Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bảo đảm quyền tham gia của phụ nữ trong quản trị nhà nước từ thực tiễn tỉnh lạn...

Tài liệu Bảo đảm quyền tham gia của phụ nữ trong quản trị nhà nước từ thực tiễn tỉnh lạng sơn

.PDF
96
24
143

Mô tả:

MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................. i DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ................................................................. ii MỤC LỤC ............................................................................................................iii DANH MỤC CÁC BẢNG ................................................................................... v MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN THAM GIA CỦA PHỤ NỮ TRONG QUẢN TRỊ NHÀ NƢỚC ................................................... 11 1.1 Khái quát về quản trị nhà nước và quyền tham gia của phụ nữ..................... 11 1.1.1 Khái niệm quản trị nhà nước ....................................................................... 11 1.1.2 Quyền tham gia của phụ nữ trong quản trị nhà nước là gì? ........................ 13 1.1.3 Sự tham gia của phụ nữ theo nguyên tắc quản trị nhà nước ....................... 17 1.1.4 Ý nghĩa của bảo đảm quyền tham gia của phụ nữ trong quản trị nhà nước21 1.2 Cơ sở pháp lý về quyền phụ nữ trong quản trị nhà nước ............................... 22 1.2.1 Pháp luật quốc tế về quyền tham gia của phụ nữ........................................ 22 1.2.2 Pháp luật Việt Nam về quyền tham gia của phụ nữ .................................... 26 TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 .................................................................................... 34 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN THAM GIA CỦA PHỤ NỮ TRONG QUẢN TRỊ NHÀ NƢỚC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LẠNG SƠN ........ 35 2.1 Khái quát điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội trên địa bàn ............................. 35 2.2. Một số đặc điểm về bảo đảm quyền tham gia của phụ nữ trên địa bàn ........ 37 2.2.1 Nhận thức về quyền phụ nữ ........................................................................ 39 2.2.2 Thái độ của cán bộ quản lý cấp cơ sở và nhân dân đối với quyền phụ nữ . 50 2.3 Thực trạng đảm bảo quyền phụ nữ của tham gia vào quản trị nhà nước ....... 57 2.3.1 Trong cơ quan cấp Đảng uỷ ........................................................................ 57 iii 2.3.2 Trong cơ quan hành chính ........................................................................... 60 2.3.3 Trong các Đoàn thể chính trị - xã hội ......................................................... 61 2.4. Những hạn chế và nguyên nhân đối với quyền tham gia của phụ nữ ........... 61 2.4.1 Các rào cản thể chế ..................................................................................... 61 2.4.2 Các yếu tố văn hoá – xã hội ........................................................................ 64 TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 .................................................................................... 67 CHƢƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG BẢO ĐẢM QUYỀN THAM GIA CỦA PHỤ NỮ TRONG QUẢN TRỊ NHÀ NƢỚC TỪ THỰC TIỄN TỈNH LẠNG SƠN ...................................................................... 68 3.1 Các quan điểm về bảo đảm quyền tham gia của phụ nữ trong quản trị nhà nước ...................................................................................................................... 68 3.2 Các giải pháp tăng cường bảo đảm quyền tham gia của phụ nữ trong quản trị nhà nước trên địa bàn ........................................................................................... 70 3.2.1 Tăng cường áp dụng quyền của phụ nữ trong xây dựng, thực hiện chính sách, pháp luật ...................................................................................................... 70 3.2.2 Thiết lập cơ quan bảo vệ và thúc đẩy quyền phụ nữ................................... 72 3.2.3 Tuyên truyền và nâng cao nhận thức về giới và bình đẳng giới ................. 73 3.2.4. Xây dựng chiến lược, chương trình đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực nữ .... 76 3.2.5. Nâng cao vai trò của tổ chức Hội liên hiệp phụ nữ ................................... 77 3.2.6. Nâng cao năng lực của cán bộ nữ trong lĩnh vực chính trị ........................ 78 TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 .................................................................................... 80 KẾT LUẬN ......................................................................................................... 81 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 82 PHỤ LỤC 1 PHỤ LỤC 2 iv DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1 Nhận định cán bộ quản lý cấp cơ sở và nhân dân về quyền phụ 39 nữ trong các văn bản pháp luật của Nhà nước Bảng 2.2 Mức độ nhận thức về quyền phụ nữ của cán bộ quản lý cấp cơ 41 sở theo khối công tác Bảng 2.3 Mức độ nhận thức của cán bộ quản lý cấp cơ sở theo khu vực 42 công tác (tỉnh và các huyện) Bảng 2.4 Thực trạng nhận biết về Công ước CEDAW của cán bộ quản 44 lý cấp cơ sở theo khối công tác Bảng 2.5 Thực trạng việc có biết Công ước CEDAW của cán bộ quản 44 lý cấp cơ sở theo khu vực công tác Bảng 2.6 Nhận biết về nội dung Công ước CEDAW của cán bộ quản lý 45 cấp cơ sở theo khối công tác Bảng 2.7 Nguồn cung cấp thông tin về quyền phụ nữ của cộng đồng Bảng 2.8 Quan điểm của cán bộ quản lý cấp cơ sở đối với phụ nữ và 50 48 thực hiện quyền phụ nữ Bảng 2.9 Phát triển đảng viên nữ 58 Bảng 2.10 Cán bộ nữ tham gia cấp uỷ Đảng nhiệm kỳ 2015 – 2020 59 Bảng 2.11 Cán bộ nữ tham gia Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 60 2016-2021 Bảng 2.12 Nữ cán bộ lãnh đạo ngành các cấp v 61 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu Từ xưa đến nay, phụ nữ bao giờ cũng là một lực lượng quan trọng và đông đảo trong đội ngũ những người lao động phát triển kinh tế - xã hội và thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội. Có thể nói rằng, trong cuộc sống hiện đại, người phụ nữ có vai trò rất lớn. Nếu gia đình được coi là tế bào của xã hội thì người phụ nữ được coi là hạt nhân của tế bào này. Gia đình là nơi thể hiện thực chất sự bình đẳng và nâng cao địa vị của người phụ nữ. Bên cạnh đó, người phụ nữ của thời hiện đại càng không thể tách rời với thực tế gia đình và xã hội. Phụ nữ ở bất cứ thời đại nào, quốc gia, dân tộc nào cũng giữ vai trò trọng yếu trong việc sáng tạo, giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống của mỗi dân tộc. Việc thêm nhiều phụ nữ đứng trong hàng ngũ lãnh đạo, quản lý không chỉ quan trọng đối với vấn đề bình đẳng giới (BĐG) trên phạm vi toàn cầu mà còn có ý nghĩa tích cực đối với sự phát triển của các quốc gia và doanh nghiệp trên con đường vươn tới văn minh, thịnh vượng. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập, việc thu hút sự tham gia của phụ nữ - phát huy nguồn lực trí tuệ của “một nửa thế giới” đang là một trong những chính sách ưu tiên của các quốc gia. Trong các tổ chức, sự mềm dẻo trong quản lý, phân chia công việc theo nhóm, chia sẻ thông tin giữa các đồng nghiệp đang thay thế các cơ chế cứng nhắc của chủ nghĩa cá nhân cạnh tranh, sự kiểm soát và bí mật. Nhà quản lý hiệu quả là người biết lắng nghe, thúc đẩy và ủng hộ nhân viên. Nhiều phụ nữ làm các công việc này tốt hơn nam giới. Các nhà khoa học cho rằng phụ nữ có thể đảm nhận rất nhiều vai trò khác nhau. Họ có thể vừa là người mẹ, người vợ vừa là nhà khoa học, nhà chính trị và nhà quản lý. Từ đó, phụ nữ có thể lựa chọn, quyết 1 định và làm tốt vai trò của mình trong gia đình và xã hội với tinh thần trách nhiệm cao và đạo đức nghề nghiệp tốt. Đây cũng là nét khác biệt đáng chú ý trong cách thức lãnh đạo và quản lý giữa nam và nữ. Tri thức và “quyền lực mềm” của phụ nữ hiện đại chính là sức mạnh để họ được bình đẳng, tự tin và tham gia cùng nam giới trong các quyết sách của tổ chức. Một tổ chức quản lý với sự cân bằng tiếng nói nam và nữ trong các quyết định quan trọng sẽ đem đến môi trường làm việc thân thiện, hòa bình, hiệu quả và thúc đẩy cùng tiến bộ. Ngày nay nhiều phụ nữ tiếp tục giữ các vị trí lãnh đạo và quản lý đất nước và có nhiều đóng góp quan trọng cho tiến trình phát triển và hội nhập quốc tế. So với 20 năm trước, vai trò và nhiệm vụ của phụ nữ đã thay đổi rất rõ rệt. Nhiều phụ nữ nắm giữ những vị trí quan trọng của đất nước hoặc các tổ chức toàn cầu như như thủ tướng Anh, thủ tướng Đức, chủ tịch Quỹ Tiền tệ Thế giới... Ngoài ra, còn có rất nhiều phụ nữ thành công trên cương vị là nhà quản lý hay nhà quản trị tài chính của các doanh nghiệp nổi tiếng trên thế giới. Đây là minh chứng cho quá trình phấn đấu và khẳng định bản thân, vượt khỏi khuôn khổ truyền thống của phụ nữ. Do vậy, theo tiến trình phát triển của xã hội, vai trò tham gia của phụ nữ ngày càng gia tăng cả về số lượng và chất lượng. Trong suốt chiều dài lịch sử, phụ nữ Việt Nam đã có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước ngàn năm văn hiến, tạo dựng nên truyền thống bản sắc của người Việt nói chung và truyền thống riêng của phụ nữ Việt Nam “anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”. Trong sự nghiệp đổi mới, phụ nữ Việt Nam vẫn luôn sát cánh cùng nam giới phấn đấu vì mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" và có những đóng góp đáng kể trong các lĩnh vực xóa đói giảm nghèo, 2 phát triển kinh tế, ổn định xã hội cũng như những cống hiến xuất sắc trong việc chăm lo xây dựng gia đình, nuôi dưỡng các thế hệ tương lai của đất nước, có nhiều phụ nữ còn mang lại những vinh quang lớn cho đất nước trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, khoa học. Phụ nữ thể hiện vai trò quan trọng của mình trong mọi lĩnh vực của đời sống – xã hội. Có thể nói rằng, gắn với mỗi thời kỳ phát triển của đất nước, phụ nữ Việt Nam đều có những đóng góp to lớn và quan trọng đối với công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Mặc dù vậy, trên thực tế ở Việt Nam, quyền bình đẳng tham gia quản lý đất nước của phụ nữ vẫn chưa được bảo đảm một cách tương xứng so với vai trò và khả năng của phụ nữ trong xã hội như: bất BĐG còn thể hiện trên một số lĩnh vực xã hội quan trọng, phụ nữ vẫn chịu nhiều gánh nặng công việc, thu nhập, phân biệt đối xử; sự tham gia của phụ nữ trong cơ cấu tổ chức, quản lý xã hội còn hạn chế, đặc biệt ở cấp cơ sở; ở một số nơi vấn đề chênh lệch thu nhập giữa nam và nữ cùng một vị trí công việc vẫn diễn ra, cơ hội để phụ nữ tiếp cận những việc làm có thu nhập cao vẫn thấp hơn so với nam giới, lao động nữ chưa được đánh giá cao như lao động nam, là đối tượng dễ bị rủi ro và tổn thương hơn khi doanh nghiệp có nhu cầu cắt giảm nhân lực; tình trạng bạo hành phụ nữ vẫn diễn ra ở một số nơi, nhất là ở vùng nông thôn, miền núi xa xôi. Tỉnh Lạng Sơn là một tỉnh miền núi, nằm ở phía Đông Bắc của Việt Nam, là nơi chung sống của nhiều dân tộc anh em. Các tầng lớp phụ nữ trong tỉnh đã tích cực học tập, lao động sản xuất kinh doanh, thực hiện có hiệu quả phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”, luôn phát huy tinh thần đoàn kết, sáng tạo, khắc phụ khó khăn của một tỉnh miền núi, biên giới, từng bước vươn lên, nâng cao vai trò, vị thế của phụ nữ, tham gia đóng góp vào tất cả các lĩnh vực vào quản trị nhà nước. Tuy nhiên khả 3 năng nhận thức một số bộ phận cán bộ, hội viên phụ nữ, nhất là ở vùng đặc biệt khó khăn còn hạn chế, nhiều nơi vẫn bị ảnh hưởng bởi định kiến giới, còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại, chưa có ý thức vươn lên thoát nghèo; chưa theo kịp với sự chuyển đổi nền kinh tế hội nhập. Để tạo những điều kiện và cơ hội bình đẳng thực sự cho phụ nữ, đặc biệt trong lĩnh vực quản trị nhà nước, Nhà nước cần thực thi đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó chú trọng đến việc ban hành luật pháp, thực thi, áp dụng pháp luật về BĐG trong đời sống thực tiễn. Nâng cao nhận thức của cộng đồng về vị trí quan trọng của phụ nữ trong xã hội để tạo áp lực làm thay đổi quan niệm về giới trong việc đảm nhận các chức vụ lãnh đạo, quản lý cấp cao. Cũng chính vì những lý do trên mà tác giả chọn đề tài: "Bảo đảm quyền tham gia của phụ nữ trong quản trị nhà nước: từ thực tiễn tỉnh Lạng Sơn” để làm luận văn nhằm mục đích tìm hiểu, nghiên cứu nâng cao nhận thức lý luận, trang bị kiến thức phục vụ cho công tác chuyên môn của mình trong giai đoạn hiện nay và đóng góp công sức nhỏ bé của mình nhằm nâng cao hiệu quả vào công tác phụ nữ trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của địa phương. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Trong những năm gần đây, đã có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu xoay quanh vấn đề quyền con người, quyền phụ nữ ở Việt Nam, tiếp cận từ nhiều khía cạnh như quyền bầu cử, ứng cử; quyền chính trị, quyền lao động hay quyền tham gia vào quản lý nhà nước và các tổ chức xã hội của phụ nữ... Một số công trình, đề tài nghiên cứu tiêu biểu là: - Những công trình nghiên cứu về quyền con người: Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, NXB Chính trị 4 quốc gia, 2009; PGS.TS Vũ Công Giao – TS. Ngô Minh Hương, Tiếp cận dựa trên quyền con người – Lý luận và thực tiễn, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2016; Bài viết nghiên cứu của các tác giả như: Lê Thị Thuý Hương, Tổ chức phi chính phủ và vấn đề bảo đảm quyền con người ở Việt Nam, 2013 và TS Ngô Minh Hương, Tiếp cận dựa trên quyền trong quản trị nhà nước, 2018. - Những công trình nghiên cứu của luật pháp quốc tế về quyền phụ nữ: Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp, Công ước của Liên hợp quốc và pháp luật Việt Nam về xóa bỏ phân biệt đối xử với phụ nữ; Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Giới thiệu Công ước quốc tế về các quyền kinh tế xã hội và văn hoá (ICESCR,1966), NXB Hồng Đức, 2012; UNDP, Sự tham gia của phụ nữ trong vai trò lãnh đạo và quản lý ở Việt Nam, 2012 - Một số luận văn khoa học về bảo vệ quyền phụ nữ ở Việt Nam của các tác giả: Lê Thị Mai, Quyền tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ theo pháp luật Việt Nam, 2016; Nguyễn Thị Quỳnh Nga, Bảo đảm quyền tham chính của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay, 2018; Vương Vân Huyền, Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền phụ nữ Việt Nam hiện nay, 2014. Trên cơ sở khảo sát cho thấy ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu về tình hình quyền tham gia của phụ nữ về quản lý nhà nước nói chung nhưng chưa được xem xét riêng với tư cách là một quyền của phụ nữ mà chỉ tập trung phân tích các bất cập khi phụ nữ tham gia công tác quản lý hoặc mới chỉ mô tả tình hình tham gia hoạt động quản lý của phụ nữ mà chưa khái quát nên những luận định mang tính lý luận để kiểm chứng trong hệ thống pháp luật về bảo đảm quyền tham gia của phụ nữ trong quản trị nhà nước. Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây một lần nữa cho phép khẳng định việc nghiên cứu đề tài “Bảo đảm 5 quyền tham gia của phụ nữ trong quản trị nhà nước: từ thực tiễn tỉnh Lạng Sơn” là một nghiên cứu cấp thiết, vừa có tính khoa học vừa có tính thực tiễn. 3. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là nêu bật thực trạng thực hiện bảo đảm quyền tham gia của phụ nữ trong các lĩnh vực trong đời sống xã hội, phân tích tổng quan khung pháp lý liên quan đến quyền tham gia của phụ nữ, đồng thời đề xuất những phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền tham gia của phụ nữ Việt Nam trong quản trị nhà nước, phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn của nước ta và các chuẩn mực quốc tế có liên quan mà Nhà nước ta đã cam kết thực hiện. Những cam kết đó cần được cụ thể hóa và thực thi một cách nhất quán trong hệ thống chính sách từ trung ương đến địa phương, với những biện pháp triển khai phù hợp, gắn với những điều kiện thực tế cụ thể. 4. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu 4 1 Đối tƣợng nghiên cứu Những cơ chế đảm bảo quyền tham gia của phụ nữ trong quản trị nhà nước từ thực tiễn tỉnh Lạng Sơn. 42 h ch thể nghiên cứu - Công chức, cán bộ quản lý hiện đang công tác tại các cơ quan Đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội của cấp tỉnh đến cấp huyện của tỉnh Lạng Sơn và người dân trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. - Các chính sách thực hiện BĐG và thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ thực hiện trên địa bản tỉnh Lạng Sơn 6 - Các chính sách, chế độ ưu tiên đối với người phụ nữ dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, tác giả nhằm vào các nhiệm vụ như sau: - Nghiên cứu cơ sở lý thuyết khoa học và cơ sở lý luận về quyền phụ nữ theo pháp luật để làm tiền đề đánh giá và đề xuất các giải pháp đảm bảo quyền tham gia của phụ nữ. - Chỉ ra những thành tựu và hạn chế của pháp luật và thực hiện pháp luật về quyền tham gia của phụ nữ trong quản trị nhà nước ở tỉnh Lạng Sơn và đề xuất các phương hướng, giải pháp nhằm bảo đảm quyền tham gia quản trị nhà nước của phụ nữ trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền cũng như xu thế toàn cầu hóa hiện nay. - Phân tích thực trạng đội ngũ nữ công chức, cán bộ quản lý và sự tham gia của họ trong các cơ quan Đảng, cơ quan chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội tại Lạng Sơn. 6. Giả thuyết khoa học Nhà nước và tỉnh Lạng Sơn đã có nhiều chủ trương, chính sách tạo điều kiện cho sự tham gia của phụ nữ, song hiệu quả việc thực thi chính sách về cán bộ nữ ở các địa phương trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn chưa thật đồng đều, tỷ lệ phụ nữ tham gia các vị trí lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan Đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp khá cao, nhưng tỷ lệ nữ nắm giữ các chức vụ lãnh đạo chủ chốt còn hạn chế. Các quan niệm, định kiến giới vẫn còn tồn tại ở mức độ nhất định trong quan niệm của cán bộ quản lý, công chức ở Lạng Sơn. 7 7. Phạm vi nghiên cứu Quyền tham gia của phụ nữ ở Việt Nam trong quản trị nhà nước là một chủ đề mở rộng, không chỉ liên quan đến pháp luật, mà còn gắn liền với nhiều lĩnh vực khác như kinh tế, xã hội và văn hóa. Tác giả lựa chọn địa bàn tỉnh Lạng Sơn là nơi khảo sát và nghiên cứu về vấn đề bảo đảm quyền tham gia của phụ nữ giai đoạn năm 2015 – 2019. Luận văn tập trung nghiên cứu quy định pháp luật về quyền và thực hiện bảo đảm quyền của phụ nữ trong quản trị nhà nước dựa trên luật pháp quốc tế, văn kiện quốc tế, các bản Hiến pháp, chủ yếu tại Hiến pháp năm 2013, Luật bầu cử Quốc hội và Đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật BĐG, Bộ Luật Lao động. 8. Phƣơng ph p nghiên cứu 8 1 Phƣơng ph p luận Luận văn áp dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về quyền con người, quyền công dân. Tác giả kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu phổ biến của khoa học xã hội, bao gồm tổng hợp, phân tích, so sánh, thống kê… dựa trên nền tảng của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam để làm sáng tỏ các vấn đề liên quan đến quyền tham gia của phụ nữ trong quản trị nhà nước. 8 2 Phƣơng ph p điều tra bằng bảng câu hỏi Tác giả sử dụng bảng hỏi theo nội dung đã được soạn trước nhằm thu thập thông tin về đời sống vật chất cũng như tinh thần của phụ nữ và về nhận thức, 8 thái độ, kĩ năng làm việc của cán bộ cấp cơ sở. Bảng câu hỏi gồm 12 câu hỏi được liệt kệ chi tiết tại Phụ lục 2. Tác giả sử dụng bảng hỏi này trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn để phỏng vấn 120 cán bộ quản lý cấp tỉnh và huyện (Cao Lộc, Chi Lăng, Bắc Sơn) và 150 người dân tại 3 phường (Vĩnh Trại, Chi Lăng, Đông Kinh) được kết cấu tại Phụ lục 1 làm căn cứ đưa ra nhận định đánh giá về kết quả đạt được và những khó khăn, hạn chế trong công tác bảo đảm quyền của phụ nữ, đồng thời đưa ra giải pháp thực hiện tốt quyền BĐG trong quản trị nhà nước cho phụ nữ tỉnh Lạng Sơn. 9. Ý nghĩa của đề tài Kết quả nghiên cứu của đề tài là mở ra cái nhìn rộng mở hơn về sự tham gia của phụ nữ trong các lĩnh vực của đời sống, nâng cao vị thế của phụ nữ trong xã hội hiện đại. Luận án cũng sẽ đưa ra được một số giải pháp mang tính định hướng để nữ cán bộ quản lý và người dân tham khảo, làm kinh nghiệm và cẩm nang cho quá trình phấn đấu, để họ có thể trở thành một lực lượng lớn vừa tự tin đi vào xã hội, vừa hỗ trợ, ủng hộ cho những nhân vật nữ tinh hoa đảm đương công việc chung của đất nước. Kết quả nghiên cứu của luận án có thể dùng làm tài liệu phục vụ cho quá trình tham khảo, nghiên cứu, giảng dạy và học tập trong bộ môn xã hội học về giới, xã hội học quản lý. Từ quá trình nghiên cứu, luận án sẽ đưa ra được một số những giải pháp về chính sách nhằm nâng cao hiệu quả của công tác BĐG, nâng cao nhận thức của các cấp bậc, nhấn mạnh tầm quan trọng và hiệu quả của công việc khi có tỷ lệ công bằng giữa nam và nữ trong các vị trí ra quyết sách. 9 10. Bố cục luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về bảo đảm quyền tham của gia phụ nữ trong quản trị nhà nước Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền tham gia của phụ nữ trong quản trị nhà nước trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn Chương 3: Quan điểm và giải pháp tăng cường bảo đảm quyền tham gia của phụ nữ trong quản trị nhà nước từ thực tiễn tỉnh Lạng Sơn 10 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN THAM GIA CỦA PHỤ NỮ TRONG QUẢN TRỊ NHÀ NƢỚC 1.1 Khái quát về quản trị nhà nƣớc và quyền tham gia của phụ nữ 1.1.1 Khái niệm quản trị nhà nƣớc Khái niệm quản trị nhà nước được tiếp cận qua hai cách như sau: Từ góc độ chuyên môn/kỹ thuật: Cách tiếp cận thứ nhất nhấn mạnh yếu tố lãnh đạo, tức là cách thức sử dụng quyền lực nhà nước. Theo đó, quản trị nhà nước là quá trình hoạch định, tổ chức và kiểm soát hoạt động của các chủ thể trong xã hội và sử dụng các nguồn lực khác của quốc gia nhằm đạt được mục tiêu chính trị, kinh tế, xã hội mà nhà nước đề ra. Ngân hàng Thế giới (World Bank) đã nhận định: “Quản trị là quá trình xây dựng và thi hành các chính sách trong một hệ thống các luật lệ bắt buộc và quy ước để thông qua và được áp dụng bởi quyền lực của một nhà nước và các thành phần ngoài nhà nước” [26, tr3]. Đây là cách tiếp cận được World Bank nhấn mạnh và áp dụng trong thúc đẩy quản trị tốt ở Châu Phi. Từ góc độ chính trị: Là một cơ chế/mô hình tổ chức xã hội, gắn với vai trò và cách sử dụng quyền lực của nhà nước. Theo đó, quản trị nhà nước cơ chế ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định để quản lý, giải quyết các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội ở một quốc gia. Có một số ví dụ về định nghĩa từ cách tiếp cận thứ hai, như là: Theo các nhà nghiên cứu Daniel Kaufmann, Aart Kraay, Massimo Mastruzzi, cho rằng “Quản trị là những truyền thống và các thể chế được áp dụng dưới cơ quan có thẩm quyền trong một quốc gia, trong đó bao gồm quá trình các chính quyền được bầu cử, điều hành và thay thế; tính khả năng của chính phủ để xây dựng và 11 thi hành các chính sách hợp lý và hiệu quả; và sự tôn trọng của các công dân và các cơ quan tổ chức quản lý các vấn đề kinh tế và xã hội liên quan đến công dân” [27, tr4]. Theo Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cho rằng “Quản trị là cách thức mà quyền lực được thực thi trong việc quản lý nguồn lực kinh tế và xã hội của một quốc gia để phát triển. khái niệm quản trị liên quan trực tiếp đến việc quản lý quá trình phát triển, liên quan đến cả khu vực công và khu vực tư nhân” [28, tr3]. Nó bao gồm chức năng và khả năng của khu vực công, cũng như các quy tắc và thể chế tạo ra khuôn khổ cho cả hoạt động kinh doanh công cộng và tư nhân, bao gồm trách nhiệm giải trình đối với hiệu quả kinh tế và tài chính và khung pháp lý liên quan đến các công ty, tập đoàn và quan hệ đối tác. Theo nghĩa rộng, “quản trị là về môi trường thể chế trong đó công dân tương tác với nhau và với các cơ quan / quan chức chính phủ” [28, tr3]. Quản trị nhà nước là một hiện tượng phức tạp, đa diện, mà mỗi định nghĩa nào đó cũng không thể nào phản ánh được mọi khía cạnh biểu hiện của hiện tượng này, mà chỉ phản ánh khía cạnh này hay khía cạnh khác của vấn đề của từng quốc gia quy chuẩn. Trong thực tế, khái niệm này cũng được sử dụng trong một số bối cảnh khác, chẳng hạn như “quản trị doanh nghiệp” (corporate governance) [29], “quản trị quốc tế” (international governance) [30]. Ngoài ra, cách tiếp cận thứ hai tạo thuận lợi cho việc giải quyết các vấn đề về quản trị công trong các xã hội hiện đại mà ngày càng đa dạng về mặt lợi ích, quan điểm và văn hoá. Các hoạt động quản trị công cần phải được lên kế hoạch và thực hiện dựa trên một cơ chế phối hợp, có sự tham gia của các nhóm xã hội, nhóm lợi ích khác nhau mới có thể đảm bảo tính hiệu quả. Quản trị nhà nước nhằm đáp ứng các yêu cầu của xã hội hiện tại và tương lại. Theo UNESCAP, quản trị nhà nước có 8 đặc trưng cơ bản: sự tham gia, định 12 hướng đồng thuận, trách nhiệm giải trình, tính minh bạch, tính đáp ứng kịp thời, hiệu quả và hiệu suất, công bằng và bao trùm và tuân thủ pháp quyền. Quản trị nhà nước tốt giúp giảm thiểu tối đa tham những, cân nhắc ý kiến của các nhóm thiểu số và lắng nghe tiếng nói của của nhóm yếu thế/bị tổn thương trong quá trình đưa ra quyết định. Tác giả đặc biệt muốn nhấn mạnh vào khía cạnh sự tham gia của các thành phần xã hội, các giới, các nhóm thiểu số về giới tính, dân tộc, tôn giáo…là cốt lõi của quản trị tốt. Việc tham gia có thể trực tiếp hoặc thông qua các thể chế hợp pháp hoặc qua các đại diện. Dân chủ đại diện không nhất thiết có nghĩa là các mối quan tâm của các nhóm dễ bị tổn thương nhất trong xã hội sẽ tự động được cân nhắc trong quá trình quyết định chính sách. Việc tham gia cần phải được thông báo cho các thực thể, các nhóm đối tượng và phải được tiến hành một cách có tổ chức. Điều đó có nghĩa là cần phải có tự do hiệp hội, tự do hội họp, tự do ngôn luận và cần phải có một xã hội công dân có tổ chức. Từ những phân tích nêu trên, tác giả nhận thấy bản chất của quản trị chính là quá trình ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định để quản lý, giải quyết các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội ở một quốc gia. Như thế, quản trị là một thuật ngữ chủ yếu gắn với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước (quản trị quốc gia). 1.1.2 Quyền tham gia của phụ nữ trong quản trị nhà nƣớc là gì? Về mặt nhận thức và về mặt pháp lý, quyền phụ nữ là một bộ phận tất yếu của quyền con người. Về mặt lý luận và pháp lý, phụ nữ có đầy đủ các quyền con người như quyền được sống, quyền tự do, quyền bình đẳng về quyền lợi với nam giới. Quyền phụ nữ cũng không tự nhiên đem đến cho phụ nữ mà phải đấu 13 tranh giành giữ, bảo vệ và thực hiện thông qua quá trình hành động cách mạng, hành động pháp luật và hành động thực thi trên thực tế các quyền. Quyền con người được hiểu là quyền tự nhiên vốn có của con người. Quyền con người được hiểu là quyền tự nhiên vốn có của tiến hóa sinh học, do đó con người sinh ra đã có những quyền tối cao mà ai cũng phải công nhận và không ai có quyền vi phạm. Đó là những quyền gì và được thừa nhận như thế nào? Về nguyên tắc, quyền phụ nữ phụ thuộc vào thành quả của quá trình biến đổi, phát triển xã hội; việc thừa nhận, bảo vệ và biến đổi, phát triển xã hội; và việc thừa nhận, bảo vệ và bảo đảm thực hiện các quyền phụ nữ là điều kiện không thể thiếu đối với việc bảo đảm và thực hiện các quyền của con người và quyền của cộng đồng dân tộc, quốc gia, quốc tế nói chung. Tương tự như vậy có thể nói: trình độ thực hiện các quyền phụ nữ là thước đo của việc thực hiện các quyền con người trong xã hội; và không bảo đảm thực hiện các quyền phụ nữ thì mới thực hiện được một nửa các quyền con người. Về phạm vi quyền trong khái niệm quyền phụ nữ, trong khoa học pháp lý tồn tại những cách hiểu khác nhau. Ở Việt Nam, các nghiên cứu về quyền phụ nữ thường hướng đến nội dung các quyền thể hiện trong pháp luật thực định hoặc thực tiễn bảo hộ, thực thi những quyền ấy. Vậy nên khái niệm quyền phụ nữ, nữ quyền hay quyền của phụ nữ chưa từng được các nhà khoa học Việt Nam khái quát. Trên thế giới, các nghiên cứu về nữ quyền đã tạo thành một trường phái luật học phát triển mạnh nhưng xung quanh khái niệm quyền phụ nữ vẫn tồn tại những cách hiểu khác nhau. 14 Nhận định trong các từ điển tiếng Anh thuật ngữ “women‟s rights” (quyền của phụ nữ) trong Từ điển tiếng Anh Oxford được giải thích: “là những quyền mà thúc đẩy địa vị pháp lý và xã hội bình đẳng của phụ nữ với nam giới” [31]. Còn theo Từ điển Anh - Mỹ, thuật ngữ này có nghĩa là: 1) “quyền về sự bình đẳng trong các lợi ích và cơ hội so với nam giới, thuộc về phụ nữ và dành cho phụ nữ”; 2) “các quyền kinh tế - xã hội, chính trị, pháp lý dành cho phụ nữ bình đẳng hoặc tương đương với những quyền đó dành cho nam giới” [32]. Khái niệm quyền phụ nữ phải được hiểu trong bối cảnh gắn kết chặt chẽ của hai yếu tố quyền con người và đặc thù giới của phụ nữ. Hai nhà hoạt động nữ quyền nổi tiếng Charlotte Bunch và Samantha Frost - giảng viên Đại học Illinois - đề cập trong cuốn Bách khoa toàn thư thế giới về phụ nữ: Những vấn đề và tri thức toàn cầu về quyền phụ nữ như sau: “Quyền phụ nữ là những quyền con người của phụ nữ thông qua lăng kính giới” [33]. Theo đó, quyền phụ nữ cũng là các quyền con người nhưng phản ánh những đặc thù giới tính của phụ nữ. Đây có lẽ là cách hiểu phù hợp nhất về khái niệm quyền phụ nữ. Sở dĩ như vậy bởi vì với tư cách con người, phụ nữ có mọi nhân quyền như các cá nhân khác. Tuy nhiên, khái niệm quyền phụ nữ không chỉ đến tất cả mọi nhân quyền đó bởi nếu mang ý nghĩa như vậy thì chỉ cần dùng khái niệm “quyền con người” (human rights) chung cho cả phụ nữ và nam giới mà không cần phải xác định một khái niệm “quyền phụ nữ” (women‟s right) riêng. Phụ nữ là một nửa xã hội, một nửa thế giới nhân loại. Đó là quyền được phát triển, quyền tham dự vào mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội, trong đó quyền tham gia quản trị nhà nước, một loại quyền mà phụ nữ đã chứng tỏ rằng họ hoàn toàn có khả năng tham gia và thực hiện, song trên thực tế việc đấu tranh cho quyền tham gia của phụ nữ đòi hỏi vượt qua không biết bao nhiêu lực 15 cản, từ thể chế, luật pháp đến tâm lý, thói quen, tập quán, những thiên kiến và thành kiến mang đầy rẫy tính bất công xã hội. Nó đan xen phức tạp với những rào cản của chính phụ nữ bởi tâm lý tự tin, mặc cảm, sự thụ động, an phận và chấp nhận một trật tự đã an bài; ở đó sức nặng của những trói buộc bất công xã hội đi kèm theo trở lực tự trói buộc mình của phụ nữ khi công cuộc giải phóng chưa thức tỉnh họ. Tiếp cận dựa trên quyền là khái niệm vượt qua các hình thức quản trị về nguồn lực, kinh tế. Cách tiếp cận này dựa trên các quyền con người phổ quát, như ghi nhận trong Tuyên ngôn toàn cầu về quyền con người (UDHR) và các Công ước cơ bản về quyền con người của Liên hợp quốc. Cách tiếp cận này dựa trên triết lý rằng sự phát triển bền vững và có ý nghĩa chỉ có thể thực hiện tốt nhất khi tất cả mọi người đều có thể tiếp cận và hưởng thụ quyền con người của họ. Nhà nước có trách nhiệm đầu tiên trong việc đảm bảo thực thi các quyền. Do định kiến coi thường phụ nữ còn nặng nề nên để bảo đảm cho phụ nữ thực hiện được những quyền của họ trong thực tế, nhà nước phải ban hành nhiều quy định trong pháp luật, trong đó có cả chế tài nghiêm khắc xử lý các hành vi vi phạm quyền tham gia quản trị nhà nước của phụ nữ. Pháp luật không chỉ ghi nhận, cụ thể hoá quyền tham gia quản trị của phụ nữ mà còn quy định những thiết chế bảo đảm thực hiện những quyền đó trên thực tế. Có như vậy thì phụ nữ mới hoàn toàn có quyền tự do thực hiện quyền tham gia vào quản trị nhà nước của mình như bản chất của các quyền con người, thúc đẩy sự hướng ngoại của phụ nữ để tham gia vào hoạt động xã hội và hoạt động chính trị, vượt qua giới hạn trật hẹp, đơn điệu và tù túng của đời sống nội trợ, bếp núc gia đình, cột chặt mình vào sự lệ thuộc nam giới, những người đàn ông vốn giữ ưu thế trong sản xuất, kinh tế, trong việc làm ra tiền của. 16 Từ những phân tích nêu trên, có thể nêu định nghĩa tiếp cận dựa quyền phữ nữ trong quản trị nhà nước của phụ nữ như sau: “Quyền tham gia của phụ nữ trong quản trị nhà nước là tổng thể các quy định trong hệ thống pháp luật nhằm bảo đảm việc thực hiện và bảo đảm quyền tham gia điều hành nhà nước và xã hội của phụ nữ trên cơ sở bình đẳng và không phân biệt đối xử.” 1.1.3 Sự tham gia của phụ nữ theo nguyên tắc quản trị nhà nƣớc Lý luận về quản trị nhà nước được xây dựng và phát triển từ lý thuyết về quản trị. Xu hướng quản trị tốt là đưa tiếp cận dựa trên quyền vào quản trị nhà nước trong mối quan hệ nhà nước với các chủ thể khác. Như đã phân tích ở trên, “quản trị nhà nước tốt được có ý nghĩa tương đương với việc quản lý sự phát triển một cách hợp lý và được định nghĩa là cách thức mà quyền lực được thực thi trong việc quản lý nền kinh tế và nguồn lực xã hội của một quốc gia cho sự phát triển.” [34, tr4]. “Cơ chế quản trị tốt có thể bao gồm sự minh bạch, các thể chể dân chủ cũng như đảm bảo về dịch vụ công hiệu quả và hợp lý.” [35, tr4]. Có thể thấy các nguyên tắc về quản trị nhà nước rất rộng về nhiều mặt. Về Kinh tế, cần thúc đẩy công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong hoạt động của nhà nước và tính hiệu quả trong quản lý các nguồn lực công. Về xã hội, cần đảm bảo sự tham gia bình đẳng của người dân và các nhóm xã hội trong quá trinh ra quyết định và hoạt động quản lý nhà nước và xã hội. Về chính trị, cần tăng cường nguyên tắc pháp quyền, đảm bảo quyền con người. Quá trình quản trị tốt là chất lượng của sự tham gia thiết yếu để đảm bảo vệ chính trị, xã hội và các ưu tiên của mặt kinh tế dựa trên sự đồng thuận rộng rãi trong xã hội và đảm bảo tiếng nói của sự loại trừ, người nghèo và nhóm người dễ 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan