trẻ em chính là Formatted: Font: 13 pt, Italic, Vietnamese biểu hiện của sự xâm phạm quyền con người của các em, gây ra ảnh hưởng đến sự phát triển lâu dài với trẻ em trên các mặt thể chất, tâm lý, tinh thần, xã hội. Các công trình nghiên cứu đã chỉ ra các hình thức lạm dụng trẻ em, thường gồm các loại: “lạm dụng về thể chất, lạm dụng tình dục, lạm dụng về tâm lý – tinh thần, lạm dụng qua bỏ mặc, sao nhãng” [7, tr.19]. Trong đó được biểu hiện cụ thể thông qua các hành vi như xâm hại tình dục trẻ em, lạm dụng sức lao động trẻ em, lạm dụng trẻ em bằng con đường ma túy, bóc lột, lợi dụng trẻ em làm công cụ, phương tiện để kiếm tiền hoặc các hình thức đánh đập, hành hạ, ngược đãi…. Trong số các hình thức lạm dụng nêu trên, “hình thức xâm hại tình dục trẻ em chiếm 55% tổng số vụ xâm hại trẻ em” [28, tr.25]. Các hình thức lạm dụng trẻ em có thể để tìm kiếm lợi nhuận (bóc lột trẻ em vì mục đích thương mại) hoặc chỉ để thỏa 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan